Tinh Thần Nguyễn-Chí-Thiện Sống Mãi Trong Lòng Dân

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

nguyen chi thien, nguyễn chí thiện

Di ảnh nhà thơ Nguyễn-Chí-Thiện – hình của Quỹ tù-nhân lương-tâm

 

Chiều Thu bến Nhà
thơ phúng điếu hương hồn thi sĩ Nguyễn Chí Thiện

Nguyễn Chí Thiện bạn tù năm đó
Ông ra đi trời đổ cơn mưa
Nhớ ông một thuở xa xưa
Thuốc lào mấy điếu đưa qua kẽm rào…

Mắt lại kém bụng teo đói thắt
Thấy gì đâu vũng đất thâm sâu
Cảm thông nhặt được tình nhau
Lờ mờ khung cưả tò vò xót xa

Còng số tám vật vờ loạng choạng
Hai bóng ma quờ quặng chập chờn
Cùng nhau kiếp nạn căm hờn
Tôi Nam ông Bắc lệ tuôn đôi dòng

Hai xà lim thê lương ảm đạm
Cách bức tường thương cảm bi ai
Tù nhân lũ lượt mãi hoài
Sa cơ lỡ vận đêm dài âm u

Tôi hải ngoại trở về phục quốc
Còn ông thì nỗi nhục hắc nô
Oán thằng nói láo tự do
Nên ông khạc đạn dùng thơ bắn thù…

Giưã canh khuya ngâm nga ông đọc
Giọng khàn khàn lúc đục khi trong
Tôi nghe mà thấy mủi lòng
Vài câu chuyển vận xót thương não nùng

Nàng thơ dậy thênh thang hưng phấn
Bóng cai tù lấn cấn dép râu
Rình mò nghe trộm vài câu
Thì thào chó suả gầm gừ hành lang…

Nàng thơ bỗng lăn quay ngất xỉu
Vờ lặng đi chẳng nói chẳng rằng
Dòng đời trôi nổi hành trang
Vòng quay Âu – Úc võ vàng tấm thân…

Ta lại gặp ưá tràn dư lệ
Đất Hoa Kỳ lặng lẽ hoàng hôn
Giọng ông khàn đục tủi hờn
Mắt ông vẫn kém thơ tuôn nghẹn ngào

Thơ đúc đạn xuyên vào não trạng
Hai bảy năm đằng đẵng ngồi tù
Mười năm tôi lãnh cũng dư
Chuyện đời gãi ghẻ mịt mù sương tan…

Miễn hồn vẫn sắt son sông núi
Trăm con sông biển mẹ theo dòng
Muà xuân vũ trụ chung lòng
Ngồi nhau bên cạnh tình thương nhân loài

Chẳng cần đuổi muỗi ruồi nó bám
Rít thuốc lào da xám mặt xanh
Đoá hoa điạ ngục trên cành
Hiến dâng tổ quốc trường thành ta xây

Tôi gục xuống đắng cay chiếc bóng
Có mấy vần lẽ sống gửi ông
Đời ta giấc mộng vô thường
Trọn tình chiến hữu quê hương giống nòi…

Hồn phiêu bạt chân trời xa lạ
Hay nơi đâu trên quả điạ cầu
Tôi nay cũng bạc mái đầu
Lá vàng rơi rụng chiều thu bến nhà…!!!

Thơ phỏng theo thơ tự do cuả ông Võ Đại Tôn từ Úc Châu:” Tạm Biệt Bạn Tù Nguyễn Chí Thiện ”
6.10.2012 Lu Hà

Tôi đả cảm tác ra khi bài thơ cuả ông Võ Đại Tôn đăng trên mạng Facebook, viết ra từ cõi lòng mình nghe mà xót xa cay đắng vô cùng.

Tôi đã suy nghĩ hay là mình cảm tác hay chuyển thể bài thơ để làm kỷ niệm và cũng một phần nào an ủi hương hồn ông Nguyễn Chí Thiện. Theo như phán đoán linh cảm cuả tôi rất có thể ông Nguyễn Chí Thiện, bị người ta đặt điều vu khống bịạ chuyện nghi oan.Tôi đã xem mấy băng clip về ông thấy ông nói năng rất chững chạc đàng hoàng, rất có tính thuyết phục lôi cuốn người nghe khi ông nói về tội ác cuả ông Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam. Thế nhưng đến bây giờ vẫn có người nghi ngờ ông không phải là tác giả cuả tập thơ mà ngày xưa viết trong tù? Họ lập luận nếu là thi sĩ thì lúc nào cũng làm được ra thơ mà sao bây giờ lại không, sau nhiều năm sống ở Mỹ? Theo tôi: Tạng như ông Thiện chỉ có khả năng làm thơ khi bị đày đoạ tủi nhục, một khi đã sang Mỹ tuổi già sức yếu, cuộc sống bình an phẳng lặng rất khó có cảm hứng để làm thơ phản kháng.

Ông là người cô đơn chỉ từng trải chuyện ở tù lăn lóc, còn chuyện ngoài đời như yêu đương tình ái quan hệ với đàn bà, xã hội có thể ông có một khoảng còn trống vắng?

Thôi để thời gian trả lời vậy? Ông Nguyễn Chí Thiện là ngục sĩ hay gian sĩ.

Xin cám ơn ông Võ Đại Tôn, bài thơ ông làm từ đáy lòng ông nên rất cảm động nghẹn ngào.

Thưa ông! Đọc thơ ông tôi biết thưà ông không phải là nhà thơ chuyên nghiệp đã dày công tu luyện về đạo làm thơ, cũng như ông Nguyễn Chí Thiện cũng chỉ làm thơ khi linh hồn bị dồn nén đến tận cùng cuả uất ức khổ đau.

Tôi chưa có dịp đọc hết khoảng 400 bài thơ cuả ông Nguyễn Chí Thiện mà chỉ chiêm nghiệm được một vài bài thôi. Thật lòng mà nói cả hai ông đều là những nhà đấu tranh chính trị và am hiểu thời cuộc, về bộ mặt thật cuả chế độ cộng sản.

Ông Nguyễn Chí Thiện là loại người sinh ra không phải để làm thơ hay thi sĩ gì cả. Chỉ vì quá căm hận chế độ vô nhân đạo mà từ đáy lòng ông bật ra thơ? Nhưng thơ viết từ trái tim nỗi lòng nên cũng hay.

Tôi nghĩ: Ông Nguyễn Chí Thiện không có thời gian và điều kiện để nghiền ngẫm uyên bác về luật thơ, ông bị lao tù khi còn quá trẻ. Thời học sinh chắc ông cũng đọc thơ cũng thuộc nhiều thơ cuả các nhà thơ thời tiền chiến. Thơ ông Nguyễn Chí Thiện đọc để mà cảm thông chứ thơ ông cũng chẳng có gì gọi là cao siêu nghệ thuật gì cho cam. Nhưng là thơ ngục sĩ nên nó có giá trị lịch sử tố cáo cả một chế độ.

Ông Nguyễn Chí Thiện rất có thể chỉ có khả năng làm được thơ đấu tranh kiểu này nếu ông vẫn cứ ngồi tù, vẫn cứ bị đoạ đầy. Vì thơ ông viết phần lớn là thơ tự do, cũng có vài bài 8 chữ, hay 7 chữ hay lục bát gì đó?

Tôi rất thương cảm ông Nguyễn Chí Thiện, cảm phục tinh thần bất khuất cuả ông chứ còn ngồi đọc cả 400 bài thơ cuả ông Thiện tôi không có hứng thú lắm, vì không hợp với cảm thụ về văn chương nghệ thuật cuả riêng cá nhân tôi. Nhưng với số đông đồng bào theo tôi nên đọc rất bổ ích để thấy rõ bộ mặt thật dã man cuả chế độ cộng sản. Còn tôi cũng như ông Thiện đã thưà hiểu chế độ cộng sản nó khốn nạn như thế nào về lý thuyết và thực tế. Tôi tâm sự thực lòng chứ chẳng kiêu ngạo gì về cái chuyện thơ phú. Thời gian dỗi tôi chỉ đọc thơ cuả vài nhà thơ thời tiền chiến, tôi rất thích thơ cổ đường thi và thơ Nguyễn Du ông ạ.

Theo tôi với thơ kiểu này rất phù hợp với khả năng và trình độ cuả ông Nguyễn Chí Thiện phải chịu hoàn cảnh tù đày khốc liệt và thơ chỉ hay về mặt giá trị lịch sử, chính trị còn về mặt nghệ thuật thủ pháp vào loại trung bình. Còn những ai bảo là thơ ăn cắp là cố tình vu cáo, bởi vì nội dung thơ rất phù hợp với tính cách tâm lý cuả ông Thiện. Người nào thơ ấy rất hợp với nhau. Đó là phán đoán nhận xét trên cơ sở biên chứng khách quan cuả riêng tôi cảm nhận như vậy.

                                         ——————————————————————

Nguyên tác thơ Võ Đại Tôn, khi biết tin ngục thi sĩ Nguyễn Chí Thiện đã qua đời tại Quận Cam, California.

Tạm biệt bạn tù Nguyễn Chí Thiện

Một vài bi thuốc lào
Ném qua khung rào kẽm.
Ông bạn ơi,
Bọn mình bụng teo mắt kém
Tôi có thấy gì đâu?
Trong vũng lầy địa ngục thâm sâu
Tôi chỉ nhặt được Tình nhau, thông cảm.
Tôi: xà lim số 8, tay trong còng số 8,
Còn Ông nằm số 7, thở ra Thơ.
Thoáng nhìn nhau qua khung cửa tò vò
Hai bóng ma chập chờn, lạng quoạng.
Ông miền Bắc, tôi miền Nam, chung kiếp nạn
Cùng toàn dân lũ lượt vào tù.
Tôi từ hải ngoại, vượt rừng núi thâm u
Trong một phút sa cơ đành ôm hận.
Giờ quanh tôi chỉ toàn rệp rận
Nhưng còn Thơ – và Bạn mới trong Đời.
Giữa đêm khuya, thoáng nghe giọng khàn hơi
Gõ vách tường, Ông “trao” vần, chuyển vận.
Bóng tối trùm đen, tôi “cảm” lòng hưng phấn
Đánh thức Nàng Thơ, “đáp” lại vài câu.
Bóng cai tù, sè sẹ dép râu
Đang rình rập. Nàng Thơ vờ im tiếng.
…….
Dòng sông Đời nước trôi bến chuyển
Ta lại cùng nhau chung kiếp lưu vong.
Từ Mỹ sang Âu, đến Úc, quay vòng
Cười kể lại chuyện thuốc lào, gai kẽm.
Giọng Ông vẫn khàn, mắt Ông vẫn kém
Nhưng còn Thơ, đúc đạn xuyên thù.
Ông : hai mươi bảy năm tù
Tôi : mười năm có lẻ.
Nhưng sá gì chuyện Đời, như gỡ ghẻ,
Miễn lòng son dâng hiến Núi Sông.
Rồi Sông Con về Biển Mẹ xuôi dòng
Khi Đất Nước bừng Xuân cùng vũ trụ.
Giờ ngồi bên nhau, cười vang vui thú
Không cần xua ruồi muỗi vẫn vây quanh.
Ta rít thuốc lào, mặt vẫn còn xanh,
Nhưng tim nóng, vẫn hồng chung huyết mạch.
Dân Tộc ta còn nhục nhằn, đói rách
Nhưng còn Hoa từ đáy ngục bừng lên. (Hoa Địa Ngục)
Một Đời Thơ không màng đến tuổi tên
Chỉ Tâm Nguyện góp hương đường Tổ Quốc.
…….
Rồi hôm nay, tôi cảm lòng cô độc
Nhìn mây trời thấy bóng của Ông xa.
Thơ của Ông: từng viên đạn vút qua
Nghe tiếng rít, cùng hơi cười khản giọng.
Tôi cúi nhìn, chỉ thấy còn một bóng
Bạn tù xưa, còn lại chỉ riêng tôi.
Thơ còn đây, xin gửi mấy vần thôi,
Ông đã hiểu lòng tôi qua Lẽ Sống:
– Đời Vô Thường, chỉ là hơi thoáng mộng
Nhưng trọn Tình, xin giữ mãi, bên nhau.
Dù bến Quê hay lưu lạc địa cầu
Ta vẫn mãi còn Thơ vì Dân Tộc !
Tạm biệt Ông, Đời sẽ qua cơn lốc
Trước sau gì cũng hẹn Bến Xuân Quê !

                                                                              (Úc Châu 3.10.2012)

                                             ———————————————————-

Cảm Thương Ông Nguyễn Chí Thiện

Cảm thương Nguyễn Chí Thiện
Chẳng hiểu ra làm sao
Thiên hạ cứ đồn thổi
Ông không biết làm thơ?

Ông là thi sĩ cuội
Cộng sản bày đặt ra
Treo đầu dê thịt chó
Hoa điạ ngục lệ nhoà

Tôi thấy ông rất hiền
Đôi mắt buồn triền miên
Thôi đành an nghỉ vậy
Rồi đây sẽ trắng đen

Lịch sử sẽ có ngày
Khui ra hết gian ngay
Trong hồ sơ lưu trữ
Cộng sản sẽ phơi bày

Có đôi dòng ngắn ngủi
Thôi vui lòng ra đi
Phiêu diêu cùng sông núi
Quên bao điều thị phi

Cây ngay dù chết đứng
Trước sau vẫn là cây
Cây cong dù mơn mởn
Đâu phải là cây ngay…!

                                                                                (6.10.2012 Lu Hà)

                               ——————————————————————-

Kính Viếng Ngục Sĩ Nguyễn Chí Thiện

Vì hoàn cảnh bắt buộc
Nguyễn Chí Thiện làm thơ
Bùng lên thành ngọn đuốc
Thiêu cháy lũ côn đồ

Hồ Chí Minh điên đảo
Đống tro tàn lịch sử
Giết hại vạn đồng bào
Buá liềm pha máu đỏ

Hai bảy năm tù tội
Trần truồng dưới bầy sói
Tái tê nỗi khổ đau
Oan hồn người chiến sĩ

Thơ đúc thành viên đạn
Nã vào đầu độc tài
Mác Lê trò nghiã vụ
Cộng sản màu bi ai

Cuối đời đầy chán nản
Chẳng thiết tha trần gian
Chúng vu khống bỉ ổi
Đau xót cho toàn dân

Phúc âm hồn phảng phất
Hoa điạ ngục còn đây
Bao nỗi niềm day dứt
Chan chưá tình vơi đầy

Ôi cuộc đời thi sĩ
Âm vang hồn ngục sĩ
Chống áp bức cường quyền
Dấu in hằn thế kỷ

Kính viếng ông bài thơ
Nén hương lòng tiễn đưa
Cúi đầu đầy cảm phục
Mây gió sầu thiên thu!

                                                                               7.10.2012 Lu Hà

Chuột Cũng Thất Kinh
chuyển thể thơ Nguyễn Chí Thiện: Từ Buổi Đảng Về

Từ buổi đó đất trời tăm tối
Khách đến nhà chỉ thấy mưa sa
Ngồi chơi xơi nước lệ nhoà
Làm chi có miếng thịt gà mời nhau

Già tới trẻ khát khao tí mỡ
Lũ chó mèo tiu ngỉu chạy đi
Nhìn nhau bán tín bán nghi
Xóm làng eo óc xầm xì nhỏ to

Chiếc kéo đảng từng ô tem phiếu
Cắt nhỏ từng lòng mẹ tình cha
Nỗi niềm bát điã xót xa
Thai trong bụng mẹ phọt ra bên ngoài…

Ngày giỗ tết quên người trong mả
Chao ôi buồn mất cả tình ca
Điệu ru trìu mến thiết tha
Thuở xưa bú mớm mặn mà trong môi

Trẻ con đói cọc còi lam lũ
Còn đâu bi, chơi đáo khăng cù
Sáo diều vắng vẻ chiều thu
Chỉ còn âm hưởng vi vu gió luà

Còn luyến tiếc đi tù lũ lượt
Thiếu chi nơi thảm thiết hoang vu
Rừng già vàng võ lá thu
Chặt vầu tre nưá lán tù ngổn ngang

Đời khổ nhục chất chồng sao kể
Cụ Mác ơi mai miả đủ rồi
Thiên đàng xây dựng tả tơi
Đến con chuột cũng rã rời thất kinh

                                                                              (29.4.2012 Lu Hà)

                    ——————————————————————————-

                             Sau đây là một lời tâm sự để thay cho lời kết luận:

Cám ơn Hoà Đàm cùng chia sẻ với anh! Thật ra anh cũng biết rất ít về ông Nguyễn chí Thiện, chỉ tình cờ đọc trên mạng thấy ông ấy rất nổi tiếng ở Mỹ và xem vài băng clip nghe ông ấy nói chuyện rất hay rồi lại thấy hai nhóm người ca ngợi và đả kích ông ấy. Anh từ nhận định khách quan và cảm giác tâm linh chủ quan anh thấy ông Thiện là người rất tốt, độ lượng nhưng người ta lại hẹp hòi với ông ấy. Họ lập luận căn cứ vào lời thơ trong tập vô đề thì lúc đó ông Thiện vẫn chưa sinh hoặc chỉ khoảng 13 hay 15 tuổi gì đó, và nhân vật trong thơ tả là bị bệnh ho lao ra máu nhưng ông Thiện có bị bệnh lao đâu? Thật lẩm cẩm hồ đồ vô cùng, khi làm thơ người thi sĩ có quyền hư cấu. Ví dụ một ông lão 90 tuổi vẫn có thể nói: Trời ơi đẹp quá tuổi hai mươi – Anh đã yêu em từ nụ cuời. Hay chàng thanh niên mới 20 vẫn có thể nói: Nưả đời lê bước đường đau khổ…. Và họ lập luận theo kiểu dân Bắc Kỳ: chỉ vào tuổi 50 mới nên nói câu ấy. Họ cứ vạch lá tìm sâu kiểu ấy thì ông Thiện cũng phải chịu cứng cãi làm sao được với cả hàng chục cái miệng toàn là những người sành sõi trong văn đàn. Họ bảo đây là một nghi vấn văn học cuả thế kỷ vân vân và vân vân…

Nghe nói thơ ông Thiện được các tổ chức nhân quyền quốc tế dịch ra lắm thứ tiếng: Anh, Pháp, Đức,Tàu,v. v… và còn tặng giải cho ông ấy hiển hách lắm. Vì vậy một nhóm người Việt Nam có tính đa nghi kỵ lập luận ông Thiện có thể ăn cắp thơ như ông Hồ Chí Minh trong vụ Ngục Trung Nhật Ký, họ theo dõi từng cử chỉ lời nói cuả ông Thiện để suy ra là cùng đồng đảng Việt Tân gì đó, là tình báo cộng sản gài vào tung ra hải ngoại để đánh phá cộng đồng. Có người còn thách đố: Nếu ông Thiện giỏi lắm thơ thì đấu thơ với tôi, kiểu nào tôi cũng chiều, thể nào cũng chơi…

Khổ lắm anh đã đọc khoảng hơn hai chục bài và biết ngay Nguyễn Chí Thiện không có thiên hướng sinh ra để làm thơ. Mặc dù ông rất thích thơ và yêu thơ. Nhưng luật thơ cơ bản ông không nắm chắc mà chỉ làm thơ theo kiểu ngẫu hứng, nó đánh mình mình không đánh lại được nó thì mình kêu ra thơ, vần vè theo kiểu mình. Chính từ cái đáy vực sâu thẳm thẳm mà kêu lên những tiếng ai oán cuả linh hồn và ta gọi là thơ.

Thật ra anh cũng không thích thơ ông Nguyễn Chí Thiện lắm vì ông ấy viết toàn theo lối tự do, hay những bài độc vận theo kiểu nhà quê hút thuốc lào chơi chữ nghiã. Nhưng thơ viết rất chí khí bất khuất mọi người nên trân trọng vì đây là thơ đấu tranh vạch mặt chế độ độc tài bất nhân. Nói thật với em anh là dân Bắc nhưng anh không có ai là bạn thân cả trừ hai thằng bạn tuổi thiếu thời còn đi học và đã chết rồi. Anh rất thích tính người miền Nam như ba em hay anh Thanh Hoàng.

Ngay từ khi còn đi học mới là học sinh phổ thông cấp ba thôi mà anh đã có kẻ thù. Kẻ thù rất vớ vẩn vì chúng nó ghét anh học quá giỏi nhất là môn toán. Có một thằng tên là Dương nó bị bẹp đầu từ nhỏ nên bạn học cho nó cái hỗn danh là Dương Trê. Nó và một thằng con ông giám đốc nhà máy thuốc lá thăng Long ở mạn Ngã Tư Sở bây giờ, chúng nó đánh anh chỉ vì trong khi làm bài kiểm tra anh không cho nó quay cóp bài và cả hai thằng đều bi anh đánh cho tơi tả… Sau đó chúng thuê một thằng du côn anh chị đánh anh thưà sống thiếu chết khi vưà tan học trên đường về nhà…

Đúng là anh hùng đa hoạn nạn, ngu si hưởng thái bình. Hồ chí Minh và đảng cộng sản chỉ ra công trồng cây trồng người ra một lũ người một thế hệ bất tài và hẹn mọn như vậy đó.

Nên đời anh trót sinh ra ở đất Bắc và cũng ít bạn tri âm tri kỷ tri bỉ em ạ. Chúc em gái vui vẻ bình an và hạnh phúc.

                                                                                 Trúc-Lâm Yên-Tử