THIẾU TƯỚNG NGUYỄN KHẮC BÌNH/ QL VNCH

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

 

Nguyễn Khắc Bình (1931), nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên ở trường Sĩ quan Trừ bị được mở ra ở miền Nam Việt Nam dưới thời Quốc gia Việt Nam.[2] Ra trường, ông được chọn về đơn vị Bộ binh. Tuy nhiên, sau này ông đảm trách những chức vụ có chuyên môn quân sự ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Sau cùng ông được giao phụ trách lĩnh vực Tình báo Trung ương và An ninh Nội chính. Ông ở chức vụ này cho đến cuối tháng 4 năm 1975.

TIỂU SỬ & BINH NGHIỆP

Ông sinh ngày 18 tháng 1 năm 1931, trong một gia đình điền chủ khá giả tại Ba TriBến Tre, miền tây Nam phần, Việt Nam. Thiếu thời, ông học Tiểu học ở Bến Tre, khi lên Trung học ông được gửi sang Mỹ Tho học ở trường Trung học Collège de Mytho.[3] Năm 1950, ông tốt nghiệp với văn bằng Tú tài bán phần Pháp (Part I).

QUÂN ĐỘI LIÊN HIỆP PHÁP

Tháng 9 năm 1951, thi hành lệnh động viên ông nhập ngũ vào Quân đội Liên hiệp Pháp, mang số quân: 51/121.145. Theo học khóa 1 Lê Văn Duyệt tại trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, khai giảng ngày 1 tháng 10 năm 1951. Ngày 1 tháng 6 năm 1952, mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy. Ra trường, ông được điều động đi phục vụ đơn vị Bộ binh với chức vụ Trung đội trưởng thuộc Đại đội 3, Tiểu đoàn 1 Việt Nam. Cuối năm, đơn vị này chính thức được chuyển biên chế sang Quân đội Quốc gia.

QUÂN ĐỘI QUỐC GIA VIỆT NAM

Tháng 4 năm 1953, sau một thời gian chuyển sang Quân đội Quốc gia, ông được về phục vụ tại Phòng 6 Bộ Tham mưu Quân khu I.[4] Tháng 10 cùng năm, ông được thăng cấp Trung úy và được cử theo học trường Tình báo. Đến tháng 3 năm 1954, ông được thăng cấp Đại úy tại nhiệm. Tháng 6 cùng năm, ông được cử giữ chức vụ Chánh sở Liên lạc thuộc Nha Tổng Nghiên huấn Bộ Quốc phòng.[5]

QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG HÒA

Tháng 5 năm 1955, ông được thăng cấp Thiếu tá tại nhiệm. Cuối tháng 10, Quân đội Quốc gia được đổi tên thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông tiếp tục phục vụ cơ cấu mới này. Giữa năm 1956, ông được cử theo học khóa 1 Chỉ huy và Tham mưu tại trường Đại học Quân sự, cuối năm tốt nghiệp Thủ khoa. Đầu năm 1957, ông được cử giữ chức vụ Trưởng phòng 3 tại Bộ tư lệnh Quân đoàn II.

Tháng 4 năm 1958, ông được cử đi du hành quan sát tổ chức các đại đơn vị của Quân đội Đại Hàn sau chiến tranh Nam, Bắc Triều Tiên. Tháng 6 cùng năm về nước, ông được giữ chức vụ Trưởng phòng Tình hình trong Văn phòng Thường trực Quốc phòng tại Phủ Tổng thống. Đến tháng 5 năm 1959, ông được cử đi du hành quan sát và nghiên cứu chiến trường Ai Lao và Hạ Lào. Tháng 11 cùng năm, ông được giữ chức vụ Tham mưu phó Hành quân trong Bộ tư lệnh Đệ ngũ Quân khu.[6] Đến đầu năm 1960, ông chuyển nhiệm trở về đơn vị Bộ binh, được cử giữ chức vụ Tham mưu trưởng Sư đoàn 21 Bộ binh. Giữa năm 1961, chuyển đi làm Tham mưu trưởng Sư đoàn 23 Bộ binh. Tháng 5 năm 1963, chuyển sang lĩnh vực “Hành chính Quân sự”, ông được bổ nhiệm chức vụ Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng tỉnh Định Tường thay thế Trung tá Trần Hoàng Quân.[7]

Đầu tháng 2 năm 1964, sau cuộc Chỉnh lý nội bộ của tướng Nguyễn Khánh tại Chính quyền Trung ương, ông được thăng cấp Trung tá và được cử giữ chức vụ Phụ tá Đặc biệt Văn phòng Tổng Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham mưu. Tháng 9 cùng năm, chuyển sang làm Phụ tá Quân sự Văn phòng Đổng lý Bộ Quốc phòng. Tháng 5 năm 1965, ông được cử đi làm Tuỳ viên Quân sự cạnh Tòa Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Cộng hòa Liên bang Đức.

Tháng 10 năm 1967, ông được triệu hồi về nước để giữ chức vụ Bí thư cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Đến tháng 9 năm 1968, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Đặc uỷ trưởng Phủ Đặc uỷ Trung ương Tình báo thay thế Trung tướng Linh Quang Viên. Tháng 6 năm 1969, ông được thăng cấp Đại tá tại nhiệm và được cử đi du hành quan sát tổ chức Trung ương Tình báo các Quốc gia: Hoa Kỳ, Đại Hàn và Trung Hoa Quốc gia.

Tháng 9 năm 1971, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia kiêm Đặc uỷ trưởng Trung ương Tình báo thay thế Thiếu tướng Trần Thanh Phong. Ngày Quốc khánh Đệ Nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1972, ông được thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm.

  • Bộ Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia vào thời điểm tháng 4/1975, nhân sự được phân bổ trách nhiệm như sau:
    -Tư lệnh – Thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình
    -Phó tư lệnh – Chuẩn tướng Bùi Văn Nhu
    -Phụ tá Đặc trách Điều hành – Chuẩn tướng Trương Bảy
    -Phụ tá Đặc trách An ninh – Chuẩn tướng Nguyễn Văn Giàu
    -Phụ tá Đặc trách Cảnh sát Đặc biệt – Chuẩn tướng Huỳnh Thới Tây
    -Chỉ huy trưởng Cảnh sát Đô thành Sài Gòn – Chuẩn tướng Trang Sĩ Tấn

1975

Ngày 1 tháng 2 ông được thăng cấp Thiếu tướng tại nhiệm.

Ngày 30 tháng 4, ông cùng gia đình di tản khỏi Việt Nam. Sau đó sang định cư tại San Jose, Tiểu bang California, Hoa Kỳ.

HUY CHƯƠNG

-Bảo quốc Huân chương đệ tứ đẳng

-Được tặng thưởng nhiều huy chương Quân sự, Dân sự của Việt Nam Cộng hòa

-Một số huy chương Quân đội Liên hiệp Pháp, Hoa Kỳ, Trung hoa Dân quốc và Đại Hàn Dân quốc

GIA ĐÌNH

  • Phu nhân: Bà Bùi Tuyết Vân

Ông bà có 4 người con (2 trai 2 gái).

Miền Nam và Sài Gòn Xưa

Thien Kinh Duong  · rnSotd8PlA90pfM330t 0 i t a:h10570ri3h  · 

Tháng 4 Nhớ Người

Thắp Nén Hương Tưởng Niệm Anh Hùng Vô Danh VNCH

Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh

Nguyễn Duy Hinh (1929), nguyên là một tướng lĩnh gốc Kỵ Binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên và duy nhất ở trường Sĩ quan Trừ bị do Chính phủ Quốc gia Việt Nam với sự hỗ trợ của Quân đội Pháp mở ra vào đầu thập niên 1950 tại Bắc phần Việt Nam, nhằm mục đích đào tạo sĩ quan người Việt phục vụ Quân đội Quốc gia Việt Nam trong Quân đội Liên hiệp Pháp. Ra trường ông gia nhập binh chủng Thiết giáp. Ông đã tuần tự đảm trách từ chức vụ Chi đội trưởng cho đến Chỉ huy phó binh chủng này. Sau chuyển sang lĩnh vực Quân huấn và Tham mưu. Sau cùng ông là Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh.

TIỂU SỬ & BINH NGHIỆP

Ông sinh ngày 16 tháng 8 năm 1929, trong một gia đình Nho học có đời sống kinh tế khá giả tại Kim Động, tỉnh Hưng Yên, miền Bắc Việt Nam. Thời niên thiếu, khi lên bậc Trung học, ông học Đệ nhất cấp tại trường Trung học Thái Bình. Năm 1945 thi đậu bằng Thành chung. Sau đó, lên Hà Nội học Trung học Đệ nhị cấp chương trình Pháp. Năm 1950, ông tốt nghiệp với văn bằng Tú tài toàn phần (Part II). Sau này, trong quân ngũ ông ghi danh vào Đại học Luật khoa học hàm thụ, đậu thêm bằng Cử nhân Luật.

QUÂN ĐỘI LIÊN HIỆP PHÁP

Ngày 15 háng 9 năm 1951, thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Liên hiệp Pháp, mang số quân: 49/300.415, Theo học khóa 1 Lê Lợi tại trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định,[2] khai giảng ngày 1 tháng 10 năm 1951. Ngày 1 tháng 6 năm 1952 mãn khóa tốt nghiệp Thủ khoa với cấp bậc Thiếu úy. Ra trường, ông được chọn vào binh chủng Thiết giáp và tiếp tục theo học lớp căn bản Thiết giáp tại Trung tâm Huấn luyện Thiết giáp Viễn Đông ở Vũng Tàu, tốt nghiệp Thủ khoa.

QUÂN ĐỘI QUỐC GIA VIỆT NAM

Đầu năm 1953, sau khi mãn khóa chuyên ngành, về phục vụ Quân đội Quốc gia, ộng được cử làm Chi đội trưởng thuộc Chi đoàn 3 Thiết giáp Thám thính đồn trú tại Nam Định. Tháng 2 năm 1954, ông được cử làm Chi đoàn trưởng Chi đoàn 3. Bốn tháng sau ngày ký Hiệp định Genève (20 tháng 7), tháng 11 cùng năm ông được thăng cấp Trung úy và được cử đi du học lớp Thiết giáp cao cấp tại trường Kỵ binh Saumur, Pháp.

QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG HÒA

Tháng 6 năm 1955, mãn khóa về nước, ông được chỉ định vào chức vụ Phụ tá Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Thiết giáp trong Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia. Cũng trong năm này Chính thể của nền Đệ nhất Cộng hòa ra đời, ông chuyển sang phục vụ cơ cấu mới là Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Đầu năm 1956, ông được cử đi du học lớp Thiết giáp cao cấp tại trường Thiết giáp Fort Knox, Tiếu bang Kentucky, Hoa Kỳ. Tháng 11 cùng năm về nước, ông được thăng cấp Đại úy và được cử giữ chức vụ Chỉ huy trưởng trường Thiết giáp tại Liên trường Võ khoa Thủ Đức, thay thế Thiếu tá Trần Văn Ái.[3]

Cuối năm 1957, ông nhận lệnh bàn giao chức vụ Chỉ huy trưởng trường Thiết giáp lại cho Đại úy Lương Bùi Tùng.[4] Đầu năm 1958, ông được thăng cấp Thiếu tá và được chỉ định làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 2 Thiết giáp đóng tại Mỹ Tho, thay thế Thiếu tá Lâm Quang Thơ. Tháng 10 năm 1959, ông được cử đi du học lớp Tham mưu cao cấp tại Đại học Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ[5]. Giữa năm 1960 về nước, ông được cử làm Chỉ huy phó Bộ chỉ huy Thiết giáp. Đến đầu năm 1962, ông chuyển sang Trường Bộ binh Thủ Đức giữ chức Tham mưu trưởng kiêm Trưởng khối Quân huấn.

Sau cuộc đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm ngày 1 tháng 11 năm 1963. Ngày 2 tháng 11, ông được thăng cấp Trung tá tại nhiệm. Đầu tháng 2 năm 1964, sau cuộc Chỉnh lý các tướng lĩnh trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng của tướng Nguyễn Khánh, ông rời Trường Bộ binh Thủ đức để đi giữ chức vụ Tham mưu trưởng Quân đoàn III[6].

Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1966, ông được thăng cấp Đại tá và chuyển về Bộ Tổng tham mưu giữ chức vụ Tham mưu trưởng trong Bộ tư lệnh Địa phương quân & Nghĩa quân. Cuối năm, chuyển ra Quân khu 1 và được cử giữ chức Tư lệnh Biệt khu Quảng-Đà.[7] Đầu năm 1968, chuyển sang Bộ tư lệnh Quân đoàn I giữ chức vụ Tham mưu trưởng Quân đoàn do Thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm làm Tư lệnh.

Tháng 10 năm 1969, ông được cử theo học khóa 1 Cao đẳng Quốc phòng. Đầu năm 1970, mãn khóa ông đậu Thủ khoa. Đầu tháng 6 cùng năm, ông được thăng cấp Chuẩn tướng. Sau đó thuyên chuyển về Quân khu 4, ông được chỉ định chức vụ Tư lệnh Phó Lãnh thổ Quân đoàn IV do Thiếu tướng Ngô Quang Trưởng làm Tư lệnh.

Đầu tháng 5 năm 1972, ông được chuyển trở lại Đà Nẵng giữ chức vụ Tham mưu trưởng Quân đoàn I (Tư lệnh Quân đoàn là Trung tướng Ngô Quang Trưởng) thay thế Đại tá Hoàng Mạnh Đáng[8]. Thượng tuần tháng 6 cùng năm, được lệnh bàn giao chức vụ Tham mưu trưởng Quân đoàn I lại cho Thiếu tướng Hoàng Văn Lạc, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 3 bộ binh sau khi đã tái trang bị, thay thế Chuẩn tướng Vũ Văn Giai.[9] Đầu tháng 7 năm 1973, ông được thăng cấp Thiếu tướng tại nhiệm.

  • Sư đoàn 3 Bộ binh vào thời điểm tháng 3/1975, nhân sự của Bộ tư lệnh Sư đoàn và Chỉ huy các Trung đoàn được phân bổ trách nhiệm như sau:

-Tư lệnh – Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh
-Tư lệnh phó – Đại tá Khưu Đức Hùng[10]
-Tham mưu trưởng – Đại tá Nguyễn Huân
-Chỉ huy Pháo binh – Trung tá Nguyễn Hữu Cam[11]
-Trung đoàn 2 – Đại tá Vũ Ngọc Hưởng[12]
-Trung đoàn 56 – Đại tá Vĩnh Dác[13]
-Trung đoàn 57 – Trung tá Tôn Thất Mãn

1975 CÁC ĐƠN VỊ CHỦ LỰC CỦA QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA TẠI QUÂN KHU 1 VÀ 2 DI TẢN VỀ PHÍA NAM. ÔNG ĐƯỢC LỆNH RÚT SƯ ĐOÀN VỀ PHÒNG TUYẾN SÔNG THU BỒN LÀM NÚT CHẬN CHO QUÂN BẠN RÚT LUI. TUY NHIÊN, PHÒNG TUYẾN NHANH CHÓNG TAN VỠ. SƯ ĐOÀN TIẾP TỤC RÚT VỀ TUYẾN PHÒNG THỦ PHƯỚC TUY. KHI QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA HẦU NHƯ ĐÃ RƠI VÀO TÌNH TRẠNG TAN RÃ.

Chiều ngày 29 tháng 3 năm 1975, ông rời đơn vị, đưa gia đình lên Cơ xưởng hạm Vĩnh Long HQ-802, từ Vũng Tàu di chuyển ra khơi đến Đệ thất Hạm đội của Mỹ trên biển Thái Bình Dương, sau đó được di tản đến Hoa Kỳ.

Sau khi đến Hoa Kỳ, ông cùng gia đình định cư tại Chantilly, Tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ.

HUY CHƯƠNG

Bảo quốc Huân chương đệ tam đẳng và được tặng thưởng 40 huy chương Quân sự, Dân sự và Ngoại quốc.

GIA ĐÌNH

  • Thân phụ: Cụ Nguyễn Duy Quyến (nguyên Chủ tịch Hội Khổng học)
  • Thân mẫu: Cụ Trần Thị Tuyết Trang.
  • Nhạc phụ: Cụ Hoàng Ngọc Anh (nguyên Giám học trường Trung học Chu Văn An, Sài Gòn)
  • Bào đệ: Ông Nguyễn Duy Sản (nguyên là Y sĩ Thiếu tá thuộc Cục Quân y Quân lực Việt Nam Cộng hòa).
  • Phu nhân: Bà Hoàng Thị Phương Liên (nguyên Giáo sư trường Nữ Trung học Trưng Vương, Sài Gòn).

-Ông bà có năm người con gồm 3 trai, 2 gái.