NHỮNG TRANG SỬ HÀO HÙNG CỦA HẢI QUÂN VNCH (Phan Lạc Tiếp)

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

No photo description available.

No photo description available.

No photo description available.

Ôi! Những Anh Hồn Bên Giòng Sông Cũ
(Phan Lạc Tiếp)
❤
 Trong số những người vừa cầm viết vừa cầm súng xuyên suốt mấy chục năm chiến tranh Việt Nam, nhà văn Phan Lạc Tiếp là người có cuộc đời và tâm hồn gắn bó đặc biệt với hải quân; và ông đã thể hiện thành công những gắn bó đầy tâm huyết đó qua các tác phẩm như Bờ Sông Lá Mục, Nỗi Nhớ, Hải Sử Hải Quân QLVNCH… Đọc những bài viết, những tác phẩm của ông, người đọc có dịp nhìn nhận và đánh giá cuộc chiến tranh VN ở một góc độ mới lạ, qua cuộc sống và cuộc chiến đấu vô cùng khốc liệt và hào hùng của những người lính hải quân Việt Nam. Nhân dịp nhà văn Phan Lạc Tiếp viếng thăm Úc Châu, chúng tôi trân trọng giới thiệu cùng qúy độc giả một trong những bài viết xúc động của ông nhan đề, “Ôi! Những Anh Hồn Bên Giòng Sông Cũ”, được ông viết vào cuối năm 98, đầu năm 99.

Giống nhà văn tài hoa Phan Lạc Phúc, bào huynh của ông, nhà văn Phan Lạc Tiếp cũng là người có một tâm hồn nhậy cảm, đôn hậu, óc quan sát tinh tế sâu sắc. Nhờ vậy, mặc dù bài viết của ông kể lại những biến cố đã xảy ra cách đây ngót nửa thế kỷ, người đọc vẫn bồi hồi, thương cảm và khâm phục biết ơn đối với những người lính hải quân đã hy sinh trong cuộc chiến như Đức Râu, Hoàng Hiền, Nguyễn Ngọc Bảo… Nhất là khi đọc đến đoạn thân mẫu của anh Hoàng Hiền tìm tới đơn vị để nhận lại các di vật của con, người đọc không thể không xúc động khi nhà văn Phan Lạc Tiếp mô tả người mẹ già ngồi xuống mé giường nơi người con của cụ vẫn nằm khi còn sống, để rồi “Cụ xòe bàn tay gầy vuốt lên mặt nệm. Đôi lúc bàn tay cụ dừng lại như lắng nghe, như tìm chút hơi ấm nào của con còn sót lại. Cụ ngồi khá lâu rồi đứng lên. Cụ nói: Nhà tôi cũng bị chết vì Việt Cộng, giờ lại đến nó… Cụ nói êm ả điều hòa như chuyện của ai. Mảnh sân đơn vị nắng bỏng. Cụ bước đi thong thả. Trên đầu cụ cuốn một mảnh khăn trắng dài, phủ xuống sau lưng. Bóng cụ đổ trên nền sân, cụ nắm chặt cây kiếm Hải Quân của cậu con trai trong lòng bàn tay nhăn nheo của cụ.”
Sau đây, mời qúy độc giả theo dõi bài viết của nhà văn Phan Lạc Tiếp, để rồi sau khi đọc, chúng tôi hy vọng trong tâm trí của mỗi độc giả, cũng sẽ ngưng đọng dù ít dù nhiều, hình ảnh một bà cụ, đầu cuốn mảnh khăn tang, đang bước đi thong thả qua mảnh sân nắng bỏng, với bóng đổ dài và bàn tay nhăn nheo vẫn nắm chặt cây kiếm Hải Quân, di vật của người con trai đã vị quốc vong thân…

Con ngựa Xích Thố Của Giang Lực
Trong suốt hơn 20 năm hoạt động của HQVNCH, các chiến hạm cũng như các chiến đỉnh, dù do Pháp giao lại, hay sau này do Mỹ chuyển giao, đều do Mỹ sản xuất. Chỉ riêng chiếc Scan/Fom, tiếng Việt gọi là Tuần Giang Đỉnh, là do Pháp đóng. Đây là một chiến đỉnh có nhiều đặc tính và tỏ ra rất công hiệu trong việc tuần tiễu trên sông rạch vùng Cửu Long Giang. Việt Cộng đã nhiều phen kinh hãi trước sự xuất hiện của loại chiến đỉnh này.
Trong sinh hoạt của các giang đoàn, chiến đỉnh này được gọi tắt là Fom. Hỏi tại sao lại gọi như thế, nhiều người đã trả lời, vì khi chạy, máy tầu nổ rất ròn kêu “fom, fom”. Nghe cũng có lý. Nhưng đúng tên của nó là do chữ Scan Fom, viết tắt của chữ Service technique des Constructions et Armes Navals Frances Outre-Mer. Một loại tầu được đóng để Hải Quân Pháp hoạt động ngoài nước Pháp, đặc biệt cho Đông Dương. Chiến đỉnh này dài 36 bộ, rộng độ 7 bộ, mũi nhọn, đáy tầu cũng nhọn, chạy nhanh xé nước tạo thành một vùng trũng khiến cho toàn thân tầu gần như thấp hơn mặt nước, tránh được các loại súng lớn từ bờ muốn bắn vào phần thân tầu. Cũng vì mũi nhọn, đáy nhọn, khi bị thủy lôi, sức công phá của thủy lôi tạt qua một bên, (khác hẳn với các loại chiến đỉnh đáy bằng, khi bị thủy lôi là cầm chắc đáy tầu bị phá).
Loại Fom này, được trang bị một đại liên 12ly 7 tại mũi, với dàn pháo tháp bằng thép bao quanh, đại liên này có tầm hoạt động mạnh, xa tới 5 cây số, và vòng hoạt động 220 độ về phía trước và hai bên. Trên nóc tầu có 2 đại liên 30, và sau lái 1 đại liên 30 nữa, chưa kể các loại súng nhỏ như M16, M79. Thường mỗi chiếc chỉ có 4 nhân viên. Tầu bao giờ cũng đi hai chiếc, do một hạ sĩ quan làm thuyền trưởng trông nom cả cặp tầu. Sự lanh lẹ, gọn nhẹ của chiếc Fom được ví như “con ngựa Xích Thố của Giang Lực”.

Để có một cái nhìn sống động hơn về hoạt động của chiến đỉnh này, xin theo dõi bài bút ký viết về những kỷ niệm, những nguy nan của các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam một thời vùng vẫy trong khu chiến Tiền Giang, qua trận đánh tại Ba Rài.

Đường Đi Khu Chiến

Tôi bị ra Hội Đồng Kỷ Luật trong một trường hợp thật ngộ nghĩnh, và bị đưa đi đơn vị tác chiến: Giang Đoàn 21 Xung Phong, khu chiến Tiền Giang.
Mới tới đơn vị, tin tức các nơi liên hệ đến các cuộc đụng độ giữa các đơn vị Việt Cộng và các tầu tuần tiễu mỗi lúc một tăng. Sự thương vong mỗi lúc một lớn. Quả thật là tôi có “rét” thật. “Rét” nên tôi cố gắng tìm hiểu, học hỏi các kinh nghiệm của các bạn sĩ quan cùng khóa tại đơn vị, và nhất là các kinh nghiệm của các anh em đoàn viên đã lặn lội nhiều năm tại vùng sông nước nguy hiểm này. Lúc ấy, năm 1965, anh Nguyễn Đức Bổng, khóa 10, trên tôi một khóa, làm duyên Đoàn trưởng Duyên Đoàn 33 bị nội tuyến, địch giả dân đánh cá làm quen với đơn vị, rồi giữa trưa làm lễ cúng Hà Bá, mời cả Duyên Đoàn dự tiệc, rồi đùng một cái họ nổ súng, bắn chết khá đông. Anh Bổng ở trên ghe chủ lực, cũng bị bắn chết. Tràng đạn xuyên nát ngực. Khi chúng tôi đến lấy xác anh, trời đã chiều. Con rạch Sọ Dừa, cái tên oan trái, là nơi xác anh nằm vắt vẻo bên sàn ghe. Xác anh Bổng xám ngắt và tóp lại như một đứa trẻ, vì máu ra quá nhiều. Xác anh nằm ở sàn tầu, phủ bằng một tấm chăn dạ lính. Máu từ thân thể anh vẫn tiếp tục chảy dài xuống sàn tầu và bò ngoằn ngoèo ra mé cửa sổ chiến đỉnh. Hỏa châu từ nơi nào đó bắn lên dọi sáng một vùng trời. Tôi lại nghe anh sắp sửa lấy vợ nữa. Tôi thương anh và càng thấy sợ. Tôi thì vừa lấy vợ. Hai vợ chồng hai nơi, Sài Gòn và Mỹ Tho… Tôi thương vợ tôi lắm, nên nhủ lòng: “Phải cẩn thận tối đa”.
Lúc rỗi, tôi lên Phòng Hành Quân theo dõi bản đồ Trận Liệt, ghi các vùng nguy hiểm vào sổ tay. Nhìn cho kỹ địa thế. Đọc thật kỹ ký hiệu nơi có rừng cây, nơi có dừa nước. Các nơi đã từng đụng độ. Và tôi nhận ra rằng, đa số các nơi diễn ra cuộc đụng độ mà phần thiệt hại về ta, là các khúc sông hẹp, uốn khúc. Địch nấp trong hầm bắn ra. Ta hỏa lực hùng hậu, tầm đạn xa, lại có cả loại đạn công phá, nổ khi chạm vật cứng như sắt, thân cây lúc này trở nên ít hữu hiệu. Và thời điểm các cuộc đụng độ, đa số vào khoảng 4, 5 giờ chiều. Giờ mà theo thói quen, quân ta đã lo sửa soạn ra về, máy bay khi cần khó gọi, có đến cũng khó can thiệp. Giờ của địch, như thế kể như từ 4, 5 giờ chiều cho đến 4, 5 giờ sáng.
Còn các cuộc bắn tầu, như kinh nghiệm các bạn kể lại, thường là vào ban đêm. Lúc ấy, nếu tinh ý, ta sẽ thấy “sao mà đất trời lạnh ngắt”. Lạnh ngắt vì khi bờ sông có người phục kích, chim muông không dám xà xuống đậu. Có xà xuống thấy người lại chới với bay lên. Vì thế cảnh vật bỗng trở nên vắng lặng, rờn rợn. Lúc ấy, nếu thấy một ngọn đèn thắp lấp lánh bên bờ sông, ta có nhiều phần chắc đó là “ngọn đèn nhắm”. Việt Cộng thắp ngọn đèn bên kia sông, chúng nằm bên này sông, trời tối càng tốt. Khi tầu lướt trên mặt sông, án ngữ tầm nhìn của “ngọn đèn nhắm” là bên này sông, chúng đã hờm súng sẵn, cứ việc bấm cò. Chắc như bắp. Chỉ trừ khi tên xạ thủ run tay, chậm trễ, đạn mới vượt qua sau lái.
Lúc như thế, ta mới thấy chiếc Fom hữu hiệu như thế nào. Fom, như trên đã viết, chạy nhanh, có bị bắn, đạn đi trên tầm nước, khó chìm. Thấy đèn nhấp nháy khả nghi, Fom, loại tầu đi trước và đi sát mé sông, xả tốc độ, quay 90 độ, bỏ đèn nhắm của địch sau lái, lấy đại liên 12 ly 7 bắn như mưa vào bờ đối diện. Đâm thẳng vào. Đạn đan kín trời tràn ngập nơi địch trú ẩn. Tới gần, hai đại liên 30 trên nóc tầu xả đạn quanh điểm khả nghi. Đồng thời dùng M 79 bắn vào. Đạn nổ bùng. Việt Cộng bạo thì nằm dí đó, ăn đạn nát thây. Vụt chạy thì khó tránh được rừng đạn 12ly7 và đại liên 30 bắn đuổi theo như mưa bấc.
Đức Râu, kẻ tử thù của Việt Cộng
Người cho tôi kinh nghiệm về chiến thuật phản xạ này là Trung Sĩ I Lê Phước Đức, tục gọi là Đức Râu. Anh thâm niên quân vụ khá bộn, đâu như xuất thân từ khóa I, khóa 2 Đoàn Viên, ngành Thủy Chiến Binh (Fusilier), do Pháp huấn luyện. Bạn bè anh đã có người có đai vàng trên mũ. Anh vẫn chỉ có ba chữ V trên vai áo. Anh người Nam, to con, mặt hơi rỗ, râu hàm xanh ngắt. Lúc nhàn rỗi, anh ngồi lầm lì trên tầu, bên cạnh là một thùng bia Quân Tiếp Vụ, uống tì tì, mặt đỏ râu dựng, không nói một câu. Ít ai biết về gia cảnh anh. Lúc nhàn rỗi đã thế, khi đụng trận, vừa ngồi trên nóc tầu, hai chân thòng xuống bánh lái. Một tay bấm cò đại liên 30, một tay cầm ống liên hợp điều động chiếc Fom bạn, ủi đầu vào nơi địch vừa khai hỏa. Những lúc như thế, trời chiều đã gần tắt, mây đỏ đầy trời. Anh lẫm liệt lao vào lửa đạn, uy dũng lừng lững, như Quan Vân Trường với thanh Long Đao trên mình con ngựa Xích Thố. Lúc ấy, đoàn tầu cứ việc nhẹ nhàng tiến, và lặng lẽ theo dõi cặp Fom của anh làm cỏ hai bên bờ.
Có lúc tôi đã hỏi anh: “Sao cứ ở đây hoài, đi tầu biển cho nó thay đổi cuộc sống chăng,” anh tợp một hơi bia và nói: “Ông thầy! Mấy thằng fusilier ( Chiến Binh) đi tầu là loại lính-mỡ.” Tôi phân vân hỏi: “Lính mỡ là…”” Anh đáp: “Mang tiếng là chiến binh mà đi tầu biển chỉ có việc lấy mỡ xoa vào nòng súng cho khỏi sét, chứ lính gì tụi nó…” Anh ví von đến là hay, tuy có phần hơi cường điệu… Trong đơn vị, anh là người có nhiều huy chương nhất, anh chỉ đeo có ngành dương liễu mà thôi. Các ngôi sao vàng, sao bạc, anh bảo “đồ ăn giỗ đó mà ông thầy…” Trong các cuộc hành quân tuần tiễu, có khi chỉ có một chiếc soái đỉnh, hai Quân Vận Đỉnh và hai chiếc Fom, biệt phái cho một vùng nào đó. Toán đi như thế, sĩ quan nào cũng muốn có cặp Fom của anh Đức. Bạn tôi, Trần Hữu Khánh, tay trì của Giang Đoàn nói: “Có Đức đi theo mình yên trí lắm. Có đụng mới thấy ngựa hay…”
Tôi ở Giang Đoàn có mấy tháng, đã thấy mấy lần đụng độ. Đức lúc nào cũng được nhắc đến, với các chiến lợi phẩm. Khi thì mấy khẩu CKC, Bá Đỏ…, chiến công lặt vặt ấy, anh bảo: “Thôi để cho mấy đứa em. Dù nó có ở khẩu 30 sau lái, cũng là đụng trận chứ. Cho nó có chút xanh , chút đỏ cho vui. Tôi đeo đủ rồi.”

Vào giữa năm 1965, một buổi trưa, một đoàn tầu đi tuần trên kinh Chợ Gạo. Con kinh huyết mạch để đoàn ghe gạo, cá từ Vùng IV về Sài Gòn qua đó. Kinh Chợ Gạo, vòng đai an toàn cho Mỹ Tho, Bình Phục Nhất, nơi mà “mình vừa đi qua, là tụi nó ló mặt ra liền”, chính nơi này, Đức Râu và cặp Fom của anh đã làm Việt Cộng điên đảo. Vì là tầu nhỏ, một tầu tiến vào lạch, kéo theo chiếc Fom khác quay mũi trở ra. Như thế lạch hẹp, tầu phải vừa đi vừa vén lau mà lủi, không thể xoay sở, chẳng thể quay đầu. Vì thế Việt Cộng tin là “lạch hẹp, bố bảo tụi tầu cũng không dám vào đây”. Vậy mà Đức Râu bảo: “Ông thầy cứ nằm ngoài kinh. Để tôi vào.” Vào sâu nằm đó, khi ở ngoài kinh đoàn tầu đã đi. Trong lạch um tùm, hai chiếc Fom nằm im khe. Tụi Việt Cộng ló ra, chèo ghe đi lại. Cho thật chắc, để chúng xuất hiện đông, là Fom khai hỏa. Chúng chạy đâu cho thoát. Lúc ấy chiếc Fom buộc sau chiếc Fom đi đầu, mở máy chạy, kéo theo chiếc thứ nhất trở ra kinh lớn… Sự gan dạ và thông minh ấy của Đức, Đức Râu, đã làm địch khiếp vía. Bao nhiêu xác địch đã bị bỏ lại trên bờ kinh. Bao nhiêu gạo, muối, đồ tiếp liệu của địch đã tịch thu được, một phần không nhỏ là do Đức với cặp Fom đem về.

Rồi một hôm, giữa năm 1965 cũng chính từ chiếc Fom của Đức HQ 5001, HQ 5002 gọi về, giữa trưa: “Tôi bị bắn, lạ lắm. Lửa phát ra xanh lè. Đạn xuyên từ bên trái tầu, qua luôn thành bên phải, ghim vào bờ kinh nổ bùng. Chúng bắn xong lủi rất nhanh vào khúc quẹo…” Cả Giang Đoàn bàn tán. Các chi tiết ấy đã được sĩ quan Ban 2 ghi lại, gửi về Bộ Tổng Tham Mưu. Sau này mới hay đó là loại súng mới rất lợi hại của địch: B40. Và cũng từ đó , thay vì chỉ là súng ngựa trời, CKC, Bá Đỏ, Việt Cộng có loại AK 47 , nhẹ, bắn liên thanh. Cũng từ lúc ấy, tin đồn Việt Cộng treo giải, ai giết được Đức râu sẽ được thưởng 200 ngàn đồng, số tiền tương đương với nhiều lạng vàng. Một gia sản lớn. Nghe thế, đọc các truyền đơn ấy, Đức râu chỉ cười. Ngồi trên mũi Fom, uống rượu tì tì.

Ở lâu quá một con tầu không nên, cần phải thuyên chuyển qua tầu khác để có kinh nghiệm mới, và cũng là dịp cho nhân viến khác lên thay, để có cơ hội học hỏi thêm. Đức râu được lên làm thuyền trưởng chiếc Tiền Phong Đỉnh (Monitor combat), HQ 6001.
Tiền Phong Đỉnh còn gọi là Thiết Giáp Đỉnh, là loại chiến đỉnh được trang bị hùng hậu nhất trong các chiến đỉnh hoạt động trên sông, dài 60 bộ, rộng 17 bộ. Trước mũi là đại bác 40 ly, pháo tháp dày. Ở giữa chiến đỉnh có một súng cối 81 ly, hai đại liên 12ly và hai đại liên 30, và nhiều súng nhỏ, kể cả súng phóng lựu M 79. Hai máy dầu cặn, hai chân vịt nên xoay sở dễ dàng, tốc độ 8 gút. Nhân viên cơ hữu độ mười người. Khi cuộc hành quân quy mô, thường có các sĩ quan trưởng toán hiện diện tại đây. Đức râu được biết “phải” rời cặp Fom cuả anh để lên làm thuyền trưởng chiếc Tiền Phong Đỉnh HQ 6001. Anh không muốn lên, vì như nhiều người biết, ở đây gần mặt trời, lại là chiến đỉnh lớn, khó tung hoành. Nhưng anh không thể từ chối. Vì thâm niên công vụ, anh sẽ đeo lon Thượng Sĩ nay mai, không thể ở mãi trên tầu nhỏ được.

Làm quen với chiến đỉnh này, cũng không khó đối với anh. Với tướng mạo hùng dũng ấy, các tay đàn em sợ một phép.

(Tiếp theo là Trận Ba Rài 29/9/1965)