NHỮNG GIÂY PHÚT CUỐI CÙNG 30-4-1975

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

46 Năm qua rồi, ngày mà quân đội Cộng Sản Bắc Việt chiếm miền Nam, không có một cuộc chiến trên quốc gia nào mà hậu quả tai hại kéo dài như thế, và không biết kéo dài tận bao giờ! Lịch sử dân tộc Việt cũng bao lần qua phân, nhưng khi sơn hà thống nhất thì lòng dân nguôi dần quá khứ để cùng nhau xây dựng đất nước. Thế mà, ngày 30-04-1975 đến nay đã 42 năm, phải đã 42 năm – thời gian gần 1/2 thế kỷ, nhưng ngày 30-4 vẫn còn in đậm nét trong tâm tư của những người Việt Nam yêu tự do dân chủ. Bởi đâu? vì đâu? đất nước lại thống khổ, lòng dân than oán và hận thù không nguôi? Bởi vì sự chiến thắng của đạo quân theo chủ nghĩa vô thần Cộng Sản: Chủ Nghĩa đó chủ trương phân biệt đối xử giữa người dân và đảng viên Cộng Sản, phân biệt lý lịch giữa người Cộng sản và người không Cộng sản, chủ nghĩa đó coi dân như kẻ thù và coi ngoại bang là “đồng chí” thân thương kính mến, chủ nghĩa đó độc tài toàn trị thâu tóm quyền hành vào một đảng, chủ nghĩa đó đặt đảng lên trên tổ quốc và chủ nghĩa đó coi thường giá trị con người….nhân ngày 30 tháng 4 năm nay đảng CSVN vẫn còn, bài viết sau đây của Mường Giang nhắc lại những phút cuối cùng của ngày 30 tháng 4 đen.

 30-4-1975, TỔNG THỐNG DƯƠNG VĂN MINH ÐẦU HÀNG
HAY BỊ CỘNG SẢN BẮC VIỆT BẮT TẠI DINH ÐỘC LẬP ?

MƯỜNG GIANG 

Ðiện Kinh Thiên ở Hà Nội, được xây dựng từ đời Nhà Hậu Lê (1428), trên nền cũ của các cung điện thời Lý,Trần.. và trở thành Hành Cung của Nhà Nguyễn từ năm 1802, vì kinh đô của nước ta, được dời vào Huế. Năm 1873, thực dân Pháp chiếm Hà Nội, chúng đã biến hoàng cung thành một pháo đài rất kiên cố.

Năm 1954 tới cuối tháng 4-1975, Cộng Sản làm chủ nửa nước. Từ đó Ðiện Kinh Thiên, trở thành Tổng hành dinh của Bộ Tổng Tham Mưu/Bộ đội Bắc Việt. Ðây là chỗ của các đầu sỏ Bắc Bộ Phủ, từ Hồ Chí Minh tới Lê Duẩn, Phạm Văn Ðồng.. trực tiếp lãnh đạo 8 đời Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng và Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Phùng Quang Thanh.. Tổng Tham Mưu Trưởng, bày binh bố trận mọi kế hoạch, chiến lược xâm lăng Miền Nam VN, qua cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, cánh tay nối dài của Trung Ương Ðảng Cộng Sản VN.

Từ năm 1967 về sau, chiến tranh càng lúc thêm ác liệt, lan rộng tới tận miền Bắc, khiến Hà Nội phải xây thêm căn cứ D-67, vừa làm nơi trốn bom đạn oanh tạc của các chóp bu, thật vô cùng khủng khiếp do Mỹ thả. Ðây cũng là nơi họp tuyệt mật, của Bộ Chính Trị và Quân Ủy Trung Ương Ðảng. Theo Võ Nguyên Giáp viết trong “Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng”, thì từ tháng 4-1973 Bộ Thống soái tối cao, đã giao cho Bộ Tổng tham mưu, lập một tổ đặc biệt gồm Lê Trọng Tấn, Vũ Lăng, Võ Quang Hồ và Lê Hữu Ðức, nghiên cứu kế hoạch tổng tấn công cưỡng chiếm VNCH. Bản dự thảo đầu tiên ra đời ngày 5-6-1973 và sau đó qua bảy lần xét duyệt, cuối cùng vào ngày 30-9-1974, mới được Bộ Chính trị nghị quyết “Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975, thì lập tức tổng tấn công Miền Nam”.

Ngày 18-12-1974 tới 8-1-1975, Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng, để quyết định lần cuối cùng kế hoạch trên. Sau khi chiếm được Thường Ðức (Quảng Nam) và Phước Long, mà không thấy phản ứng nào từ Mỹ, nên ngày 9-1-1975, Quân ủy trung ương họp với quyết định mở chiến dịch 275, tấn chiếm Ban Mê Thuột, do Văn Tiến Dũng, từ Bắc vào Nam chỉ huy trực tiếp trận địa.

Sau khi Cao nguyên và Quân đoàn I của VNCH thất thủ, tại Hà Nội vào ngày 31-3-1975, Cộng Sản Bắc Việt quyết định lập Bộ Chỉ huy và Ðảng Ủy Sài Gòn, do Lê Ðức Thọ, Phạm Hùng và Văn Tiến Dũng chỉ huy. Ngày 7-4-1975, Võ Nguyên Giáp ban lệnh bằng mọi cách phải đánh chiếm cho được Miền Nam. Ngày 14-4-1975, mở chiến dịch Hồ Chí Minh (HCM). Ngày 25-4-1975, Quân Ðoàn 1 Cộng sản từ Bắc Việt vào và đúng 17 giờ ngày 26-4-1975, mở đầu cuộc tấn công vào Sài Gòn bằng 5 cánh quân. Ngày 28-4-1975, Ðại tướng Dương văn Minh thay Trần Văn Hương làm Tổng thống, để trưa ngày 30-4-1975,ra lệnh toàn dân, toàn quân VNCH buông súng đầu hàng Cộng sản. 

Dân di tản từ Xuân Lộc về Sài Gòn 27/04/1975

Trong lúc đó Miền Nam VN đã bị Hoa Kỳ và Thế giới tự do bỏ rơi tức tưởi, phải một mình đơn độc tiếp tục cuộc chiến chống xâm lăng trước mặt. Ðồng lúc lại phải hứng chịu những đòn thù thê thảm, của bọn con buôn chính khứa, cứ tàn nhẫn đạp bừa trên xác lính, để múa rối bỉ ổi trên sân khấu chính trị. Dữ dằn nhất vẫn là bọn trí thức khoa bảng, tư xưng là thành phần thứ ba, đã đi đêm với Bắc Việt từ lâu, gồm có Hồ Ngọc Nhuận, Vũ Văn Mẫu, Lý Quý Chung, Hồ Văn Minh, Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Xuân Oánh… Tháng 3-1975, tình hình VNCH trở nên nguy ngập sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, Ngô Công Ðức, nguyên Dân biểu Quốc hội VNCH phản bội đất nước, sống lưu vong tại Pháp, đã vội vã sang Mỹ đòi chấm dứt viện trợ, thay ngựa bằng lá bài Dương Văn Minh, để chuẩn bị đầu hàng. Ðó là lý do truất phế Trần Văn Hương sau 5 ngày làm Tổng thống, kế vị TT Nguyễn Văn Thiệu từ chức ngày 21-4-1975.

Ngày 27-4-1975, đúng 17 giờ 5 phút, trong phòng khánh tiết của Dinh Ðộc Lập, đang diễn ra buổi lễ bàn giao chức vụ tổng thống VNCH, giữa Trần Văn Hương và Dương Văn Minh. Ðây là lần bàn giao tổng thống lần thứ hai xảy ra chưa đầy 10 ngày, trong chính quyền Nam VN, giữa lúc đất nước đã mất hơn hai phần ba lãnh thổ và nguy ngập nhất là nửa triệu quân Bắc Việt đã ập sát Sài Gòn. Theo phóng viên Ðài Phát Thanh Sài Gòn, mô tả hôm đó, thấy có sự hiện diện của ba Phó Thủ Tướng Trần Văn Ðôn, Nguyễn Văn Hảo, Dương Kích Ngưỡng, Quốc Vụ Khanh Nguyễn Xuân Phong, thêm Chủ Tich Thượng Viện Trần Văn Lắm và nhiều Nghị Sĩ, Dân Biểu như Tôn Thất Ðính, Nguyễn Văn Ân, Trần Cao Ðể, Mã Sái, Hồ Ngọc Cứ, Ðinh Văn Ðệ, Huỳnh văn Cao, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu.. và cả Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện là Trần Văn Tiết. Ngoài ra còn có hơn 100 phóng viên và nhiếp ảnh tham dự, làm cho quang cảnh buổi lễ bàn giao thật sôi nổi. Vậy mà Tân Tổng Thống chỉ mới giữ chức chưa đủ hai ngày, thì đã vội vã đầu hàng giặc, khiến cho đất nước và đồng bào, suốt Bốn mươi ba năm qua, sống kiếp nô lệ mới cay đắng ngậm ngùi, dưới ách thống trị siêu phong kiến của bọn đầu sỏ Cộng Sản Bắc Việt, gìa nua độc ác. Vì thế có thể nói rằng, chưa có đời nào trong giòng sử Việt, cả nước phải chịu nhiều đau khổ như hiện tại.

Là người của một giai đoạn lịch sử cận đại, tướng Dương Văn Minh, chỉ trong vòng 12 năm ngắn ngũi, đã là nhân vật chủ chốt, hai biến cố trọng đại của cận sử VN. Ngày 1-11-1963 làm sụp đổ nền Ðệ Nhất Cộng Hòa Miền Nam, ra lệnh hạ sát anh em Tổng thống Ngô Ðình Diệm. Ngày 30-4-1975, lợi dụng chức vụ tổng thống và quyền Tổng tư lệnh quân đội, bắt cả nước đầu hàng đế quốc Đệ tam Cộng sản. Nay ngồi đọc lại lời phát biểu của TT Trần văn Hương, trong buổi lễ bàn giao hôm đó, mới thấy thương xót tận cùng cho người lính chiến VNCH, suốt đời làm thân trâu ngựa để cho bọn sâu bọ đội lột người ưỡn ngực ngẩn đầu bước lên đài danh vọng lam hề: “Một trang sử mới được mở ra, do Ðại Tướng Dương Văn Minh viết. Ông Minh nhậm chức lúc này, không những chỉ vì thiện chí, mà còn là CAN ÐẢM TỪ BỎ GIẢI PHÁP QUÂN SỰ, vì đã chọn con đường Hòa Giải, Hòa Hợp để có Hòa Bình”

Ðúng lúc lễ bàn giao bắt đầu, thì trên bầu trời, tên phản tặc Nguyễn Thành Trung, đứa con rơi của VC bỏ lại tại Bến Tre, sống nhờ sự dưỡng dục của người miền Nam VN nhưng vô ơn bạc nghĩa, đã lái và hướng dẫn 5 phản lực A37 của VNCH bỏ lại, oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhất, đồng thời đặc công Bắc Việt cũng lội vào bờ, chiếm kho tiếp liệu của Usaid bỏ lại, sát chân cầu Sài Gòn. Nhiều người lúc đó, cho là Ðại Tướng Văn Minh bị bệnh tâm thần, nên mới tin tưởng là cộng sản Hà Nội sẽ ngưng bắn, trong khi chúng sắp chiếm được miền Nam. Ngây thơ hơn hết, là việc Dương Văn Minh, đêm 27-1-1975, đã mời Ngô Công Ðức lúc đó đang lưu vong bên Pháp, về làm Bộ trưởng thi hành Hiệp định Ba Lê 1973, thực chất chỉ là một tờ giấy lộn không hơn không kém. Ðại bàng tối cáo mà như vậy, thì trách làm sao được những trận đánh không tên trong quẩn sử đã không có đại bàng ?

Hởi ôi! khi người Mỹ còn chiến đấu ở VN, với tiềm năng quân sự to lớn, nên lúc nào nếu muốn, cũng có thể tiêu diệt Bắc Việt dễ dàng. Thế nhưng trong các lần hội nghị, để tìm giải pháp chấm dứt chiến tranh bằng con đường hòa bình. Trăm lần như một, người Mỹ đều bị Bắc Việt lừa bịp, tới lần cuối cùng bị TT Nixon ra lệnh oanh tac và phong tỏa Miền Bắc kinh khiếp chưa từng có. Vậy mà sau khi hết bom rơi, Hà Nội vẫn lừa bịp dù chịu ký vào bản hiệp ước ngưng bắn tại Paris tháng 2-1973, khi mấy trăm ngàn bộ đội Bắc Việt, được Mỹ cho phép ở lại tại chỗ, để tiếp tục xâm lăng Miền Nam.

Trong lúc đó, khi Ðại Tướng Dương Văn Minh lên nắm quyền Tổng Thống VNCH vào chiều ngày 28-4-1975, thì đất nước đang ở vào giờ thứ 25 hấp hối. Vậy chúng ta có điều kiện gì để mà bắt cộng sản chịu ngưng bắn, để hòa hợp có hòa bình ? Nham nhở nhất, là từ sáng ngày 29-4-1975, đài VC lên tiếng phủ nhận luôn chính phủ Dương Văn Minh mới lên tối hôm qua, đồng thời ra lệnh đánh chiếm Gia Ðịnh-Sài Gòn.

Sau này Trần Văn Hương có tiết lộ với tác giả “ L”Adieu à Sài Gòn “ cũng là sử gia người Pháp Jean Larteguy, rằng sự thật Dương Văn Minh cũng giống như ông, chẳng có liên lạc được ai bên phía Bắc Việt, để mà hòa hợp hòa giải. Còn Ðại Tướng Minh cho biết là mình đã tin vào lời của Vũ Văn Mẫu. Rốt cục tất cả đều là những người mù rờ đít voi, sau đó ảo tưởng đẻ ra kế hoạch vĩ đại đề cứu nước cứu dân, trong khi mặt thật là chẳng nắm được gì hết, ngoài bên cạnh có một đám quân sư xôi thịt xúi bậy làm càn.

Trong lần kỷ niệm 17 năm quốc hận vào năm 1992, tờ nguyệt san Phụ Nữ Diễn Ðàn của người Việt Hải Ngoại, số đặc biệt, có đăng những bài bút chiến, của Bùi Tín, Bùi văn Tùng, Nguyễn Trần Thiết, Bùi Biên Thuỳ… quanh hai chủ đề : “Ai là người đầu tiên vào Dinh Ðộc Lập ? và Ai là người có thực quyền lúc đó, nhận sự đầu hàng của TT và Nội Các Dương Văn Minh ?”

Mượn lại danh từ của những người cộng sản, trong cuộc đấu võ mồm vô duyên trên, là họ đã biếm xưng lịch sử. Vì thật ra cả bọn chẳng có ai là người đầu tiên bước vào Dinh Ðộc Lập. Mà từ xa lắc xa lơ, nơi này đã có hằng tá điệp viên cao cấp Bắc Việt như Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng, Phạm Ngọc Thảo, Trần Ngọc Hiển, Lê Ðình Ẩn, Ðinh văn Ðệ đã bước chân vào rồi.

Riêng việc đầu hàng cộng sản của Dương Văn Minh, thì cũng chẳng có gì là lạ, vì Ðại Tướng là Thủ Lãnh của Lực Lượng Thứ Ba, có chủ trương phản gián qua lớp võ Hòa Giải, để đầu hàng giặc từ lúc chưa được lên ngôi Tổng Thống vào những ngày cuối tháng 4-1975. Có khác chăng, là phải đóng kịch đầu hàng như thế nào, để sau này trước Tòa Án Lương Tâm và trên trang lịch sử, Tổng Thống vài ngày Dương Văn Minh, được trắng án và tiếng thơm là người yêu nước, vì đã dám hy sinh ở lại giữa chốn ba quân, trong lúc giặc xâm lăng đã ập sát thành.

Vì vậy từ lúc nhận lời đuổi Mỹ, tới khi lên đài ra lệnh cho quân đội buông súng rã ngũ, thời gian từ trưa 29-4-1975 cho tới trưa 30-4-1975, tổng thống không hề chợp mắt. Ðây là thời gian dài nhất trong đời làm chính trị của một vị nguyên thủ cuối cùng của VNCH, tuy ngắn ngủi nhưng lại bị tai tiếng nhất trong dòng Việt Sử cận đại.

Trong lần kỷ niệm 30 năm (4/1975 – 4/2005), cả nước VN được sống trong thiên đàng xã nghĩa. Dịp này, trên các báo Khoa Học Phổ Thông (18) và Thế Giới Mới (631-632), xuất bản tại thành Hồ, có Phùng Bá Ðạm lớn tiếng về cái gọi “Bắt Tổng thống Dương Văn Minh và Nội các Chính quyền Sài Gòn” vào trưa ngày 30-4-1975 tại Dinh Ðộc Lập. Ðặc biệt trong những bài viết trên, không hề nhắc tới nhân vật Bùi Tín, một thời qua tập sách “Sài Gòn Trong Ánh Chớp Chói Lọi Của Lịch Sử”, lúc nào cũng to tiếng, nhận là mình cho Dương Văn Minh đầu hàng. 

Vậy đâu là sự thật vì Tổng Thống Dương Văn Minh giờ đã mất, còn đồng bào cả nước từ ấy đến nay, sống dưới thiên đàng xã nghĩa, sau hàng rào kẽm gai, lưỡi lê, họng súng, nên chỉ dám nói viết những lời đảng dạy, để mà giữ lấy cái mạng cùi rất mong manh. Vì vậy làm sao, có ai dám nói hết lời, cho dù rất muốn nói, ngoại trừ những kẻ cò mồi được đảng dựng lên làm đối lập qua mấy thúng “dân chủ” nghe thấy rất tình tứ và lãng mạn.

Nay nhìn lại cuộc tranh giành quyền lực của các chóp bu trong đảng và thảm trạng VN sắp diệt vọng trước cuộc xâm lăng không tiếng súng của giặc Tàu đỏ. Vì vậy, cho dù ai trong tập đoàn lãnh đạo của đảng cướp hiện nay, thì cũng chỉ đưa dân tộc và non sông Việt đến hố sâu của ngu dốt, nghèo đói và trên hết là mất nước vào tay ngoại bang. Tất cả cũng chỉ vì chúng ta trong quá khứ, đã thờ ơ với vận nước, phần lớn lại quá tin vào lãnh đạo, cho dù đó là những sâu bọ hại nước hại người .

“Bốn lăm năm rồi, nay quá đủ
hãy đứng lên tự bẻ gãy xích xiềng
cả tội hèn làm đất nước đảo điên
giúp cho giặc thành bạo quyền ác chúa
chôn chúng đi nhưng thây ma thúi rữa
vứt vào mồ lũ quan tướng âm binh
để cả nước quên bớt nỗi bất bình
vì trót lỡ tin theo phường đạo tặc..” 

1- TỔNG THỐNG DƯƠNG VĂN MINH ÐI TÌM HÒA BÌNH Ở CUỐI ÐƯỜNG HẦM :

Bốn mươi ba năm qua, kể từ ngày Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh cho QLVNCH buông súng rã ngủ, giúp cho cộng sản Bắc Việt, có cơ hội kết thúc sớm cuộc chiến xâm lăng Miền Nam. Cũng kể từ đó, đã có nhiều tài liệu của mọi phía liên hệ tới lịch sử, bật mí vén màn bí mật những uẩn khúc một thời, mà người Việt đọc tới, cứ tưởng như đang trong mộng hay đi trên mây, vì tất cả đều do bàn tay lông lá của ngoại bang dàn dựng.

Riêng về sự nghiệp của tổng thống cuối cùng của VNCH là Dương Văn Minh, cũng có rất nhiều nhưng chỉ có các bài viết của ký giả Pierre Demicron, “SaiGon et Moi” của cựu đại sứ Pháp là J.Mérillon, và “Decent Interval“ của Frank Sneep.. là viết rõ ràng nhất.

Theo “Những Ngày Cuối Cùng VNCH” của Nguyễn Khắc Ngữ xuất bản sau năm 1975 tại Canada, thì ngay khi Bắc Việt vừa chiếm được Cao Nguyên Trung Phần (Quân Đoàn II) ngày 24-3-1975. Nhận thấy thời cơ đã tới, Phạm Văn Ðồng lúc đó là Thủ tướng Bắc Việt, đã ra lệnh cho bọn phản tặc ăn cơm Quốc Gia thờ ma Hồ, với cái gọi Lực Lượng Thứ Ba (LLTB) ở Sài Gòn, công khai ra mặt chống đối Chính Phủ VNCH, qua trung gian Ðại Sứ Pháp ở Hà Nội là Philippe Richer. Ðồng nói : “thế nào? bao giờ người Pháp mới hành động? giờ đã đến lúc các bạn ông trong phe thứ ba ở Sài Gòn, ra khỏi sự dè đặt, công khai lật đổ Nguyễn Văn Thiệu, để lập chính phủ mới trung lập, mới có đủ tư cách nói chuyện thương thuyết với chúng tôi“. Ðó chính là lý do mà Ðại sứ Pháp tại Sài Gòn, J.M.Mérillon, tiếp xúc với LLTB, áp lực Mỹ thay ngựa hết TT Thiệu tới TT Hương và tìm đủ mọi cách đưa Dương Văn Minh lên ghế Tổng Thống.

– NHỮNG NGÀY CHUẨN BỊ LÊN NGÔI VUA :

Người Pháp hết bị Nhật rồi tới VN đánh đuổi ra khỏi Ðông Dương một cách nhục nhã và thảm bại vào năm 1955, nhưng De Gaule và thực dân lúc nào cũng hằng nuôi ảo vọng trở lại làm trùm miền đất này. Bởi vậy không lúc nào chúng bỏ quên mọi cơ hội, rình rập và chợp thời cơ để trục lợi. Ðó cũng lý do Hòa đàm Paris được tổ chức trên đất Pháp. Ngoài ra đây cũng là nơi dung thân của các chính khứa lưu vong, sào huyệt của phong trào trí thức sinh viên tôn giáo thân Cộng Sản. Vì vậy suốt cuộc chiến, Hà Nội đã lập ra tại đây 4 Tổ Tuyên truyền, thuộc thành phần MTGPMN, Phòng Thông tin Bắc Việt và Hội Việt kiều yêu nước XHCN.nhưng tất cả, đều đặt dưới sự chỉ đạo của Trung ương cục miền Nam, một tổ chức nối dài của Ðảng Cộng Sản .

Ý đồ lưu manh trên, đã được Mérillon nói một cách công khai và hãnh diện, trong tác phẩm của mình. Ðó chính là những ngày cuối tháng 4-1975, giữa lúc VNCH đang hấp hối vì Hoa Kỳ phản bội, đại bàng bỏ trốn, Việt gian đâm sau lưng, tạo dịp tốt ngàn năm một thuở, cho Pháp nhảy vào ăn ké hột hụi chót, được hay thua, cũng không bị lỗ vốn.

Cũng theo lời kể của vị cựu đại sứ Pháp, kể từ ngày 18-4-1975, Hoa Kỳ coi như đã dứt khoát bỏ VN, qua vai trò của đại sứ Martin. Nói chung người Mỹ nhờ Pháp thay thế, lo giùm hậu sự cho cái xác của VNCH, đang hấp hối chờ chôn. Bởi vậy Mérilon đã liên hệ khắp nơi, kể cả phái đoàn của Bắc Việt trá hình là VC, do Phan Hiền cầm đầu, được Mỹ bảo vệ và cho ở làm gián điệp, nơi trại David nằm trong phi trường Tân Sơn Nhất, để xúc tiến thành lập một chính phủ ma mới tại VNCH, gồm ba thành phần Quốc Gia, Cộng sản và Trung Lập, như lệnh của Phạm Văn Ðồng.

Ðảng đối lập tức Lực lương thứ ba lúc đó, gồm có Thủ Lãnh là Ðại Tướng Dương Văn Minh, hợp với Huỳnh tấn Mẩm, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Bá Thành, Huỳnh Liên, Vũ Văn Mẫu, Lý Quý Chung… được Mérilon tiếp kiến ngày 22-4-1975 nhưng tất cả lũ đều là bọn hề, không có một chút tiếng tăm gì trên trường chính trị lúc đó, ngoài vai trò làm tay sai phá hoại, nên bị đuổi về vì không đủ điều kiện để lọt vào mắt của Bắc Bộ Phủ. Riêng Dương văn Minh được giữ lại, chờ nói chuyện với Hà Nội, qua đường dây chuyển tiếp của Toà đại sứ Pháp tại Sài Gòn-Tân Gia Ba-Bắc Việt, do Võ Ðông Giang làm trung gian.

Trong lúc chờ đợi, Ðại sứ Pháp dâng lên tổng thống tương lai, kế sách bình thiên hạ, trung lập hóa miền Nam, chung quy cũng vẫn là vai trò của Pháp,Trung Cộng và Nhật sẽ thay chân Mỹ làm chủ nhân ông VNCH.

Ðể Miền Nam mau chết, Hoa Kỳ đã quyết định cắt đứt hết mọi quân viện, khiến Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng cắt đứt luôn sự liên hệ với Tòa Ðại Sứ. Bởi vậy, trong đêm 20-4-1975, thân hành đại sứ Martin phải vào Dinh Ðộc Lập, áp lực TT phải từ chức tức khắc, bằng tối hậu thư của CS Bắc Việt gửi Mỹ. Tóm lại TT Thiệu lúc đó chỉ có hai con đường lựa chọn, một là từ chức TT để giữ mạng, nếu không sẽ chết như TT Diệm vào ngày 2-11-1963.

Theo luật pháp quốc gia, cũng như Hiến Pháp và Quốc Hội quy định, nên Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay thế chức vụ TT. Nhưng cụ Trần Văn Hương từ trước tới nay vốn nổi tiếng Diều Hâu, điếc không sợ sấm dù là sấm Chúa hay Phật, một nhân vật chống Cộng cực đoan, tuổi tuy già nhưng đầu óc tỉnh táo và cương quyết. Cho nên ông đâu phải là nhân tuyển của thực dân Pháp và giặc xâm lăng Bắc Việt. Bởi vậy Dương Văn Minh được mời ra cứu nước, đó cũng là bài bản tuồng tích đã được các soạn giả sắp xếp, đâu có gì lạ.

Ðể áp lực với tổng thống Hương nhường ngôi cho Dương văn Minh, tối 24-4-1975, cộng sản lại ra thông cáo :

1- Trần văn Hương bù nhìn của Nguyễn Văn Thiệu, phải ra đi.
2- Mỹ phải rút khỏi VN.
3- Không chấp nhận các cơ cấu của VNCH hiện tại.

Như vậy việc Dương văn Minh lên làm tổng thống, theo thông cáo trên, là do ý của cộng sản Hà Nội, chứ không phải do Hiến Pháp VNCH quyết định. Ý đồ cướp nước của giặc đã công khai rõ ràng như ban ngày, vậy mà Tướng Minh và phe nhóm vẫn mù tịt. Khôi hài nhất là việc ông đại sứ Pháp, cứ liên tục thúc hối Tổng thống Trần Văn Hương mau từ chức, để Dương Văn Minh kịp cứu dân cứu nước?

Nhưng cụ Hương tuy tuổi già chứ không lẩm cẩm, hơn nữa lại là thầy của Dương Văn Minh, nên đâu có lạ gì tánh tình và nhân phẩm của người học trò mình. Theo “Saigon et Moi”, chính cụ Hương đã trả lời thẳng với Mérilon như sau “Nước Pháp luôn hái nho trái mùa, tưởng chọn ai, chứ Dương văn Minh không phải là hạng người dùng được, trong lúc dầu sôi lửa bỏng”.

Do các lý do trên, TT Hương không muốn trở thành một tội nhân thiên cổ đối với lịch sử, nên đã khôn khéo trao quyền quyết định cho Quốc Hội và Tối Cao Pháp Viện. Cuối cùng Tướng Minh được chỉ định làm Tổng Thống thứ tư của VNCH, vào lúc 20 giờ 45 phút đêm 27-4-1975, với tỷ số 132/02. Rồi lễ bàn giao được diễn ra tại Phòng khánh tiết, Dinh Ðộc Lập lúc 17 giờ 01 phút, chiều ngày 28-4-1975. Lần nữa Việt Sử cận đại lại được lật sang trang nhưng vô cùng ngắn ngủi, vì tổng thống Dương Văn Minh, chỉ nắm quyền chưa tới 48 giờ, thì mất nước.

– 30-4-1975, NGÀY DÀI NHẤT CỦA TỔNG THỐNG DƯƠNG VĂN MINH :

Theo các tác phẩm dẫn thượng, thì suốt 42 giờ tham chính, TT Minh và Nội Các của ông, hoàn toàn làm việc tại Dinh Hoa Lan và dưới sự chỉ đạo kiểm soát của Ðại sứ Pháp gần như 24/24. Jean Larteguy, tác giả “Ladieu à Saigon“, có viết rằng cụ Hương trước khi mất, cho tác giả biết, cả ông, Dương văn Minh lẫn Vũ Văn Mẫu, đều chẳng liên lạc được gì với cộng sản Bắc Việt.

Ðiều này cho thấy ông Dương văn Minh cùng phe nhóm, chẳng có một kế hoạch nào để giải quyết cuộc chiến, mà mặt thật chỉ là những người bị cộng sản Bắc Việt lừa bịp, phỉnh gạt mà thôi. Bởi vậy khi Dương Văn Minh vừa đăng quang xong lúc 17 giờ ngày 28-4-1975, lập tức VC cho Nguyễn Thành Trung oanh tạc phi trường, đồng thời trở mặt tức khắc.

Trong trại David vào đêm 28-4-1975, Võ Ðông Giang bảo thẳng với phái đoàn thương thuyết của Dương Văn Minh, gồm Chân Tín, Châu Tâm Luân và Trần Ngọc Liễng “giờ tấn công đã sẵn sàng, nên Dương văn Minh chỉ có hai điều kiện: Ðầu hàng hay không Ðầu hàng”. Cả ba sứ giả bị giữ lại làm con tin. Sáng sớm ngày 29-4-1975, Hà Nội lập tức ra thông cáo đòi tổng thống Minh cùng nội các từ chức, giao Miền Nam cho chúng, ban lệnh đuổi Mỹ, ngưng bắn và đầu hàng vô điều kiện.

Trong lúc ngoài vòng đai thủ đô, các đại đơn vị còn lại của QLVNCH đang tử chiến, để ngăn giặc khắp năm cửa ô, thì Sài Gòn đã hỗn loạn vì sự trốn chạy của Mỹ bằng trực thăng trên mái nhà. Nhiều phi công vì ham sống, đã bỏ chiến đấu, bỏ đồng đội đang tử chiến dưới đất, bay sang tận Thái Lan, trả máy bay cho Mỹ để được tới định cư ở Hoa Kỳ. Theo W.W. Monyer trong “Vietnammese Airforce (1955-1975), thì Mỹ đã thu hồi lại được 132 phi cơ đủ loại, qua lệnh của Phụ tá Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ, lúc đó là R. Armitage và E.V Marbod. Các đại bàng lớn nhỏ lần lượt chắp cánh tung trời, từ TT Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, Ðại Tướng Viên, Quang rồi Ðồng văn Khuyên, Vĩnh Lộc, Nguyễn văn Chức, Nguyễn văn Toàn… đều ra đi.

Tóm lại giặc đang còn tận Biên Hòa, Bến Cát, Long Thành, Củ Chi và Long An.. thì Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư Lệnh KQ,HQ, BTL QDIII và Biệt Khu Thủ Ðô đã tan hàng, khiến Tổng Thống Minh như cua gãy càng, đành gọi bọn sâu bọ Nguyễn Hửu Có, Nguyễn Hữu Hạnh, Triệu Quốc Mạnh vào dinh, cho mang lon trở lại, để giúp “ngài” có đủ can đảm đầu hàng giặc. Tổng thống đã thức trọn đêm, cho tới sáng 30-4-1975, để binh một canh bài xì phé khi con tẩy của mình chỉ là lá bài lủng, để định một sự kiện lịch sử, mà thật ra khả năng của ông, vốn không bao giờ có thể vói tới được.

Từ 7 giờ sáng ngày 30-4-1975, Nguyễn Hữu Thái tới Chùa Ấn Quang, yêu cầu Thượng Tọa Trí Quang, dùng uy tín khuyên Dương văn Minh đầu hàng. Chính cuộc điện đàm ngắn ngủi giữa Trí Quang, Nguyễn Hữu Thái và bộ ba Minh, Mẫu và Lý Quý Chung, khiến Dương văn Minh, quyết định đầu hàng giặc sau một đêm dài thức trọn năm canh.

– NGUYỄN ÐÌNH ÐẦU LÀM SỨ GIẢ HÒA BÌNH :

Vào ngày 30-4-2005 tại Sài Gòn, VC có đưa bốn nhân vật liên quan tới những giờ phút cuối cùng của VNCH vào tháng 4-1975 lên TV phỏng vấn: Ðó là Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Hữu Hạnh, Phạm Quốc Mạnh và Nguyễn Ðình Ðẩu (nằm vùng). Trong 4 người, Có, Hạnh và Mạnh là sĩ quan cao cấp của QLVNCH. Riêng Ðẩu là một nhà nghiên cứu địa bạ rất nổi tiếng, qua các sách đã xuất bản, trong đó có tỉnh Bình Thuận xưa.

Qua hồi ký đăng trên “Thế Giới Mới số 385”, xuất bản tại thành Hồ vào năm 2000, Ðẩu cho biết mình là một trong 4 sứ giả hòa bình, vào những ngày cuối tháng 4-1975, được Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền, mời vào phái đoàn, đến trại David là nơi đóng quân của Phái đoàn Bắc Việt, trong phi trường Tân Sơn Nhất, để thương thuyết ngưng bắn. Ðẩu viết: “Ngày 29-4-1975: Lúc 6 giờ 30 sáng, Ðẩu đi tìm Nguyễn Văn Huyền, mới được TT Minh phong chức “Phó Tổng thống đặc trách hòa đàm”. Theo Ðẩu, lúc đó chính phủ Dương Văn Minh chưa có ai liên lạc hay tiếp xúc với phía bên kia. Do đó Ðẩu xung phong, cùng với Nguyễn Văn Diệp (Tổng trưởng kinh tế thương mại vừa mới phong), Nguyễn Văn Hạnh (Nhà thầu), Tô Văn Cang (kỹ sư). Lúc 11 giờ 15 cả bọn vào trại David bằng công xa của Bộ Trưởng Diệp, có cận vệ, nhưng trống không vì phái đoàn VC đã rút đi hết. Lúc 13 giờ 30, theo lệnh Nguyễn Văn Huyền, Ðẩu viết lời tuyên bố của Chính phủ VNCH, chấp nhận điều kiện của VC đòi hỏi ngày 25-4-1975, sau đó được đọc trên đài phát thanh Sài Gòn vào lúc 14 giờ 30”.

Lúc 19 giờ cùng ngày, Ðẩu cùng Nguyễn Văn Huyền vào Dinh Hoa Lan gặp Tổng Thống Minh và cho biết “Giải pháp chính trị chấm dứt chiến tranh“ đã không thể thực hiện được, vì Bắc Việt không chấp nhận trong lúc đang thắng thế quân sự. Ngày 30-4-1975, lúc 7 giờ 30 sáng, Ðẩu lại theo Nguyễn Văn Huyền, đi trên công xa của Tổng thống, tới họp tại Văn phòng Thủ tướng Vũ Văn Mẫu, ở số 7 đường Thống Nhất. Theo Ðẩu, ngay trên xe lúc đó, Huyền nói với đương sự bằng tiếng Pháp “Phải đầu hàng“.

Tại Phủ Thủ tướng lúc 8 giờ 30 sáng, bộ ba Minh, Huyền, Mẫu hợp kín. Lúc 9 giờ 15, cũng tại đây, TT Minh dùng điện thoại, đọc lệnh ngưng bắn đơn phương trên Ðài Phát thanh Sài Gòn và Quân Ðội. Lúc 9 giờ 30 cùng ngày, bộ ba Minh-Huyền-Mẫu và nhiều người trong nội các, dùng công xa kéo về Dinh Ðộc Lập, chờ Cộng Sản Bắc Việt tới giao quyền hành. Dịp này Ðẩu cũng tháp tùng nhưng lại bỏ về nhà, nên cho biết không chứng kiến những gì đã xảy ra tại Dinh Ðộc Lập, vào lúc 11 giờ 30 khi xe tăng Bắc Việt có mặt ở đây.

2 – NGÀY 30-4-1975 TẠI DINH ÐỘC LẬP, TT DƯƠNG VĂN MINH ÐẦU HÀNG HAY BỊ QUÂN CỘNG SẢN BẮC VIỆT BẮT ? :

Theo Nguyễn Khắc Ngữ, thì sau khi cuộc di tản của người Mỹ trên mái nhà chấm dứt vào 7 giờ sáng. Lúc đó Tổng thống Dương Văn Minh cũng chưa biết là mình phải làm gì trước giờ thứ 25 của VNCH. Tuy nhiên xung quanh lại có nhiều thành phần trở cờ, thân hay là VC nằm vùng xúi giục, nhất là Vũ Văn Mẫu, Lý Quý Chung, Nguyễn Hữu Thái, Nguyễn Hữu Hạnh, Phạm Quốc Mạnh… bởi vậy đã ra TUYÊN CÁO ÐẦU HÀNG, thâu băng ở Dinh Thủ tướng và được Ðài phát thanh Sài Gòn, phát lúc 9 giờ sáng, với nội dung :

“Ðường lối chủ trương của chúng tôi là Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc, để cứu vãn sinh mệnh của đồng bào. Chúng tôi tin tưởng sâu-xa vào sự hòa giải của người VN với nhau, để phải khỏi phí phạm xương máu của người VN chúng ta. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ VNCH hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và đâu ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ Chính phủ Lâm thời miền Nam VN hãy ngưng nổ súng. Chúng tôi đang ở đây chờ gặp Ðại diện Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam VN, để cùng nhau thảo luận, về việc bàn giao chính quyền, trong vòng trật tự và tránh sự đổ máu vô ích của đồng bào.”

Sau đó Nguyễn Hữu Hạnh, mới được TT Dương Văn Minh gắn lon Chuẩn tướng và phong chức Phụ tá Tổng Tham mưu trưởng QLVNCH lúc đó là Trung tướng Vĩnh Lộc. Vì tướng Lộc đã di tản hồi sáng sớm, nên Hạnh phải thay thế đọc NHẬT LỆNH, với đại ý bắt QLVNCH phải tức khắc tuân lệnh TT. Dương Văn Minh, buông súng đầu hàng Cộng Sản Bắc Việt. Chính lời tuyên bố đầu hàng của Dương Văn Minh, đã làm tan rã ngay QLVNCH, một Quân đội hào hùng, dũng liệt, lúc đó dù đã bị Hoa Kỳ bán đứng và bỏ rơi nhưng vẫn can trường tiếp tục chiến đấu với kẻ thù xâm lăng phương Bắc.

Những tướng lãnh Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Lê Minh Ðão, Trần Quang Khôi, Lê Văn Thân, Ðổ Kế Giai….. người quyên sinh chết, kẽ vào tù khổ sai tại các trại giam ở tận biên giới Việt Bắc. Riêng đồng bào cả nước cũng cùng chung số phận với người linh, chịu cảnh hẳm hiu, lầm than suốt hơn ba mưoi ba năm qua, dưới chế độ tham tàn bạo ngược, mà Tổng thống Dương văn Minh và phe nhóm, đã vô tình hay cố ý, lót đường, trải thảm, rước giặc vào tàn sát đồng đội, đồng bào qua danh từ hoa mỹ “Hòa hợp, hòa giải dân tộc”.

Ðầu hàng để bom đạn khỏi tàn phá Sài Gòn và tránh bớt đổ máu cho đồng bào, vào những ngày cuối tháng tư quốc hận. Nhưng Sài Gòn và cả nước vẫn bì tàn phá hủy diệt, đồng bào cả nước vẫn đổ máu gục ngã, ngay sau khi Cộng Sản Bắc Việt chiếm được cả nước ngày 1-5-1975. Chết nào cũng chết, tàn phá nào cũng là hũy diệt. Vậy tại sao không để cho QLVNCH và đồng bào chết một cách oanh liệt khi đối mặt với giặc thù, mà lại bắt họ và đất nước phải chết đau hận nhục. dưới gót giầy xâm lược của Ðế quốc Ðệ tam Cộng Sản?

Có một sự kiện lịch sử cần phải viết nhớ, là lúc Dương văn Minh cùng phe nhóm vừa từ Dinh Thủ tướng về Dinh Ðộc lập, đã thấy trong sân cỏ có rất nhiều Chiến xa M48 của VNCH nhưng đã bị Tổng thống ra lệnh trở về đơn vị, để chờ đầu hàng. Cũng vì vậy mà Tăng 54 của Bắc Việt mới phách lối ủi xập được cửa sắt của Dinh Ðộc lập và những trận giặc miệng trên báo chí trong và ngoài nước, của Bùi Tín, Bùi văn Tùng, Bùi Biên Thùy và mới đây thêm Nguyễn Ðình Ðầu, Phùng Bá Ðạm, Sương Nguyệt Minh, Nguyễn Khang Thái.. về cái gọi là “Bắt Dương Văn Minh tại Dinh Ðộc Lập “.

Ngày nay đọc ba quyển hồi ký của Võ Nguyên Giáp và Bộ Chung Một Bóng Cờ của Tập đoàn Giải Phóng Miền Nam gồm Nguyễn Hửu Thọ,, Trần Nam Trung, Trần Bạch Ðằng, NguyễnThị Bình.. viết chung, do Nhà xuất bản Chính trị của Ðảng độc quyền phát hành, qua những tiết lộ về các bí mật hậu trường chính trị miền Nam trước năm 1975. Nhờ đó ta mới biết chân tướng của Nguyễn Xuân Oánh, Phó Thủ tướng “Tôi cảm thấy sống rất thoải mái và phấn chấn, vì trong mấy chục năm qua nằm vùng trong Chính quyền miền Nam, tôi cũng đã giúp Ðảng ta nhiều công lớn“. Còn Nguyễn Hửu Có, nguyên Tổng trưởng Quốc phòng thì nói “Ðảng ta mau tuyên truyền ra hải ngoại, để Việt kiều biết tìm cơ hội cống hiến yêu nước XHCN“. Nhưng nhức nhối hơn cả vẫn là Nguyễn Khánh, trong lúc Miền Nam đã nguy ngập vào tháng 3-1975, chẳng những không tìm cách giúp đở, mà còn đâm sau lưng chiến sĩ, bằng cách đòi hỏi Mỹ phải chấm dứt ngay quân viện cho VNCH. Ngày 17-4-1975 khi Cộng Sản đang vây khốn Sài Gòn, thì Khánh viết “The Peace must be Vietnamized – Phải VN hóa hòa bình “, đăng trên tờ New York Times. Cuối cùng, khi được tin Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, Khánh lại liên lạc với MTGPMN hỏi là “Mình phải tiếp tục làm gì?“

Còn Ðại tướng Dương Văn Minh, Tổng thống hai ngày cũng là tổng thống chót của VNCH, ngoài việc dùng quyền hành vua nước và tổng tư lệnh quân đội, bắt QLVNCH buông đầu hàng rã ngủ. Sau ngày 1-5-1975, còn Họp báo công bố “Chính Sách Khoan Hồng Của Cách Mạng“ và nói “Riêng cá nhân tôi rất hân hoan, vì cho tới năm 60 tuổi, tôi mới được trở thành công dân của một nước VN độc lập, tự do”.

Về chuyện gì đã xảy ra trong Dinh Ðộc Lập, vào trưa này 30-4-1975, hiện đã có rất nhiều tài liệu của cả hai phía, cũng như ngoại quốc ghi nhận. Nói chung tất cả sự kiện gần giống nhau, chỉ có khác biệt là ai cũng dành công, việc bắt TT Dương Văn Minh và Nội các VNCH, là của mình. 

– NGUYỄN KHẮC NGỮ:

Viết trong “Những ngày cuối cùng của VNCH“ cho biết vào lúc 12 giờ 30 ngày 30-4-1975, lúc quân Bắc Việt do Bùi Văn Tùng chỉ huy, đã vào được bên trong Dinh Ðộc Lập. Về phía VNCH, tại phòng Khánh Tiết, hầu như có đủ các nhân vật thuộc phe nhóm Dương Văn Minh và nội các của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu, tất cả đang ngồi trên ba hàng ghế chờ. Chính TT.Minh đã ra đón cán binh Bắc Việt, tận cửa Phòng Khánh Tiết và nói về việc bàn giao. Nhưng chúng nhất định không chịu, đòi Dương Văn Minh phải đầu hàng VÔ ÐIỀU KIỆN và cho biết TUYÊN CÁO phía VNCH do Minh và Hạnh vừa đọc, không có giá trị. Sau cùng Lê Văn Minh nói thẳng là Dương Văn Minh đã bị bắt, thì còn gì để bàn giao.

Biết mình đã lở dại, nên TT Minh, Thủ tướng Mẫu đành để cho giặc áp giải tới Ðài phát thanh, ra lệnh cho QLVNCH buông súng đầu hàng vô điều kiện, đồng thời tuyên bố giải tán Chính quyền VNCH, từ trung ương trở xuống địa phương. Còn Vũ văn Mẫu thì nhân danh Thủ tướng chính phủ, kêu gọi đồng bào hoan hỉ đón giặc vào.

– BÙI TÍN CÓ BẮT ÐƯỢC DƯƠNG VĂN MINH ?

Ðây là bài viết của Bùi Văn Tùng, trả lời Thành Tín, tức Bùi Tín qua “Sài Gòn trong ánh chớp chói lọi của lịch sử”, được VC in và phát hành năm 1978. Trong bài viết của Thành Tín, cho biết Bùi Văn Tùng, Chính Ủy Lữ Ðoàn Thiết giáp 203, đã áp giải TT Minh và Thủ tướng Mẫu, từ Dinh Ðộc Lập tới Ðài phát thanh Sài Gòn, rồi tự Tùng và Thệ viết “Bản Tuyên bố đầu hàng“ đưa cho Tổng thống đọc nhưng Minh không muốn dùng chức vụ “Tổng thống“, mà chỉ muốn xưng danh hiệu “Ðại tướng“. Cuối cùng trước mũi súng, Tổng thống kiêm Ðại tướng Dương Văn Minh, đã phải tuân hành theo mọi mệnh lệnh.

Năm 1992, Bùi Văn Tùng có viết một bài liên quan tới các sự kiện trưa ngày 30-4-1975 tại Dinh Ðộc Lập, Sài Gòn. Trong bài viết, Tùng cho biết sau năm 1975, Bùi Tín có làm một Bộ phim về chiến tranh VN nhưng Tùng đã tố Tín, cố tình đạo diễn, để cho mọi người tưởng lầm, chính Tín đã bắt và buộc Dương Văn Minh đầu hàng. Cuối cùng Bùi văn Tùng xác nhận Bùi Tín đã có mặt tại Dinh Ðộc Lập vào chiều ngày 30-4-1975, qua tư cách một nhà báo phóng viên. Nhưng theo Tùng, thì việc bắt Tổng Thống Minh đầu hàng vào lúc 13 giờ 15 phút tại Ðài phát thanh Sài Gòn, chứ không phải Dinh Ðộc Lập. Sự thật là thế nào, chỉ có TT Minh mới biết, tiếc thay ông đã không còn để trả lời.

– NGUYỄN TRẦN THIẾT :

Thiết là một nhà báo Bắc Việt, cho biết vào lúc 12 giờ 12 phút, Ðại tá CS Nam Long lúc đó đang có mặt Trong Dinh Ðộc Lập, đã tiếp phái đoàn báo chí phe mình, trong đó có Bùi Tín. Thiết cho biết mình vào Dinh Độc Lập, với nhiệm vụ phỏng vấn TÙ BINH VNCH có mặt tại chỗ lúc đó, gồm TT kiêm Ðại tướng Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu… Theo Thiết, vì chỉ trong mấy ngày, mà VNCH đã thay đổi ba lần nội các, qua các Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Bá Cẩn, cuối cùng là Vũ Văn Mẫu, nên quá nhiều ông lớn, nên chẳng biết đâu mà mò.

Trong bài của Thiết, có nhắc tới việc Bùi Tín chửi Dương Văn Minh khi Tổng thống đòi bàn giao Chính quyền với MTGPMN “Nhưng ông đâu có chính quyền để bàn giao? Người ta không thể giao cái gì không có trong tay bọn Ngụy quyền cũ từ dưới lên trên đã sụp đổ hoàn toàn“. Nhưng Minh vẫn có cãi “Các ông có thấy Sài Gòn không đổ máu? đó là mơ ước của tôi “. Và đã được Bùi Tín trả lời “Ðúng, Sài Gòn gần như không đổ máu, không bi tàn phá. Ðó là do sức áp đảo và khí thế thần tốc của cách mạng “.

Mai mĩa nhất là Nguyễn văn Hảo lúc đó đòi được bắt tay với bộ đội Bắc Việt và khoe chính mình đã ngăn cản không cho bất cứ kẻ nào phá hoại nguồn lợi kinh tế của nước ta. Kho bạc còn, vàng dự trữ còn. Công lao của tụi này đấy…

Tóm lại, tại Dinh Ðộc Lập ngày 30-4-1975, theo Nguyễn Trần Thiết thì chính Sáu Hoàng Cao Minh Chiếm, mới là người Ðại diện chính thức của Bắc Việt, chấp nhận sự đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh và nội các.

Riêng Nguyễn Hửu Hạnh nhờ nằm vùng, nên sau tháng 5-1975 được Cộng Sản thưởng công làm Ủy viên Ủy Ban Mặt Trận GPMN, thành phố Sài Gòn-Gia Ðịnh rồi lên Ủy viên Ủy Ban Trung Ương Mặt trận Tổ Quốc VN.

– PHÙNG BÁ ÐẠM :

Tháng 4-2005, trên báo Khoa học phổ thông số 18 xuất bản tại Thành Hồ, có đăng bài “Gặp lại một nhân chứng lịch sử“ của Nguyễn Khang Thái”. Bài viết ghi lại lời kể của Phùng Bá Ðạm, tự nhận thuộc Trung đoàn 66, Sư đoàn 304, Quân đoàn 2, là đơn vị đã vào Dinh Ðộc Lập đầu tiên ngày 30-4-1975. Theo Ðạm kể, khi xe tăng Bắc Việt còn cách Dinh Ðộc Lập khoảng 300m, thì Tô Văn Thành, thuộc Ðại đội 3, Tiểu đoàn 7, ngồi trên xe tăng trúng đạn chết. Vì vậy khi tới gần Dinh ĐL, xe tăng VC đã mở hết tốc lực ủi sập cổng và tiến vào sân cỏ trước dinh.

Nhờ các nhà báo hướng dẫn, Phạm Xuân Thệ, Phùng Bá Ðạm, Ðào Ngọc Vân.. với lá cờ của MTGPMN chạy lên lầu và gặp Nguyễn Hữu Hạnh ở tầng 2, đón đưa vào phòng khánh tiết, lúc đó đã có TT Minh và nội các đang ngồi chờ đầu hàng. Do Ðài phát thanh Sài Gòn lúc đó đã ngưng hoạt động, nên Thệ, Ðạm áp giải TT Minh và Vũ Văn Mẫu, tới nơi để lên đài, mặc dù Ðại tướng cố từ chối.

Trên đường tới Ðài phát thanh, ngồi trên xe Jeep do Ðào Ngọc Vân lái. Ở băng trước TT Minh ngồi với Phạm Xuân Thệ. Còn Vũ văn Mẫu, Phùng Bá Ðạm, Ðinh Thái Quang cùng 2 bộ đội, ngồi phía sau.

Ðài phát thanh Sài Gòn lúc đó đã bị Tiểu đoàn 8 Bắc Việt chiếm. Chính bản văn“Tuyên bố đầu hàng “, mà TT Dương Văn Minh đọc trên đài, là do Phạm Xuân Thệ, Ðinh Thái Quang, Trịnh Ngọc Ước và Phùng Bá Ðạm đạo diễn. Lúc này Trung tá Bùi văn Tùng, Chính Ủy Lữ đoàn 203 Thiết giáp cũng vừa tới. Theo Ðạm kể, vì lúc đó trong bọn, Bùi văn Tùng có cấp bậc cao nhất, nên thay mặt quân Bắc Việt, chấp nhận lời đầu hàng của TT Dương Văn Minh, vào lúc đồng hồ chỉ 11 giờ 30 phút, ngày 30-4-1975.

Kể từ giờ phút đó Sài Gòn tan hoang và thê thảm nhất là tại Tòa Ðại sứ Mỹ, nằm trên đường Thống Nhất-Mạc Ðỉnh Chi. Phủ Thủ tướng Mẫu, cả con dấu cũng lăn lóc dưới sàn gạch. Trong Bộ Quốc Phòng, Tổng Nha Cảnh Sát, Bộ Tổng Tham Mưu… đâu đâu cũng ngổn ngang xe Jeep, súng ngắn.. mà người xưa đã đi đâu mất.

Từ đó người VN chịu cảnh đổi đời. Tất cả đều bị Rợ Hồ gọi là “Nguỵ”, lính tráng là Ngụy quân, công chức là Ngụy quyền và đồng bào Miền Nam cũng thành Ngụy Dân. Nhờ Tổng Thống Minh kịp thời đầu hàng, tránh cho Sài Gòn còn nguyên vẹn, kể cả 16 tấn vàng của Ngân hàng quốc gia do Nguyễn văn Hảo giữ, giúp cho Bắc bộ Phủ, thâu tóm trọn vẹn tài sản của dân chúng và công khố nhà nước một cách đầy đủ. Từ đó nhờ công cách mạng giải phóng, nên người Việt từ bắc vào nam, chịu chung cảnh người thành vượn, đói rách thảm thê, không có bút mực nào diễn tả cho trọn vẹn.

Cũng từ đó dân chúng căm hờn, đổ hết mọi trách nhiệm cho ông Dương văn Minh, một tổng thống cuối cùng của VNCH, vì ngu muội khiến cho dân chúng lầm than dưới chế độ bạo tàn của đệ tam quốc tế, tạo cợ hội cho đảng cộng sản VN, đem đất đai biển đảo, tài nguyên quốc gia, nhượng bán cho kẻ thù không đội trời chung của Dân Tộc là Trung Cộng. Thế là cuộc bút chiến xảy ra công khai trên báo chí hải ngoại giữa hai phe thương và ghét Dương Văn Minh.

Người ta trách ông Minh không phải là trách ông đã ra lệnh cho QLVNCH buông súng đầu hàng giặc, nhưng trách ông, tự biết mình là người rất ấu trĩ về chính trị, từng là bại tướng của Khánh, Khiêm, Thiệu nhiều lần. Tài năng như vậy, mà dám xưng phong ra nhận lãnh trách nhiệm cứu nước trong giờ thứ 25, khiến cho nước non phải thảm nhục.

Người ta trách ông Minh ham sống sợ chết, không biết hành xử xứng đáng với cương vị và thân phận của mình. Ðường đường là một Ðại tướng, Lãnh tụ phe thứ ba và trên hết là Tổng thống của một nước nhưng ông Dương Văn Minh, đã cố tình làm ngơ, các gương trung liệt nghĩa khí của người xưa, gương anh hùng bất khuất của thuộc hạ trước mắt “Chết để giữ tròn khí tiết, chết vinh hơn sống nhục “.

Thật vậy hoàn cảnh của tướng Minh, đâu khác gì thảm trạng của hai tướng giữ thành Bình Ðịnh, vào năm Tân Dậu 1801. Lúc đó thành bị Tây Sơn vây hãm lâm vào cảnh tuyệt lộ, trong không lương ngoài chẳng binh cứu. Trong nổi tuyệt cùng, Võ Tánh và Ngô Tùng Chu đã viết thư cho tướng Tây Sơn Trần Quang Diệu “Phận ta làm chủ tướng, thì đành liều chết dưới cờ. Còn tướng sĩ và dân chúng không có tội tình gì, không nên giết hại“. Sau đó Võ Tánh tự đốt chết, còn Ngô Tùng Châu uống thuốc độc quyên sinh.

Trưa 30-4-1975, khi TT Minh ra lệnh QLVNCH buông súng đầu hàng. Nhiều binh sĩ đang chiến đấu tại mặt trận đã tự tử chết, vì họ không muốn đối mặt với kẻ thù tàn ác dã man. Các tướng lãnh Phạm Văn Phú (Tư Lệnh QD2), Nguyễn Khoa Nam (Tư lệnh QD4), Lê văn Hưng (Tư Lệnh Phó QD4), Lê Nguyên Vỹ (Tư lệnh SD5BB), Trần Văn Hai (Tư Lệnh SD7BB)… kẻ trước người sau, quyên sinh để bảo toàn khí tiết cho quân đội Miền Nam nói chung và danh dự của một cấp chỉ huy, lúc sa cơ thất thế.

Trái lại Ðại Tướng cũng là Tổng thống Dương Văn Minh, khúm núm ra trình diện trước các tên cán binh tép riu của Bắc Việt như Bùi Quang Thận, Ðại Ðội Trưởng, ĐĐ Chiến Xa, để rồi bị tên chủ nhiệm chính trị của đoàn xe tăng mang số 203 là Lê Văn Minh nạt nộ: ”các anh đã bị bắt, không có bàn giao gì cả“.

Mới đây đào hát cởi truồng một thời phản chiến Jane Fonda, vì muốn quảng cáo cho một tuỳ bút nói về chuyện tình của mình, đã lên đài CBS, nhỏ những giọt nước mắt cá sấu, để nhận tội phản quốc với Hoa Kỳ, khi ả sang Bắc Việt, vào năm 1972, ngồi trên các khẩu cao xạ chửi Mỹ. Câu chuyện khôi hài của đám con buôn chính trị thập thành cũng chẳng có gì lạ nhưng đối với người Việt tị nạn, thì lại có một ý nghĩa, vì ít ra cô đào hát còn có can đảm nhận sự sai lầm của mình. Trong lúc đó thử hỏi những kẻ từng đâm sau lưng người lính đã hy sinh cho họ, hiện nay đang sống nơi hải ngoại, có ai dám muối mặt như Fonda để nhận sai trái năm nào, dù thời gian tới 42 năm và mặt nào phản chiến, phản tặc, tới nay ai cũng đều biết.

Thanh niên nam nữ, miền Nam VN, thế hệ sinh từ 1900 về sau, thường mượn tư tưởng làm trai của Nguyễn Công Trứ, để làm hành trang xử thế khi vào đời :

“ Ðã mang tiếng đứng trong trời đất
phải có danh gì với núi sông “

Còn ông Dương văn Minh lại là một nhân vật lớn của lịch sử, tại sao không vì lịch sử, mà lưu lại cho hậu thế cái khí tiết “Nhất Tướng Công Thành, Vạn Cốt Khô?”

Thì ra con người cũng có năm bảy hạng người .

Ngày 29-4-1975 Dương Văn Minh làm tổng thống ra lệnh cho quân dân Miền Nam đầu hàng CS Bắc Việt, khiến cho cả nước phải sống trong cảnh cùm gông địa ngục, hận tủi trùng trùng vì giặc Hồ bán nước cầu vinh. Ngày 29-4-2008, tập đoàn lãnh đạo Bắc Việt mở cửa để đón Tàu đỏ vào VN, qua vở tuồng rước đuốc thế vận Bắc Kinh 2008. Cùng chung một ý nghĩa “thể thao“ nhưng tại các quốc gia khác, đuốc máu của Tàu đỏ, được đón hay bị tẩy chay là do người dân quyết định. Trái lại tại VN, chính quyền gần như công khai hoan hô đuốc máu của giặc, hết lòng bảo vệ và cấm tuyệt dân chúng trong nước biểu tình phản đối. Ðau nhất là đuốc máu của giặc sẽ ra tận Hoàng Sa và Trường Sa của chúng ta, để biểu dương cho thế giới biết là VN ngày nay chỉ còn là một quận huyện của thiên triều.

Non nước điêu linh mạt rệp tới độ không còn chữ nghĩa nào để mà diễn tả cho hết niềm đau nổi nhục này nhưng biết làm sao hơn ?

TÀI LIỆU THAM KHẢO :

– Những ngày cuối cùng của VNCH Nguyễn Khắc Ngữ

– VN. Niên Biểu Nhân vật Chí của Chánh Ðạo

– Nam Kỳ Lục Tỉnh (IV) của Hứa Hoành

-Ðôi dòng ghi nhớ của Phạm bá Hoa

-QLVNCH trong giai đoạn hình thành của Bộ TTM.

-Những bí mật cuộc cách mạng 1-11-1963 của Lê Tử Hùng

-Hồi ký của Nguyễn Chánh Thi

-Les Guerres du VietNam của Trần văn Ðôn

-Saigon et Moi của Mérillon

-sách vở bao chí KBC,PNDD,TP..

Xóm Cồn

Tháng 4 Quốc Hận

MƯỜNG GIANG