TRÊN ĐỈNH CHARLIE (Phan Nhật Nam)

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

Trong lúc những bạn tôi, những bạn thiết đã từng chung sống qua những ngày dài đầy âm động hào hùng rực rỡ, những người ấy đang nhai cơm sấy, uống nước hố bom, ngồi trong giao thông hào, nhào mình từ các “ slick” xuống và đang… khó khăn. Nỗi khó khăn của một cái chết từ từ chắc chắn có khoảng cách, tiếng động khi các viên đạn 130 ly départ từ hốc núi bay đến, viên đạn bay đến “delay” một thời khắc – Thời khắc lặng lẽ tê điếng. Xong, viên đạn nổ với toàn thể tàn phá,

Trong những lúc đó, tôi đứng ngồi lười lẫm, vây bọc bởi một không khí bệ rạc dật dờ của bệnh viện, tụ họp với những người sớm mệt mỏi ở chiến trường, loay hoay rắc rối cùng các thứ thuốc men, những buổi tập “vật lý trị liệu”. Đời sống bốc một mùi ngây ngất nhạt thếch buồn buồn.

Bài viết như một lời tạ lỗi, cũng là lời chào tiễn những kẻ đã ra đi, như hòn đất vĩnh biệt ném xuống đáy huyệt đau đớn cho “anh Năm”, Thinh, Hùng “mập” và những lính thân ái nhiều lần tôi đã gặp…

Sau đây là nội dung câu chuyện thường tình và bi hùng của một trận đánh trong cuộc chiến cuối mùa. Trận đánh nhỏ, cấp Tiểu Đoàn, trên ba đỉnh núi trọc, dưới đám cỏ tranh, khuất sâu sau cành lá của dãy đường đỉnh phía Tây đường 14. Trận đánh nhỏ nhưng chất chứa toàn thể tuyệt vọng, phi lý và bão lửa của cuộc chiến tàn khốc dày đặc, trong đó người lính Việt Nam đã anh dũng chiến đấu vượt qua ý niệm – Anh dũng, tĩnh từ dùng nhiều quá hóa nhàm nhưng thật ra không còn ngữ từ nào để xác nhận tính cách của những người lính Nhảy Dù đã chiến đấu và chết trên trên cao độ được đặt tên là C hay Charlie… Một đỉnh núi nhỏ nằm trong trùng trùng của núi rừng cao nguyên chất ngất.

Viết cũng để dành cho M, người bạn thân, bị ngộ nhận sau trận đánh quá nhiều kẽ hở từ lúc thiết kế. Xác nhận M không thua, và thái độ muốn bỏ qua, quên đi niềm kiêu hãnh của mình là một điều không đúng. Thật sự M không quên, không muốn quên hay quên không nổi… M cũng không bại trận . Chẳng có gì gọi là thua trong cuộc chiến tranh vượt ra khỏi giới hạn và kích thước của mình, điều quan trọng là đã chiến đấu đúng cỡ. M đã làm được chuyện nầy, nhưng cái lon Thiếu tá quá nhỏ và trận đánh chỉ là lớp sơn bề mặt… Đấy là ngọn lửa để nung chín, làm già giặn trưởng thành hơn…

Viết như đốt ngọn lửa tự tin cho người bạn, viết để xác nhận những người chết, dù xác không mang về được vẫn là những anh hùng mà định mạng đau đớn của dân tộc bắt buộc phải dẫn lên để tồn tại qua cơn điêu linh, món quà cay độc do một đấng thượng đế khốn nạn đã đổ xuống trên quê hương. Đến đây, người gặp người.

Con đường Hồ Chí Mình khi vào đến đất Lào rẽ đến vùng ba biên ở phía đông cao nguyên Boloven chia làm hai nhánh. Nhánh thứ nhất từ Chayane đâm thẳng biên giới xuyên qua dãy Chumonray để nhắm vào Đakto. Nhánh thứ hai từ BanTasseng qua trại Lệ-Khánh và Kontum là điểm cuối cùng, trong quan niệm chiến thuật của Bắc quân, thị trấn phải chiếm giữ để làm bàn đạp lần xuống Pleiku, rồi từ đây đi về phía đông, bình nguyên vùng Bình Định. Gọi nhánh thứ nhất là nhánh Bắc, nhánh thứ nhì là nhánh Nam… Trong chiến dịch xuân hè 72 của mặt trận B3, đường rẽ phía Bắc được xử dụng, từ đỉnh 1773 của núi Chumonray con đường không thể gọi là một nhánh nhỏ của “đường mòn Hồ chí Minh” nữa, nhưng phải gọi đó là một cái lộ tuyến phẳng phiu trơn láng, chạy ngoằn ngoèo qua các cao độ, đổ xuống những thung lũng hun hút của dãy Big Manma Mountain rồi bò theo hướng Đông, cho đến tỉnh Kngok Kon Kring. Đỉnh núi này cao quá, con đường phải quẹo qua trái đi lên cao độ 960 và tạm dừng lại… Dừng lại vì phía đông hướng trước mặt chỉ cách 10 cây số con sông Pô Kô đang dậy sóng, con sông ầm đổ qua ghè đá ồn ào đi giữa rừng xanh núi đỏ. Bên kia sông, quốc lộ 14 chỉ khoảng trên dưới 6 cây số và đầu con đường là Tân Cảnh, mục tiêu của bao chiến dịch. Từ ngày chiến tranh “giải phóng” bùng nổ. Đây rồi “nồi cơm điện National”, đây Tân Cảnh hấp dẫn ngon lành như cô gái yếu đuối hớ hênh thụ động nằm dưới một thung lũng bát ngát ở đằng kia… Bộ đội ta tiến lên! Nhưng không được nữa, con đường đã bị dừng lại, và bộ đội ta dù được tùng thiết, dù được đại pháo dọn đường cũng phải dừng lại, vì đỉnh 960 chính là bãi đáp C, là cứ điểm Charlie và Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù đã xuống Lz này từ ngày 2-4. Con cháu Bác và Đảng phải ngừng lại bố trí trận địa…. Nỗ lực kinh khiếp kéo dài trên năm mươi cây số đường núi, từ ngã rẽ đất Lào phải đứng lại vì chạm phải sức người. Ở đây, người đã gặp nhau…

Vực thấp, đỉnh cao, bạt núi, xẻ đèo, những con đường cuồng tín và tội nghiệp của miền Bắc đã làm được tất cả. Con đường núi của tướng Stilwell từ Miến Điện đến Trùng Khánh cũng là một sự khủng khiếp, đường xuyên sơn vạn dậm, dài thật dài, quanh co khúc khuỷu lớp lớp giữa núi rừng nhiệt đới, con đường nổi tiếng đúng như tầm vóc và giá trị của nó… Cả nước Tàu sống bám vào cái ống thậm thượt hun hút này. Nước Tàu dân chủ tự do, nước Tàu đồng minh tuyệt diệu của người Mỹ dễ thương, cần phải sống để chống đỡ trục vĩ đại Bá Linh–Đông Kinh. Con đường đáng tiền và đáng sợ. Nhưng con đường này làm bằng máy, dưới sự yểm trợ và che chở của các “ong biển” tuyệt hảo, những người lính Công binh chiến đấu hãnh diện của Mỹ Quốc giàu sang hùng mạnh…

Năm mươi cây số đường xuyên sơn của bộ đội ta thì khác, bộ đội làm bằng tay trong đêm tối, làm dưới tấm lưới thép của B52 trên chiếc thảm tử thần đầy bom bi CBU. Sức người và lòng cuồng tín ghê gớm đã vượt qua giới hạn, đấy không còn là người với thịt đã biết mệt mỏi đau đớn, cũng không phải là người với trí óc biết nguy biến và sợ hãi. Bắc quân, khối người vô tri tội nghiệp chìm đắm trong ảo tưởng và gian nguy triền miên. Con đường sạn đạo vào đất Ba Thục tân thời được hoàn thành từng phân từng thước, Bắc quân theo nó đi về đông…

Nhưng đến đây, ở cao độ 960 người lính Bắc Việt không tiến được nữa vì người đã gặp người. Một thứ người rất thường và giản dị, người biết lo âu, biết sợ nguy biến, người có ước mơ và ham muốn vụn vặt, những người không thần thánh hóa lãnh tụ và tin tưởng Thiên Chúa cũng chỉ là bạn ân tình… Nhưng đó cũng là những người lính đánh giặc “tới” nhất của quân lực miền Nam, chỉ huy bởi những sĩ quan miệt mài trên dưới mười năm trận địa. Những sĩ quan biết đánh hơi rất chính xác khả năng và ý định của đối phương. Bắc quân dừng lại giữa đường, ảo tưởng bị công phá và tan vỡ, họ đã gặp lính Nhảy Dù Việt Nam.

Nhất kiếm trấn ải

Anh Năm bố trí quân hết xẩy. Cứ điểm C, hay Charlie hay cao độ 960 cho thằng 1 (Đại Đội 1) giữ. Phía Bắc của C là C1 cho thằng 3 do Hùng “mập” làm Đại Đội trưởng. Đại úy thôi, nhưng người có đủ tác phong và khả năng để tiến xa nơn nữa. Hừng cũng là tay văn nghệ, là cựu lãnh tụ sinh viên. Hùng có kích thước của tướng Thắng ở hình thức và lời nói, Hùng “mập” không phải là một “simple Captain”, Hùng có ý chí và đảm lược, nhưng bây giờ mới là Đại úy nên giữ phía Bắc của Charlie! Đồng ý, Hùng “mập” đem quân lên phía Bắc dưới chân Yankee đào hầm và giao thông hào, căng mìn bẫy để chờ con cháu Bác, những chiến sĩ Điện Biên… “Điện Biên cái mẹ gì, lúc xưa bố nó đánh Điện Biên chứ đâu phải nó, chú tôi cũng Tiểu Đoàn trưởng đánh Điện Biên lúc trước, bây giờ tụi nó là gì ? Không lẽ tôi là Tây sao ?” Và Charlie chính cống giao cho Thinh, Trung úy khoá 25 Thủ Đức. Thinh còn trẻ tuổi người lẫn tuổi lính. Thinh có vẻ yếu trước mắt mọi người vì Thinh đẹp trai. Đã đẹp trai tốt mã thì đánh giặc hơi yếu, chẳng hiểu sao phần nhiều là như thế. Những anh có vẻ tài tử ăn nói ngon lành thường thường hay lạnh cẳng. Con người mà, được cái này mất cái khác. Nhưng anh Năm, dưới cái nhìn sắc sảo của con ó, kiêm thêm sự “suy tư” của Mễ đã chọn Thinh để giữ Charlie, vì chắc được một điều ; đây là một tay “dur”, một thứ liều, loại kép trẻ đang lên của trận địa.. Thinh được lãnh hãnh diện “Nhất kiếm trấn ải ”. Và những ngày sau, Thinh đã chứng tỏ người chỉ huy mình không nhầm lẫn. Tuần còn lại Tiểu Đoàn lên ở cao điểm 1020 hay C2, anh Năm bảo Mễ :

– Mình giữ hột lạc này (ở bản đồ cao điểm thườg giống hình hột lạc), vì phía Nam tao chắc toàn tụi nó, lịnh hành quân bắt mình phải trấn cửa thằng Charlie. Bố khỉ, khó quá, trước sau gì tụi nó cũng đánh và mình chỉ gắng “thủ”.

Thủ, vậy là yếu rồi, lực lượng Nhảy Dù có ưu điểm vì được thế lưu động, bây giờ kẹt trên một đỉnh núi để thủ. Trong ý niệm hành quân, vị trí không được quan niệm như một điểm cần cố thủ, trận mưa pháo cối và hỏa tiễn… Đêm thật dài, người ở Charlie chờ đợi và theo dõi kết quả. “Tiên sư, tụi thằng Mạnh (Tiểu Đoàn ở Delta) bị rồi”, Bộ chỉ huy 11 Dù chong mắt vào loa khuếch đại của máy truyền tin… Trời dần sáng, Delta lấy lại được, quân ta thắng. Anh Năm nhìn Mễ:

– Mày thấy đấy, chúng nó cũng sẽ chơi với mình cách này, nó rút ưu khuyết điểm của Delta để “dứt” mình. Bộ chỉ huy Tiểu Đoàn im lặng, đó cũng là nhận xét chung của mọi người . Bao giờ đến lượt mình ?

Nhưng “anh Năm” không thụ động, con hổ dù bị nhốt trong chuồng vẫn còn nguyên phong độ của nó. Không cần phải “luận” lâu, đây quyết định của anh.

– Mễ, mày đem hai thằng 2 và 4 (Đại Đội 2 và 4) lên chiếm tao cái này. – Anh chỉ vào cao điểm ở Nam C2. – chiếm được sẽ cho thêm một thằng giữ nó, mình đã bị phân tán mỏng thì cho mỏng luôn, càng mỏng càng tốt, tránh được pháo, đỡ bị tụi nó vây… Mày nghe chưa ?

Mễ gật đầu, anh Năm “thấy” trước, nó cũng chung ý nghĩ. Đã vào bẫy thì mình phải thoát, một đỉnh núi không thể là vị trí để cố thủ.

– Tôi nghe lời anh Năm. – Mễ trả lời.

Trời vừa sáng nó quay sang bảo Hải :

– Ông cho hai thằng 2 và 4 chuẩn bị, mình đi là ăn.

Ba đợt xung phong không thành, Bắc quân không dại dột để bỏ vị trí rất nhiều ưu điểm. Sườn dốc quân ta “chạy” bằng tay lẫn chân vẫn không nhưng nhiệm vụ thì phản lại. Quân ta hớ hênh ngay từ lúc đứng tấn, đường gươm đã chệch khỏi yếu huyệt đối phương. Anh Năm, Mễ, Hải đều biết rõ như thế. Nhưng làm gì được, “tao mới chỉ là Trung Tá, hôm họp hành quân lại được thuyết trình 320 (Sư Đoàn Điện Biên) đã rút về Tây.

– Thôi mình gắng vậy, đã xuống đây thì phải giữ chứ biết làm sao!

– Anh Năm yên chí, mình “hơn tiền” tụi nó mà…– Mễ chắc giọng.

Nhưng thật ra tất cả chỉ là những câu nói bề mặt, phía trong, sau những lý luận và phân tách do sự nhạy cảm về chiến trường mọi người đều cùng ý nghĩ –Xong rồi, mình lọt bẫy, chiến tranh miền núi là chiến tranh của cao điểm, đành rằng C2 và C cũng là là cao điểm nhưng 960 và 1020 làm sao chế ngự được 1773, 1274, 1512 của Big Manma Mountain và một dãy đường đỉnh phía Nam của rặng Chu To Sang… Và pháo binh của “tụi nó”. Pháo kèm một rừng cối như kỳ ở Hạ Lào… Sự thông minh tinh tế của những “sĩ quan trẻ” phải ngừng lại ở đây không dám nghĩ thêm nữa. Phần nhiệm vụ của lệnh hành quân đã giao cho họ đỉnh 960. Họ chỉ có trong tay một đỉnh núi trọc để sửa soạn vinh quang cùng cái chết. Họ chỉ có được một Charlie trơ trọi bốc hơi dưới nắng đỏ nóng chảy của trời Tây Nguyên. Định mệnh, sức mạnh khốn kiếp đã bắt như thế.

Ngày 6, Delta ở phía Nam bị đánh, đúng chiến thuật, trước khi đánh lính ông Giáp ào xuống một … (thiếu trang 154)

(bắt đầu trang 155)

…bám được, AK, thượng liên chỉ là đồ chơi nhỏ, 12ly7 hạ nòng và 75 sơn pháo bắn thẳng giăng ngang hàng lưới lửa…

“Cho thằng Mễ lui” Anh Năm bảo Hải, trán cau lại anh nhìn xuống đất, gỡ kính chớp mắt, nói sau tiếng chặc lưỡi : “Mình bị một con dao đâm lún cán vào lưng!”

Những ngày sau tương đối bình yên, hằng ngày các Đại Đội 1, 2, 3, 4 tung các đứa con ra xa lục soát, chỉ trừ đường về Nam nơi tụi “chó đẻ” đang chui trong núi. Làm sao “móc” nó ra được ? Bom thả xuống hằng ngày nhưng chỉ là bom miễng. Hầm “tụi nó” đào theo chữ U, chữ con c… gì làm sao bom “lách” vào được!

Anh Năm đi lại trên “hột lạc” nhìn bốn hướng trùng trùng, và xa xa trong ánh nắng về phía Tây, cuối con đường trong vùng “Núi lớn” có bụi mù…

– Xe chúng nó, Tăng hay GMC tụi nó, bom, bom, Hải! gọi Lữ Đoàn …

– Để em gọi, Molotova chứ không phải GMC anh Năm !

– Thì đấy là GMC của Nga, mầy biết gì !!

Đàn em thì bao giờ cũng chẳng “biết mẹ gì”. Anh Năm hay phủ đầu như vậy, nhưng đấy chỉ là cách nói, anh rõ ưu điểm của mỗi thằng như một máy ghi cực tốt. Máy bay ta ào ào bay tới, con đĩ “Lan 19” lượn một vòng trên vùng được chỉ định, cho “ra” một trái khói. Khu trục ào xuống, bom nổ dâng cột khói lên cao…

-Tiên sư, bom ném thì hay nhưng sợ tụi nó trốn rồi, nó không trốn bằng cách de nhưng lại tới mình gần hơn thì bỏ mẹ …

Sau cơn bom, khói bay lên không, trong ánh nắng lại có lớp bụi mới bốc lên…

– “Tăng” nữa! Đông quá, tụi nó chưa bị… Tiên sư nó trốn ở đâu nhỉ ?

Trên đồi cao anh Năm đứng im như con báo nhìn lũ sài lang. Tiến tới hàng hàng lớp lớp. Làm gì được bây giờ, không lẽ xin thêm phi tuần bom sao?

Ngày 11, trận địa pháo bắt đầu, pháo thật sự, 122, 130 rơi xuống C, Cl, C2 không phải từng trái, nhưng từng chùm, từng loạt… Một, hai, ba… bốn, năm, sáu. Hải cố gắng đếm :

– Mày làm gì thế, điên à ? – anh Năm vừa hỏi vừa cười…

– Mình gắng đếm để báo cho chính xác!

– Thế thì mày phải đếm bằng hàng chục, một chục, hai chục…Tụi nó đâu “đi tiền” lẻ…

– Tụi nó chơi tôi ! – Thinh ở Charlie báo cáo qua máy.

– Mầy giữ nổi không ? – Anh Năm cướp ống liên hợp trên tay Hải.

– Trình đích thân suya là tôi giữ được, xin cho pháo mình nổ gần tôi chút nữa…

Pháo ở Vẻ Vang rơi trước, xuống sườn phía đông của cứ điểm. 105 và 155 đều đặn từng trải một…

– C… bắn gì quí phái vậy, nó tấn công ở phía Tây, xin tụi ở căn cứ 5 bắn xuống dễ hơn.

Hải bốc ba bốn cái máy một lúc, năm ngón tay chuyên “xoa” và “nặn” di chuyển nhẹ như chớp .“Thằng này gọi khều là phải nó khều cái gì đúng cái đó”. – Anh Năm còn gắng phịa một câu…

Pháo ở căn cứ 5, Sơn Tây cùng ào xuống một cú. Thế này mới được – Anh Năm gật gù. Tiếng Thinh vang vang trong máy : Đích thân cho như vậy, em đánh tụi nó như chơi… Tốt, cho gần hơn 50 thước !

Bốn mươi lăm phút sau, pháo im, cả ta lẫn của địch. Anh Năm lên hầm chong ống nhòm xem thằng 1 bên kia lục soát. Súng và xác tụi nó nằm dài dài…

– Nó đánh thằng 1 để thử sức, chỉ là đợt chơi, cú dứt sẽ với mình..

– Trung Tá, ở trên họ không tin tụi nó pháo bằng 130 ly. – Hải báo cáo.

– Gì ? – Anh Năm chỉ gắt được một tiếng. Như thế là người đang cáu, trường hợp này rất ít, và anh vốn rất tỉnh, sự giận chỉ đến sau chót của chịu đựng.

– Họ bảo mày sao ?

– “Họ” bảo tôi kiếm mảnh 130 ly để gởi về !!

– Đến đây mà kiếm, muốn thấy súng thì cũng đến đây, tao mà hoảng đi để báo cáo láo sao !!– Anh đá một hòn đất bay tung.– Tụi nó xài toàn đạn “Delay” mới thế này… Câu nói ngắn đau đớn như một vùng vẫy tuyệt vọng.

– Cho sửa sang hầm hố lại, ngày mai gì tụi nó cũng chơi nữa.

Trước khi bước đi anh quay sang Hải :

– Mầy trình lại với Lữ Đoàn, đây là 130 ly thật, 130 ly với đạn “Delay”, loại xuyên phá… Mày bảo tao nói thế.

Đêm xuống thật mau, đêm núi rừng thẫm màu và đầy đe dọa. Sao trên cao lấp lánh, sương mù đùn lớp lớp. Đêm như có hình khối chuyển dịch, đêm kinh khiếp như chất chứa hàng ngàn sinh vật đang bò dần vào cứ điểm. Đêm yên lặng, nhưng khối yên lặng kinh dị như khoảng thời gian từ khi viên đạn ra khỏi nòng và sắp sửa “chui” xuống mái hầm. Trong bóng tối, mấy trăm con người trên ba cứ điểm dựng đứng đôi mắt. Ngủ chỉ là khoảng khắc ngắn để đôi mắt khép lại, đầu gục xuống, xong giật mình tỉnh giấc như vừa qua một cơn mê dài… Tiểu Đoàn 11 Dù qua đêm trong chập chờn sắc buốt với cảm giác có viên đạn vô tình đang bay thẳng vào mặt. Có ráng hồng ở bên kia núi, ngày đã tới, ánh sáng đẹp và âm vang hân hoan. Tiếng nhạc lặng lẽ nồng nàn vì đã sống qua được một đêm.

Ngày 12 bắt đầu, lính cong lưng xuống trên đất để đào thêm độ sâu, càng sâu càng tốt. Tỷ lệ được sống sót là lớp đất đá vô tri này, đất được đổ lên mái… Con người chui lọt vào giữa đất đá, tội nghiệp và thụ động như con sâu ẩn mình trong tổ. Pháo sẽ đến lúc nào… Câu hỏi âm thầm vang trong đầu của hàng trăm người, ba cứ điểm im lặng lơ thơ vài sợi khói mỏng manh, chỉ có tiếng cuốc chạm vào đất đá vang vang đều đều như hơi thở bị ngắt khoảng.

Trong lều chỉ huy của Hải, anh Năm Tiểu Đoàn Trưởng đang chỉ những điểm nghi ngờ Bắc quân đặt súng.

– Chắc chắn chúng nó chôn súng ở đây. – Anh chỉ tay trên các đỉnh Kngok To Im Kagok Im Derong, toàn là cao độ trên 1500, tụi nó thấỵ mình ở đây rõ như mình thấy thằng 1 ở dưới Charlie… Ngày hôm qua nó bắn mình không trật một phát ra ngoài… Mầy xin mấy phi tuần để sẵn, có gì cứ dội xuống… Xong, ông Mễ và Bác sĩ Liệu về hầm đi, đừng tụ tập một nơi.

Mễ và Liệu đứng dậy:

– Chào Trung Tá!

Anh Năm gật đầu, hình như anh gượng cười, có điều gì khó khăn sắp xảy ra. Không ai biết, nhưng tiếng nói của mọi người đều có vẻ cứng cứng đổ vỡ. Tai ương và nguy biến làm con người tê liệt.

– Thôi, tôi về có gì tôi chạy qua với ông. – Anh Năm cũng đứng dậy sau một lúc ngồi im lặng.

Hải tiễn anh ra cổng hầm, anh bước lên nặng nề và chậm, chiếc lưng cong xuống. Anh đi trên đất đá đào xới với dáng điệu của một con hổ khi trở lại rừng xưa bị tàn phá.

11 giờ 5, pháo lại bắt đầu nhưng C2 bị nặng hơn C và C1.

Hải đếm từng chục trái một. Nó hét trong máy báo cáo với Lữ Đoàn :

– Tôi và hai đứa con cùng bị một lúc, tọa độ đặt súng ở yếu tố buổi sáng, không ước lượng được, trên hai trăm trái rồi… Tụi nó tấn công C.

Bắc quân từ Tây và Tây Nam đồng nhào lên C, những người ở C2 nhìn xuống sườn đồi thấy lúc nhúc những bóng áo vàng di chuyển chậm chạp lui tới ở phía trái của cứ điểm.

– Nó đánh giặc kỳ vậy ? – Anh hạ sĩ quan hành quân hỏi Hải.

– Tụi nó điên, đâu phải Sư Đoàn Điện Biên mà phải gọi là sư đoàn “điên”, đ… có thấy ai ngu bằng tụi nó.

Lính của Thinh nhỏm dậy khỏi giao thông hào, súng bắn không nhắm, lựu đạn ném không phải lấy đà, ta và địch cách nhau không đầy một tầm lựu đạn… C2 vẫn im lìm dưới mưa đạn và lửa…

800 trái hơn rồi… Đ.m… chưa đầy một tiếng nó đã nổ hơn tám bớp. – Hải ngồi bẹp xuống đất lẩm bẩm chính mình…

Trong máy nội bộ (máy giữa Tiểu Đoàn và các Đại Đội) tiếng chuyền lịnh của Thinh chững chạc và tự tin :“ Đợi tụi nó tới gần ta bắn, chỉ là con nít không biết đánh giặc… Tụi bây là lính Nhảy Dù mà thua là yếu đó… ”. Hải cố mỉm cười, nhưng nụ cười không thành hình. Pháo vẫn nổ liên hồi như kêu gọi… Tụi nó đòi dứt đứa con mình ! Quái lạ sao chẳng thấy Anh Năm gọi qua, có chuyện gì ?

Mễ không buồn nghĩ đến số vũ khí của 2 Đại Đội 3 và 1 tịch thu được. Anh Năm chết, nó là ông Phó tự động lên thay thế… Trách nhiệm quá nặng trong hoàn cảnh kẹt cứng. Và anh Năm, ông đàn anh thân mến từ bao nhiêu năm, gian nguy và khổ cực, bao ngày dài, cùng chia sớt đến đây là hết, mười hai năm chiến trận của một đời người phấn đấu. Anh Năm được gói bằng ba Poncho cột ba vòng băng cứu thương. Vĩnh biệt anh. Hầm bị ba trái cực mạnh, chịu sao thấu, cuộc đời sao dành cho anh toàn hoạn nạn… Hoạn nạn của ba mươi năm ở đời chưa đủ sao, bây giờ để lại cho anh món quà chót, món quà cuối cùng và độc ác. Vĩnh biệt anh Năm. Mễ, Hải, Liệu đưa mắt nhìn nhau… Trời chiều, cao nguyên sẩm bóng nắng, đêm lại sắp đến, chiếc bẫy sập từ từ, lũ người tuyệt vọng nhìn thấy những gân máu đỏ chạy phẫn nộ, hấp hối trong mắt nhau.

Đốt Charlie

Bây giờ là buổi chiều, buổi chiều nắng vàng và gió lộng, không còn tiếng nổ trong không gian. Ba mỏm núi bốc những sợi khói nhỏ, nóng không phải vì hơi nóng mặt trời nhưng âm ỉ của hơi thuốc súng chưa kịp tan.

– Thiếu Tá…

Hải gọi Mễ. Ít khi đứng riêng chúng nó gọi nhau bằng cấp bực, nhưng bây giờ tình hình đã khác. Trách nhiệm và bổn phận mới cùng những xao động trong lòng… Hải nhắc nhở Mễ :

– Thiếu Tá tổng kết mình bị 20 chết và 40 bị thương cần di tản…

Mễ gật đầu, đưa mắt hỏi Liệu :

– Đúng vậy !

Anh Toubib hết đồ nghề đứng im lặng nhìn xuống xác “Anh Năm”.

Người lính mang máy truyền tin tới:

– Dạ, ông Hùng muốn nói chuyện với Thiếu Tá…

Có tiếng Hùng ở C1 vọng trong máy :

– Trình Mê Linh, ở tôi thì không có gì nhưng từ sáng tới giờ sao chẳng nghe 008 (Tiểu Đoàn Trưởng) nói gì với tôi hết…

Giọng Hùng có vẻ trách móc xa vắng, nó linh cảm được tai ương xảy ra… Mễ đưa mắt nhìn xác “anh Năm” đôi mắt đỏ mệt mỏi chớp chớp hình như có giọt nước mắt ở lưng tròng.

– 008 đã bắt tay với ông Phan (Tiểu Đoàn Trưởng TĐ1/ND đã chết ở Hạ Lào)… Biết thế thôi, đừng nói với một ai nữa…

– Dạ, tôi rõ… – Hùng không còn sức mạnh để hỏi thêm.

Súng lại nổ dưới Charlie… “Cất” anh Năm lại, đừng cho ai biết, tất cả giao thông hào… Trong sáng chiều những người lính ở C2 và C1 chăm chú theo dõi trận đánh ở C…

Advertisements

REPORT THIS AD

Cối và 75 sơn pháo từ những cao độ phía Tây bắn từng nhịp bốn trái một và bộ binh Điện Biên từ Tây, Tây Nam xếp hàng diễn hành đi vào…

Đúng là tụi nó điên rồi, chẳng điều động, ẩn núp gì cả. “Điện Biên cái gì thế này !!!” Lính ở C1 và C2 đồng đứng dậy khỏi giao thông hào chơi trò chơi mới…

– Mày bắn vào cái hầm có 4 thằng núp kia, nếu trật thì để tao…

Hai người lính của Đại Đội 112 thách nhau dùng phóng lựu và M72 từ đồi cao bắn xuống… Trái đạn bay đi khoảng ngắn, đất bụi bay lên. 4 Bắc quân nằm bẹp dí trên sườn đồi. Chết, sinh Bắc tử Nam, cậu lính nhỏ bỏ gia đình và quê hương mang trong lòng ảo tưởng “giải phóng” trong chốc lát chỉ là tấm bia thịt cho viên đạn vô tình.

Cuộc tấn công kéo dài trong 5 đợt. Lính của Thinh đánh tỉnh táo và chắc chắn, nhưng bỗng nhiên Mễ có ý định rút nó về, nó hết đạn rồi, nhỡ tối nay thì sao…. Hải gọi máy bảo Thinh :

– 401 (Thinh) đây 06 (Hải), anh xếp valy lại, nhớ mang mấy thằng rách áo… về ở với bố mẹ…

– Dạ, dạ, tôi nghe rõ, tôi cũng có ý định đó vì kẹo hết, nhưng sợ 07 và 08 hiểu lầm..

Đến giờ này Thinh vẫn không biết người anh cả của Tiểu Đoàn đã đi khuất… Trong tiếng nói còn sáng rực niềm tin : “ về với bố mẹ ”. Thinh đâu tiên đoán được đến lượt mình vào ngày mai !!

Đại Đội 111 rút về được C2. Năm giờ chiều trời chỉ còn chút nắng đỏ, gió lạnh… Đỉnh Charlie trống trải cháy ngọn lửa điêu tàn… Và trong hoang vu hấp hối của cỏ cây đó, hằng trăm người lính Bắc Việt, “những chiến sĩ Điện Biên của Sư Đoàn Thép”, những bộ binh Bắc quân vang danh theo bốn chiều lục địa. Người lính cộng sản thượng hảo hạng của nước VNDCCH đã từng đánh bại thực dân Pháp cùng ào lên Charlie một lượt, những cặp chân đã vượt đèo Mụ Già đã qua Tchẻpone, Lao Bảo, những bàn chân gang thép mang linh hồn vũ bão vào Nam giải phóng, đánh đuổi “đế quốc Mỹ” chạy nhanh hơn, mau hơn chút nữa, hàng trăm con người cùng lăn lộn, dành giựt trên mảnh đất cằn cỗi của Charlie để đào xới, bới móc… Kiếm thức ăn! Họ tìm gạo sấy, thịt hộp và Cration. Cuối đường của chiến tranh giải phóng, các chiến sĩ Điện Biên anh dũng cùng nhào lên trên những hộp thịt được làm tại Mỹ Quốc !!

– Bom! Bom ! Đốt cháy tụi nó hết. – Mễ nói như thét.

– Có ngay!

Hải “khều” ngay ba phi tuần Napalm… Toán lính Bắc định tháo chạy, nhưng không kịp nữa. Theo một hướng Tây Đông chính xác, ba chiếc Skyraider cùng chúi xuống một lúc… Lửa lồng lộng, lửa vàng đỏ trộn với khói đen cuộn lên lớp lớp… Trong cây cỏ cháy khét có mùi thịt. Thịt của người và thịt thức ăn. Lính Điện Biên chết trên mục tiêu và chiến lợi phẩm của họ.

– Mầy “sinh Bắc tử Nam” thì tao cũng “Airborn, Ground died”. Không hiểu là câu nói đùa hay tiếng thét uất hận của lời thề… Mễ đứng như tượng đá bất động, cho đến khi cuộc “nướng cháy” chấm dứt.

“Xác anh Năm cất dưới hầm chưa Hải?”.

“Rồi!”

Ngày 13-4, Mễ cho 112 xuống chiếm lại C. Lính của Hùng “móm” vừa từ trên “hột lạc” đổ xuống bị bật lại ngay bởi một hàng rào mảnh của cối 60, 80, 75 bắn thẳng từ ngọn đồi phía Tây… Bộ Chỉ huy Tiểu Đoàn không một phút do dự : Cho thằng 2 về, tụi nó hận mình về vụ hôm qua, không thể đi được.

Lên phía Bắc không được, Mễ cho thằng 1 ra hướng Đông… Phải có một bãi đáp bằng bất cứ giá nào. Thương binh, người chết, xác anh Năm cần phải di tản… Sự hiện diện của những đau đớn này làm linh hồn nặng xuống, nó nâng cao hào hùng nhưng gây nhiều phản ứng lo sợ. Phải di tản gấp số thương binh !

Mễ nói với Thinh:

– Ông gắng ra chỗ này (một trảng trống cách C2 khoảng 300 về hướng Đông) kiếm được Lz nầy di tản hết thương binh và người chết, tụi còn lại mới yên lòng được. Đừng để cho lính có cảm giác bị bỏ rơi, vây khổn, tinh thần tụi nó giản dị nên dễ bị xúc động… Hơn nữa mình hết đạn và nước. Nhé, Ông gắng ra cho được nghe.

– Dạ, Thiếu Tá để tôi.

Thinh can trường như Triệu Tử Long, dẫn Đại Đội chỉ trên 40 người rời khỏi căn cứ. Cái trảng trống kia rồi, 50, 40, 30… Gắng chút nữa, mình chiếm nó để có nước uống! Nhưng không thể được. Bắc quân đã bắt đầu khai hỏa, bốn phía cùng nổ từ các điểm xung quanh. Nguy hiểm hơn, địch cắt đứt đường về. Quân ở C2 ra đón bị chặn lại, không thể dùng một thứ vũ khí gì ngoài lựu đạn. Tiến không được thối bị kẹt, trên đầu những cao điểm ở phía Nam đạn sơn pháo nổ đầy trời… Thinh chết chỉ còn đường này thôi cho người chiến sĩ trẻ. Thinh chết giữa trời trên đồi cháy, viên đạn cuối cùng vừa bắn ra.. bóng Bắc quân vây kín, trái lựu đạn cuối cùng vừa ném, người sĩ quan tuổi vừa hai mươi ngã xuống bởi chục nòng súng cùng nhả đạn.

Chuẩn úy Ba nhào đến ôm xác Thinh, hứng nốt những viên đạn còn lại.

Mễ nổi điên trong giao thông hào, nó gọi máy liên lạc với 111:

– Ở đấy còn có ai ?

– Có tôi. Khánh (sĩ quan Tiền sát viên pháo binh).

– Anh coi Đại Đội cố dẫn về lại tôi, có thằng 4 đón anh.

– Nghe, Đại Bàng.

Người sĩ quan Pháo binh góp quân làm một mũi dùi.

– Đánh! Để tao đi đầu, lựu đạn mở kíp hết…

Trung sĩ Lung, người Hạ sĩ quan thâm niên nhất, xung trận như mũi tên lửa, Bắc quân dạt ra, đường về có được rồi, lính bắn che nhau, Lung về chót. Còn hai “ông thày” Lung chạy ngược lại nơi xác Thinh và Ba. Một loại đạn mới của tên Bắc quân vô tình, chầm chậm, Lung ngã xuống. Ba xác chết chồng lên nhau bất động.

Hai giờ chiều, Bắc quân mở cuộc tấn công mới, cuộc tấn công công khai, nhắm thẳng vào C2, căn cứ chính.

Tụi nó “dứt” mình, được, tụi mày Điện Biên thì tao Nhảy Dù xem ai hơn ai.. Tất cả ai ngồi được, kể cả thương binh ra giao thông hào, thằng nào kêu la, khóc lóc tao bắn chết. Chính tao bắn… Tụi mầy để thua tao cho bọn binh vào đây. Chết chết tất cả…”

Mễ nói xong thì ngất. Liệu nói nhỏ :

– Tim ông nó mệt rồi, ông đừng “gonfler” quá, chết luôn, hết người chỉ huy…

Lính Điện Biên thổi kèn xung phong dưới yểm trợ của cối và sơn pháo. Quân ta sau mỗi loạt súng cối, đứng khỏi giao thông hào… Vào nữa đi con, vào nữa. Lính Sư Đoàn Thép khờ khạo cứ xếp hàng đi đến, toàn là trẻ con, đây là trận đầu cũng là trận cuối của chúng. Kinh nghiệm, vinh quang của lớp cha anh họ ngày nào chỉ là ảo giác. Trước mặt lính Dù Việt Nam chỉ có một lớp con trẻ được chơi trò đánh nhau, chơi trong ép buộc tuyệt vọng… Có đứa nào “già” không mày ? Tao thấy toàn con nít, đánh tay không tao cũng bóp cổ tụi nó được… Một lớp, hai lớp, những “đứa trẻ” cứ tuần tự đi tới…

– Không nương tay với tụi nó nữa, napalm…Hải.

– Có ngay!

Hai chiếc Skyraider xuống thấp chưa bao giờ thấp hơn được, thấy được chiếc mũ trắng của anh Pilot, hình như anh ta muốn nhìn quân bạn, anh ta muốn “chào” thăm hỏi, như sau mỗi lần thả “líp” nhẩy dù chót, phi cơ hạ thấp cách mặt đất khoảng trên 30 thước để “chào bãi”. Ở đây cũng thế, hai chiếc máy bay sát xuống, coi như đụng ngọn cây… Thả bom với độ thấp như thế này chắc như cua gạch… Bom nổ không chệch một phân, cháy xém vào đến tuyến phòng thủ quân ta, nhưng như thế này mới đúng cỡ, lũ “trẻ con” lăn lộn bốc lửa la hét chạy dạt ra xa… Nhưng, ô kìa, 2 chiếc Skyraider không lên được nữa, sự can đảm và tình đồng đội đã giết các anh. Các anh đã xuống quá thấp để ném chính xác, để giải tỏa, để “bung” địch ra cho chúng tôi… Các anh quên thân rồi, hai cánh đại bàng chúi xuống, xuống nữa và bốc cháy… Vĩnh biệt các anh ! Đám cháy kết thúc trận đánh, thây người cháy đen nằm chật sườn đồi!

Chúng nó đánh để làm gì nhỉ. Một ngày của hai mươi bốn giờ trên thép đỏ và máu nóng đi qua… Trời tối dần, đêm xuống, người lính dựa lưng vào giao thông hào liếm cặp môi khô… Từ sáng đến giờ chưa uống nước !

Ngày 14-4. Tính đến hai giờ chiều, C2 “nhận” hơn hai ngàn 130 “delay” và nổ chụp. Toàn bộ Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù “co” mình trong giao thông hào dưới cơn mưa pháo.

– Nó nổ xa mình. – Hải thều thào nói.

– Ừ, phía Tây, ra ngoài tuyến mình.

Liệu tiếp lời, gật đầu đồng ý với Hải… Nhưng thật ra tất cả đều nói dối, pháo không rơi một điểm, một tuyến, pháo “chụp” toàn thể C2, pháo tan nát và mênh mông…

Nên chỉ là câu nói để tự đánh lừa, để trấn tĩnh đồng đội.

– Hôm nay là 14 ? Liệu nói bâng quơ, gợi chuyện trong tiếng nổ ầm ĩ sắc buốt. Mễ và Hải không trả lời đưa mắt lên dò hỏi. Còn câu nói nào “nổi” được trên cơn mưa lũ của sắt thép vang động.

– Hôm nay mười bốn, mai mười lăm, ngày đầy tháng con tôi!

Bốn con mắt lại mở ra, Mễ và Hải không hiểu lời Liệu, không thể hiểu nổi… Vì Liệu đang nghĩ : Không lẽ ngày đầy tháng con, bố lại chết ! “Chết” chỉ chữ nhỏ vô nghĩa nầy làm tê liệt toàn thể phản ứng. Chết đến từ tiếng “bục” ở nơi xa, nơi rặng Big Manma rồi“oàng” giữa hai khoảng cách đó chữ “Chết” như một giải quang báo sáng rực, xong bùng nổ lên cùng toàn thể sức cộng phá… Tiếp tục, tiếp tục, bốn cây 130 ở nơi xa nã đạn xuống C2 nhịp nhàng.

– Trình đại bàng hơn bốn ông họ Trần rồi! – Mễ báo với Lữ Đoàn… Nó cố cười với Hải, nhưng cặp môi chỉ kéo lên được chút nhỏ…

17 giờ trận mưa chấm dứt, để cối và 75 điểm giọt.

– Xong rồi, tụi nó “chơi” lại. – Mễ đứng khỏi giao thông hào.

Đêm này là quyết định: Mình, nó last fighting từ giờ phút này. Mễ báo với Lữ Đoàn :

– Bây giờ tụi nó hết“ Incomming” (pháo) và bắt đầu Ground-attack. – Không phải nó sính tiếng “Tây”, nhưng vì những danh từ trên phải ngụy hóa, thời giờ đâu bây giờ để tìm từng chữ trên bảng ngụy danh…

– Nó đánh anh chưa?

– Bắt đầu ở hướng cũ, Tây và Tây Nam. Heavy attack!

Tất cả đứng khỏi hầm, đạn súng colt lên nòng. Anh Bác sĩ Liệu lúi húi tìm thấy trái lựu đạn… Tiên sư, tôi hết “đồ nghề” rồi, chơi đồ chơi mới vậy. Mễ cong người nín thở, ngày hôm qua nó bị một quả Bétard nổ quá gần. Sức ép kẹt cứng xương sườn lại lấm chấm vết máu bầm. Gắng quên, đánh cái đã.

Trời tối dần. Hơi núi đùn lên cao, đậm đặc thêm vì khói súng. Bắc quân chiếm được một phần giao thông hào tuyến phòng thủ của Đại Đội 114.

– Trình Mê Linh, nó thấy của tôi một “ khúc ruột ”. – Cho, (Đại Đội trưởng 114) báo cáo cho Mễ…

– Gắng lấy lại, nó ăn ruột anh thì bao tử cũng bị nhai luôn, sống sao được. – Đến giờ phút này còn phịa được câu nói đùa.

– Hải báo với Lữ Đoàn nó vào tuyến mình rồi…

– Tao nói không nổi, Liệu nói máy hộ…

Bác sĩ Liệu, to con tốt tướng như cao bồi già đang lẩy súng nghe lạch cạch. Được để tôi …

– Tụi nó cắm được 1/4 vỏ lạc của tôi rồi. – Liệu nói với giọng đùa cợt.

– Ông phải la ơi ới mới được, đâu thế ở ngoài tưởng mình nói dỡn…

– Dỡn làm sao ? không đùa mình lại mếu à…Ê, chạy đâu.

Liệu quay nòng súng colt về một anh lính đang dáo dác định chạy vào giao thông hào trung tâm…

– Ông Bác sĩ không bắn, thì tao bắn mầy…cho mầy biết chết như thế nào !

Chết như thế nào. Mễ cũng buồn cười vì lời nói của mình. Chết thì biết chó thế nào nữa ? Ầm! một trái bộc phá nổ thật sát bắn Mễ ngã xuống. Nó lồm cồm bò dậy, sờ lưng:

– Bác sĩ, chắc tao bị thương nặng!! – Mễ thều thào.

Liệu xoa tay vào lưng Mễ, thân áo rách lỗ chỗ. Đếch có gì cả, mảnh nhỏ như bụi, vì ông yếu sức nên ngất như thế thôi, đây là hậu quả cú đấm của thằng Hennessy trước kia.

– C…. giờ nầy ông còn nói đùa được…

– Stupid, why you fire 45 ? – Anh Cố vấn Trưởng Duffy hét vào tai Liệu.

– I haye only this!! Đ..m.. giờ này còn why với what, what cái cần câu…

– Một đợt, hai đợt… năm đợt, Bắc quân tràn vào bị đẩy ra chiếm được một khúc giao thông hào rồi từ từ lấn từng đoạn.

– Không xong, nó nhiều tiền quá ! ! – Hải lầm bầm, Mễ đưa mắt nhìn Liệu, Hải và Anh Cố vấn Trưởng…

– Tôi muốn ở lại ! – Mễ chắc giọng…

– Nó vào chỗ của thằng 4 rồi đang lần qua thằng 2, mình hết đạn… Dọt, tôi đề nghị… – Hải nói.

– Phải, mình “ra” đi, ở đây không nổi, tụi nó đông gấp mấy mình… – Liệu tiếp theo.

Đại Đội 2 báo cáo đang mất thêm một “ khúc ruột ”… Mễ im lặng dỡ nón sắt ra khỏi đầu.

– No hesitation, the best way..Sir? – Viên Cố vấn Trưởng, Thiếu Tá Lực lượng đặc biệt, người quấn băng lỗ chỗ, anh ta bị thương ba nơi nhưng quyết ở lại với Tiểu Đoàn. Viên Cố vấn hiểu được phút giây nghiêm trọng của Mễ, với sự kính phục, anh ta góp ý kiến, lần đầu tiên trong đời anh gọi người cùng cấp bực bằng “Sir ”. Một viên Thiếu Tá Việt Nam…

– Đồng ý ! Thằng 2 dẫn đầu, xong đến Đại Đội chỉ huy và thằng 4 bao chót, Hải gọi qua thằng 3 bảo nó nhổ neo ra điểm hẹn này. – Mễ chỉ một vùng tập trung ở phía Đông Bắc. – Đi ngay, mang theo thương binh…

Lần đầu tiên Mễ “chạy”, Mậu Thân nó cũng bị nguy khốn, Đại Đội chỉ còn 37 người nhưng cũng đánh nổi cửa Thượng Tứ Huế… Nhưng lần này, viễn ảnh toàn bộ Tiểu Đoàn bị tràn ngập, không còn cách nào hơn nữa.

– Hướng Đông Bắc, khoảng 800, thằng 3 sẽ ra đó với mình, dọt lẹ… – Hải truyền lịnh cho Hùng “móm”. Thành phần cán búa của đơn vị.

– Dạ, em nghe, đ.m… em làm được. Hùng “móm” chửi thề nghe ngon lành. Giọng nói vẫn tếu wà ranh mảnh như bình thường.

Về phía mặt trời

Đi xuống hoài, vực sâu hun hút, trời tối thẫm và cây rừng đan lưới. Chỉ có tiếng lá khẽ động dưới bước chân cùng những tiếng kêu âm ỉ được kềm trong cổ họng. Đoàn quân lẫn vào bóng đêm như muốn tan thành vật vô hình. Sau lưng họ trên đồi cao, C2 bốc lửa ngọn, bom đã thả xuống khi người lính của Đại Đội 1 ra khỏi vòng vây… Thương binh nặng và xác “anh Năm” tất cả hình ảnh chồng lên từng khối lớn trên trí óc Mễ. Một cảm giác rõ rệt nhất, ba ngày và đêm không ăn, ngủ, chỉ nhắp chút nước lã cầm hơi và cuối cùng rút quân trong đêm. Đi nữa đi Hùng, đúng hướng rồi, cứ tiếp tục, phía mặt trời đó, bao giờ đến chỗ trống – trống thì bảo tôi…

Mặt trời chưa thấy, đêm còn dầy, dầy từng khối lớn mông mênh và đặc cứng, hình như đã đến đáy một “Tan-vóc” (khe nhỏ chạy giữa hai chân núi) chân bước đến lớp đất ấm. Nước ! Người lính đặt tay xuống “mặt nước”, không có, chỉ một lớp lá ẩm mục và đất bùn, khe suối mùa, chưa có nước …

Nhưng bàn tay có chút ẩm, người lính lè lưỡi liếm miếng nước vô hình đó…

Qua khỏi “Tan-vóc” lên đỉnh đồi thấy lại sau lưng ngọn lửa ở C2 bập bùng, bạn bè ta còn đó sống làm sao được hở trời?