CON THUYỀN KHÔNG NỤ CƯỜI (Nguyễn Phúc An Sơn/SaiGonTrongToi)

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

Câu Chuyện Về Người Đã Chụp Tấm Hình Tướng Nguyễn Ngọc Loan Xử Tử Tên Khủng Bố Cộng Phỉ Ác Ôn – Mậu Thân 1968 

May be an image of 2 people, people standing and text that says 'gettyimages® Fred W. McDarrah O FLOOR 95799388 Canon'

May be a closeup of 2 people, child and text that says 'Sài Gòn trong tôi "Boat of no smiles" Eddie Adams 23.11.1977 Thailand'

May be a black-and-white image of 2 people, child, people sitting and text that says 'Sài Gòn trong tôi "Boat of no smiles" Eddie Adams 23.11.1977 Thailand'

Vào cuối những năm 70 và những năm 80, “người Việt Nam” hầu như luôn được “theo sau” bởi thuật ngữ “thuyền nhân”. Từ năm 1975 đến năm 1992, đã có khoảng hai triệu người Việt Nam (gần bốn phần trăm dân số cả nước) đã di tản khỏi Việt Nam bằng thuyền để thoát khỏi sự cai trị độc tài, áp bức và tàn ác của bọn cộng sản bắc việt.
Đó là một cuộc hành trình vô cùng gian nan và đầy nguy hiểm – có tới 250.000 người đã chết trên biển cả vì bão tố, bệnh tật, thiếu lương thực và cướp biển Thái Lan. (Sài Gòn trong tôi/ BV/ Nguyễn Phúc An Sơn)
Nhiếp ảnh gia Eddie Adams, hiện được biết đến nhiều hơn với một bức ảnh mang tính biểu tượng khác, nhớ lại mình đã ở tiền tuyến của cuộc di cư này, và lên một chiếc thuyền tị nạn của người Việt đã bị Thái Lan xua đuổi:
Không một ai, không một quốc gia nào muốn để cho những người tị nạn Việt Nam lên bờ. Bạn thậm chí không thể có thông tin để tìm hiểu về những thảm cảnh vượt biển của người tị nạn Việt Nam. Lúc đầu, tôi nản chí và quay lại Hoa Kỳ và nói với người quen rằng không thể viết bài tường thuật vì không có đủ thông tin.
Sau đó, tôi chợt nảy ra một ý tưởng và liên lạc với Cảnh Sát Biển Thái Lan (tôi biết rất rõ về Thái Lan), những người đã dã tâm đẩy những chiếc thuyền tị nạn mỏng manh của người Việt tị nạn trở lại biển khơi nguy hiểm dẫn đến những cái chết chắc chắn. Tôi nói với họ muốn cùng họ đi tuần tra với họ ở Vịnh Thái Lan. (Sài Gòn trong tôi/ BV/ Nguyễn Phúc An Sơn)
Họ OK, vì vậy chúng tôi đi đến điểm có khả năng xảy ra nhất ở miền bắc Thái Lan. Đến khoảng 4 giờ sáng thì có một chiếc thuyền tị nạn Việt Nam vừa tấp vào. Chính quyền Thái Lan đã sẵn sàng để xua đuổi nó một lần nữa. Đó là Ngày Lễ Tạ Ơn năm 1977.
Tôi đột nhiên hỏi những người tị nạn Việt Nam rằng liệu tôi có thể đi cùng họ không – Tôi đã mua xăng và gạo – họ không có nhiên liệu hay thức ăn. Có bốn mươi chín người trên chiếc thuyền đánh cá đó, bao gồm cả trẻ em— trong khoang cùng ngày một em bé được sinh ra.
Cảnh Sát Biển Thái Lan đã kéo chúng tôi trở ra biển và đưa chúng tôi đi xa. Trên thuyền đó, không có chỗ để nằm nên tất cả phải ngồi thẳng lưng, dù thức hay ngủ. Tôi không thể diễn tả được nỗi tuyệt vọng bi thương của những người Việt tị nạn. Có những bức ảnh đầy kịch tính về những người mẹ với những đứa con đang chết dở trong tay nhưng có điều gì đó còn tồi tệ hơn như thế.
Bất cứ khi nào bạn đến các trại tị nạn trong một vùng chiến sự, nơi những điều khủng khiếp đã xảy ra, nơi những xác người có thể chất thành đống và bệnh tật ở khắp mọi nơi, bạn vẫn thấy những đứa trẻ tụ tập trước ống kính với nụ cười.
Đây là lần đầu tiên trong đời tôi không có đứa trẻ nào cười. Tôi gọi những bức ảnh là “con thuyền không có nụ cười”. Con thuyền hầu như không di chuyển – họ thậm chí không biết phải đi đâu giữa biển khơi chập chùng. (Sài Gòn trong tôi/ BV/ Nguyễn Phúc An Sơn)
Sau đó, chúng tôi bị một chiếc thuyền khác của Thái Lan tiếp cận với một cái loa ra lệnh cho tôi rời khỏi thuyền tị nạn trước họng súng của họ – họ sợ ai đó sẽ cho họ cập bến khi biết có một người Mỹ trên tàu.
Tôi đã có cảm xúc lẫn lộn về việc đi xuống. Tôi đã viết câu chuyện này và gửi ảnh ngay lập tức, và họ chạy. Peter Arnett cũng đã làm một câu chuyện và một vài câu chuyện khác sau đó (về thuyền nhân Việt Nam).
Trong vòng vài ngày sau, chính quyền đã yêu cầu hãng thông tấn AP gửi các bức ảnh đó đến Quốc Hội Hoa Kỳ. Và Carter nói hãy để họ đến Hoa Kỳ. Quốc Hội cũng đã có nghĩ về điều đó, chắc chắn rồi, nhưng những bức tranh đã làm được điều đó, đã đẩy tiến trình đi nhanh hơn. (Sài Gòn trong tôi/ BV/ Nguyễn Phúc An Sơn)
Những bức ảnh bi thương về người tị nạn Việt Nam đã thuyết phục chính phủ Hoa Kỳ cho phép 250.000 người tị nạn Việt Nam được vào Hoa Kỳ định cư. Những vụ chết đuối thương tâm đã đánh động dư luận và một kế hoạch phối hợp đã đưa đến việc tái định cư cho hơn 1,3 triệu người tị nạn trên khắp các nước phát triển (Trung Quốc cũng tiếp nhận 300.000 người Việt Nam mang dòng máu Trung Quốc).
Năm 1978, Adams và Arnett du lịch đến hòn đảo Bidong của Malaysia, “từng là thiên đường với làn nước xanh ngắt, những bãi cát trắng viền quanh những rặng dừa, trên đỉnh là một sườn đồi xanh tươi”, nhưng sau đó là một trong những nơi trú ẩn đông đúc nhất trên thế giới – nơi có hơn 40.000 người tị nạn tụ tập trong một khoảng không gian rộng bằng vài sân bóng đá.
Tại đây, những câu chuyện gợi lên sự lựa chọn của Sophie đã được diễn ra, khi các quốc gia phát triển được lựa chọn những người có thể di cư đến đâu, với các tiêu chí khác nhau. Ví dụ, Hoa Kỳ ưu tiên cho những người đã từng phục vụ trong Quân Đội Miền Nam Việt Nam (VNCH) và gia đình của họ. (Sài Gòn trong tôi/ BV/ Nguyễn Phúc An Sơn)
Một người quen của tôi đã phải lựa chọn giữa việc di cư và người anh rể 10 tuổi của anh ta (vì người sau này, không phải là người ruột thịt của anh ta nên không được Mỹ chấp nhận). Khi lựa chọn càng khó khăn hơn, đứa con trai sơ sinh của anh ta đang chết vì bệnh kiết lỵ: đó là một quyết định giữa việc bỏ lại một cậu bé 10 tuổi hay kết án đứa con mới sinh của họ.
Có lẽ thật khó để so sánh giữa thuyền nhân Việt Nam giai đoạn sau 1975 đến giữa thập niên 1990s với những người tị nạn hiện nay từ nhiều quốc gia khác, ngoại trừ lưu ý rằng trải nghiệm di cư không bao giờ là dễ dàng. (Sài Gòn trong tôi/ BV/ Nguyễn Phúc An Sơn)
Tuy nhiên, có những âm hưởng của những người tị nạn Việt Nam năm nào trong những cuộc di cư hiện đại, ở cả Hoa Kỳ và Úc (nơi người Việt Nam là những người đầu tiên không đến từ Châu Âu nhập cư với quy mô đáng kể).
Sự xuất hiện của những người nước ngoài thờ các vị thần linh và Thượng Đế khác nhau, từ một quốc gia tán thành một hệ tư tưởng phản thần. đối với các giá trị phương Tây, và một đất nước mà cho đến gần đây vẫn còn có chiến tranh với họ, ban đầu ít nhiều cũng đã gây ra khá nhiều bất ổn xã hội lớn.
Hơn bốn thập kỷ đã trôi qua, những nỗi sợ hãi này chỉ còn là một ký ức xa vời. Tuy nhiên, khi quên chúng, chúng ta tự kết tội mình đã lập đi lập lại những sai lầm cũ.
Phóng viên nhiếp ảnh Eddie Adams với lương tâm và trách nhiệm, ông đã can đảm nhận lỗi và chuộc lỗi. Đã nhiều lần ông nói lên lòng mong mỏi là được mọi người biết đến tên tuổi của ông qua bộ sưu tập ‘Con thuyền không nụ cười’ gồm những bức hình giúp người tị nạn Việt Nam, chứ không phải bằng ‘Hành quyết tại Sài Gòn’, một bức hình đã vô tình làm tổn hại đến thanh danh của một vị Tướng Cảnh Sát anh hùng của Việt Nam Cộng Hòa.
Eddie Adams qua đời năm 2004 tại New York do các biến chứng của bệnh Lou Gehrig. Tháng 9/2009, bà quả phụ Alyssa Adams đã tặng toàn bộ di sản của ông cho Đại Học Texas (UT) tại Austin để thành lập một thư khố dùng làm tài liệu giảng dạy cho ngành nhiếp ảnh. (Sài Gòn trong tôi/ BV/ Nguyễn Phúc An Sơn)