CUNG TRẦM TƯỞNG MỘT HÀNH TRÌNH THƠ 1948-2019 (Nov. 17-2019)

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

Part 1:

Part 2:

Part 3:

 NHẬN XÉT VỀ THƠ CUNG TRẦM TƯỞNG

 (Trần Huy Bích) 

Bài nói chuyện của Giáo sư tiến sĩ Trần Huy Bích nhân buổi tái bản CUNG TRÂM TƯỞNG MỘT HÀNH TRÌNH THƠ 1948-2019 từ Nam California (Nov. 17-2019)

Kính thưa …

Các anh trong Ban Tổ chức trao cho tôi nhiệm vụ đóng góp vài nhận xét nhân buổi sinh hoạt văn học chào mừng cuốn tổng tập ghi lại hành trình 70 năm làm thơ,từ 1948 đến 2018 của nhà thơ Cung Trầm Tưởng.Đây là một vinh dự, nhưng cũng là một việc khó. Nói về một hành trình thơ dài 70 năm, xuyên qua 2 thế kỷ, của một nhà thơ quan trọng, gồm nhiều thi phẩm giá trị, chứa trong trong 7 thi tập với nội dung đặc sắc và phong phú, được in ra trong một tập sách gần 700 trang, và chỉ “trong vòng 15 phút,”thì đúng là một hành động “trói voi bỏ rọ”: có hàng trăm điều để nói, biết lựa để nói những điều gì? Thứ nữa, cho tới nay, bao nhiêu người đã nói, đã viết về nhà thơ CTT. Trong tình thân,có nhà văn Võ Ý. Trong giới phê bình, nhận định văn học, có nhà văn Thụy Khuê, nhà văn Mặc Lâm, nhà thơ Viên Linh, nhà thơ Phan Ni Tấn, nhà thơ Nguyễn Mạnh Trinh… Trong tập sách do Tiếng Quê Hươngxuất bản, được trao tới chúng ta hôm nay, còn thêm bài viết của một số nhà phê bình cùng thân hữu của tác giả như Lê Mạnh Cương, Hoàng Yên Lưu, Trần Văn Nam, Nguyễn Thanh Nhã, Giang Hữu Tuyên… Một số câu tôi rất muốn nói lên hôm nay, chẳng hạn như, “CTT là một trong những tên tuổi lớn trên đàn thi ca VN,” hay “Thơ CTT mới về ý, lạ về từ, khác về hình tượng, về nhịp điệu lẫn thanh âm…” thì nhiều người đã nói lên, đã viết ra rồi.Nếu chỉ “nhai lại” những ý ấy thì thậtcó lỗi trước sự mong đợi của Ban Tổ chức, và làm phí thời giờ của toàn thể quý vị.Tôi đành xin đóng góp một vài nhận xét mộc mạc, mong nhận được niềm thông cảm đại lượng của anh CTT cũng như của cử tọa.

Kính thưa Quý vị,

Trước hết, tôi xin được khai triển một nhận xét của nhà thơ Phan Ni Tấn. Trong bài “Hành trình vào thế giới thơ CTT,” anhPhan Ni Tấnđã viết,“CTT là nhà thơ của trí tuệ.”Tôi đồng ý với nhận xét ấy, và xin giải thích rõ thêm:

Khi làm thơ, vị kỹ sư không quân mang danh Cung Thúc Cần của chúng ta lấy bút hiệu là “Cung Trầm Tưởng.”Ở thế hệ trước, các nho gia, hoặc các nhà trí thức chịu ảnh hưởng của cựu học, coi trọng việc đặt tên tự, tên hiệu.Tên tự phải có ý nghĩa liên quan với tên chính, và phải “nói lên một điều gì” về tâm tư, hoài bão của người chọn tên ấy.

Chẳng hạn với danh nhân Nguyễn Công Trứ. Chữ “Trứ” (do cha mẹ đặt) có nghĩa là “sáng sủa, rực rỡ” (như trong “trứ danh”). Ông lấy tên tự “Tồn Chất,” có nghĩa: bảo tồn, giữ lấy phần thật, phần mộc mạc, sự chất phác …, để cho biết ông coi trọng phần đích thực hơn vẻ rực rỡ bên ngoài.

Gs. Dương Quảng Hàm lấy tên tự “Hải Lượng.” Chữ “hàm” có nghĩa “chứa đựng.” Tên tự do ông chọn có nghĩa “lượng của biển” hay “như biển.” Với tên tự, ông ngụ ý mong sẽ “chứa được một số lượng lớn” (có một kiến thức rộng, hay có tâm thật rộng).
Từ ngày xã hội VN đổi mới theo văn hóa Tây phương, nhiều bút hiệu (pen name/nom de plume) chỉ cần “đặt cho có,” không cần mang ý nghĩa quan trọng nữa. Nhiều nhà thơ, nhà văn chỉ dùng tên thật làm bút hiệu: Vũ Trọng Phụng, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Vũ Khắc Khoan, Doãn Quốc Sỹ … Một số nhà thơ, nhà văn dùng địa danh ở quê, hay gần quê, làm bút hiệu: Tản Đà, Đông Hồ, Hà Thượng Nhân (người làng Hà Thượng, tỉnh Thanh Hóa). Một số người đảo một vài chữ cái trong cách viết tên thật để có bút hiệu: Nguyễn Thứ Lễ -à Thế Lữ, Trần Khánh Giư -àKhái Hưng. Có nhà văn nhân bút hiệu của vợ mà chọn bút hiệu cho mình. Nhà văn Đoàn Thế Nhơn, đã nhân bút hiệu của vợ là“Viễn Phố” mà lấy bút hiệu “Võ Phiến.”Nhưng CTT thì khác:

“Trầm” có nghĩa:1) chìm xuống; 2) sâu kín(mạch trầm//mạch phù); 3) lặng lẽ, kín đáo. Chúng ta có những từ“trầm tĩnh, trầm lặng, trầm ngâm, trầm tư, trầm tư mặc tưởng.”“Mặc” là lặng lẽ. Mặc tưởng = suy tưởng một cách lặng lẽ.

Cung–Trầm–Tưởng = cung đàn, nhịp thơ của sự suy tưởng trong trầm tịch, lặng lẽ. Nhà thơ đã cho biết tác phẩm của ông được hoàn thành trong sự suy tưởng một cách trầm tĩnh(ngụ ý thận trọng, chín chắn,chứ không viếtmột cách cẩu thả, tắc trách).

Một nhà thơ tiền chiến đã viết:

Tôi là con chim đến từ núi lạ

Ngứa cổ hót chơi (Xuân Diệu)

Bạ kẻ nào đâu anh cũng mê

Chân theo xa với, trí theo kề (Xuân Diệu)

CTT không phải loại người sáng tác hoặc yêu ghét một cách dễ dãi, tùy tiện như thế.

Tôi đồng ý với nhận xét của phóng viên Mặc Lâm (đài RFA): Ngay cái tên của ông (Mặc Lâm muốn nói bút hiệu) cũng đã gây ấn tượng với nhiều người vì chất văn học rất đậm trong mỗi chữ: Cung—Trầm—Tưởng.

Sau giai đoạn làm thơ trữ tình ở tuổi 20-22, sang phần “Quá độ” (giai đoạn 1958-1975) ông gợi lên những tình cảm xót xa, khơi dậy ở người đọc một nỗi buồn thấm thía trước những đau thương của đất nướcgiữa một cuộc chiến thảm khốc:

Năm 1962 ông viết:Đêm về thành phố tha ma

Giới nghiêm tiếng súng từ xa vọng về 

 Năm 1968: Mới đêm nao con vòi khóc với mẹ cha

Sớm hôm sau pháo rót chết cả nhà

Núi đứng câm, sông cũng không ngùi nước mắt.

 Cũng năm 1968: Khi thấy mỗi chúng ta đang đánh mướn

Trận chiến phá quê hương, giết tình người.

 Ngày sinh nhật năm 29 tuổi của ông (năm 1961), ông buồn:

Mưa rơi.Đêm lạnh. Sài Gòn.

Mưa hay trời khóc đêm tròn tuổi tôi?(Bài “Đêm sinh nhật,” làm năm 1961).

 

Ít ai viết như thế trong ngày sinh của mình.Nhưng CTT viết.Ông là nhà thơ của “trầm tư mặc tưởng.”

Sau biến cố 1975, đất nước bị thống trị bởi một tập đoàn tham lam, độc đoán, và tàn ác,nhiều giá trị tốt lành của dân tộc bị chà đạp, đày ải, giam hãm, CTT khảng khái chỉ trích chế độ bạo ngược ấy. Những vần thơ bất bình, phẫn nộ của ông,mà ông gọi chung là “Tiếng khóc VN,” là kết quả của tình cảm tự nhiên, nhưng cũng của lý trí, suy tư, rất đáng được chúng ta đọc với lòngtrân trọng.

Nhận xét thứ hai của tôi: CTT giàu tình cảm, nặng tình nghĩa, và có một tâm hồn đôn hậu.

Chúng ta đều biết ở tuổi 22-24 trên đất Pháp (những năm 1954-56), CTT có một người yêu “tóc vàng sợi nhỏ,”một “người em gác trọ”đã nhiều lần “sang anh gót nhỏ thầm thì.”  Chúng ta cùng biết rằng những khi đợi ở công viên, khi nàng không đến (hay chưa kịp đến), ông rất buồn:

Mùa thu âm thầm

Bên vườn Lục Xâm

Ngồi quen ghế đá

Không em buốt giá từ tâm.

 Nhưng năm 1957, khi về VN để nhận nhiệm vụ một sĩ quan kỹ sư của Không quân VN (ông học ở Pháptrong chương trình đào tạo kỹ sư của trường Võ Bị Không Quân Pháp),  ông đã không đem người yêu ấy theo. Khi trở lại Paris sau gần nửa thế kỷ, ông nói với nhà biên khảo Thụy Khuê, “Càng sang Paris, tôi thấy rằng tôi không thể là người Pháp nổi. Tôi là người VN. Tôi phải tìm đủ mọi cách để trở về nguồn.Ông cũng đã viết những câu như:

Non sông bóng mẹ sầu u

Mòn trông ngưỡng cửa, chiều lu mái đầu.

 Không thể đem người yêu trời Âu về VN, hai người bắt buộc phải chia tay, ông bù đắp bằng cách để ra một tháng sống với nàng trên một căn gác sát nóc một cao ốc (sinh viên không có nhiều tiền), hết sức chiều ý nàng (“Bù em một tháng thiên đường”) trong khung cảnh gần sát với trời, “sao châm nghìn nến.”Ông viết hai bài thơ với những tình cảm chan chứa: “Kiếp sau,” và “Kiếp sau nữa.”Tôi xin đọc bài “Kiếp sau,” làm năm 1956:

Bù em một tháng trời gần

Đơm hoa kết mộng cũng ngần ấy thôi

Bù em góp núi chung đồi

Thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơ

Bù em phơi phới buồm thơ

Vẫn e trở gió ngược bờ sông thương

Bù em một tháng thiên đường

 Sống với em thật hạnh phúc, nhưng:

Mà xưa tiếng gọi nghe dường thiên thu

Non sông bóng mẹ sầu u

Mòn trông ngưỡng cửa, chiều lu mái đầu.

 Cho nên phải về với đất nước, về với mẹ, và:

Thôi em xanh mắt bồ câu

Vàng tơ sợi nhỏ xin hầu kiếp sau.

 (Sau này khi phổ nhạc, nhạc sĩ Phạm Duy đã đổi hai tiếng “bù em” sang “đền em”).

Bài “Kiếp sau nữa” làm năm 1957, cũng có ý tương tự. Tôi xin đọc ít câu:

Bù em một tháng tình gần

Trăng thêu gối mộng cũng ngần ấy thôi

Bù em gác vắt lưng trời  (gác sát nóc một cao ốc)

Sao châm nghìn nến sáng rồi bơ vơ …

……….

Mẫu hình yểu điệu xin hầu kiếp sau.

 Trong hoàn cảnh như thế mà nói lên những lời từ biệt đầy chân thành như thế, là cốt cách của những người không coi chữ tình là nhẹ.

Nhà văn Võ Ý cho biết trong một ngày lao động khổ sai, mọi tù nhân phải vượt qua một con suối nước chảy xiết với gánh nặng trên vai. Thấy nhà thơ CTT đang lóng ngóng bên bờ suối, một người bạn tù, Trung Tá Nguyễn Minh Công, bèn cõng bạn qua con suối ấy. Đó là đề tài để CTT làm bài thơ với những câu:

Cám ơn chim công/Cõng ta qua sông/Mấy mùa nước lũ/Lận đận mưa ròng/ …

Mấy năm ở rừng/Gặp toàn thú ác/Lòng ta tan tác/Những dòng lệ rưng/

Sau khi ra tù năm 1988, TrT NM Công mất năm 1989 ở Tân Định. Nhà thơ CTT có mặt trong tang lễ bạn. Bà quả phụ NM Công đã xin bài thơ (chép tay) của CTT để đặt trên bàn thờ chồng.

Trong cảnh bị đầy đọa, những vần thơ thương bạn đồng cảnh ngộ, nhắc tới tình nghĩa bạn bè rất đáng được trân quý. Cũng đặc biệt là những vần thơ ca ngợi cảnh “hồng nhan đa truân” trong cuộc sống phong trần của những nàng Tô thị “có chồng mà tưởng như chồng mất” sau cuộc đổi đời ngày 30-4-1975:

Phố ấy Đồng Đăng trùng điệp núi(Ca dao: Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa/Có nàng Tô thị …)

Đá mòn thành tượng của tình chung

Em đứng ôm con, bồng mưa nắng

Sắt son, dũng cảm đến Kỳ Cùng.

 Trong bài “Đường vào thiên thu” để tặng người bạn đầu gối tay ấp, CTT có những câu:

Chín mùa thua thiệt đời em

Gian truân chuyện kể nghìn đêm chưa vừa

Đội nghìn nắng, gội nghìn mưa

Gương em tiết phụ thời xưa chờ chồng.

 CTT tôn vinh các “tù phụ” VNCH như những vị nữ thần trong huyền sử:

 Em về giữa lúc khuya  sang

Mênh mông đức hạnh, dịu dàng ưu tư

Em đoan trang dáng hiền từ

Tóc rừng thu liễu rũ bờ vai thương

Em gồm chín cõi xanh dương

Lồng đôi mắt thẫm khôn lường vị tha

Em vào lấp lánh sương sa

Và mang ơn phước nguy nga từ trời

Mai sau ngủ gốc cây sồi

Làm thiên thu chiếc miếu ngồi thờ em.

 Chỉ có những người coi trọng tình nghĩa, tâm hồn thật đôn hậu, mới có thể viết về người bạn đời của mình, bạn đời của những người bạn cùng cảnh ngộ với mình, bằng những lời trân trọng như thế.Ông cho chúng ta đọc thêm những câu chan chứa tình cảm:

Nhớ em trông ngóng hằng đêm

Màn lay tưởng tóc, gối mềm tưởng da.

 Khi một người hiền hòa, nhân hậu, và suy tư cẩn trọng như thế phải phẫn nộ, thì sự phẫn nộ ấy hẳn có lý do chính đáng.

 CTT có 4 thi tập về những thảm họa xảy đến cho dân tộc VN sau ngày 30-4-1975: “Lời viết hai tay, Bài ca níu quan tài, Những dấu chân ngang trên một triền phiếm định, Thi bá, con tắc kè và bà góa phụ.” Trong lời của ông,“Cả một miền Nam đã bị triền miên, chìm ngập trong một biển nước mắt.” Tôi xin đọc ít câu đặc sắc,tiêu biểu cho loạt thơ này:

–Trong bài “Bóng mẹ chiều thu” ông làm để “Kính dâng Mẹ” khi cụ bà lặn lội tới thăm ông trong trại giam của CS:

Mẹ gầy guộc đến thăm con hấp tấp

Quảy gánh về chiều sập ở non Tây

Mưa gió quất lưng tre cong phần phật

Bóng mẹ mờ lẩn quất giữa mù mây…

 … Mưa gió quất lưng tre còng vất vả

 Ông xúc động khi được tin thêm một người bạn tù ngã xuống:

Tội chúng kéo dài hận cách ly

Chia sông rẽ núi với phân kỳ

Chồng xa cách vợ, con lìa mẹ

Chẳng một người về trăm chuyến đi

 CTT phẫn nộ:

Hãy mài cho sắc lưỡi dao tông (dao to, lưỡi dài, mũi cong)

Hãy nung cho tới quắm tôi hồng (dao to, sống dày, chuôi bằng sắt rỗng liền với lưỡi, dùng để chặt, chẻ)

Thù nay góp gió, mai làm bão

Về xáp tăng thù hất chổng mông(hất đổ xe tăng).

 Hãy chặt, chặt sâu, tông phắt phắt

Hãy phang, phang gắt, quắm ào ào

Mai về đạn nhảy ngay nòng súng

Trực chỉ đầu thù nổ thật mau.

 Đúng là những dòng phẫn nộ. Như đã trình bày trên, khi một người ở trình độ trí tuệ như thế, có những tình cảm như thế mà phải lên tiếng phẫn nộ, thì sự phẫn nộ ấy hẳn có lý do.

 Trong bài “Biểu tượng,” ông nói lên tư cách của ông: “đứng thẳng và vững như cây vầu” (một loại tre cao lớn):

Lòng ta đứng vững như vầu

Thân ta lóng thẳng giữa bầu trời xanh

… Mỗi ngày vầu mỗi cứng ra

Đổi thay lá mới, đậm đà lóng tươi

Vầu đanh như thép sáng ngời

Nắng mưa thì cũng trọn đời đứng ngay         (Trại tù Cẩm Nhân, 1978)

Nhưng, nhà thơ CTT không dừng lại ở việc phẫn nộ và lên án. Sang tới Tập 6, “Mỗi dặm đường một nghìn vần cho thơ” và Tập 7, “Sáng ký về người tình đầu,” giọng thơ có lúc như reo vui: vạn vật được hồi sinh một cách mạnh mẽ sau trận đại hồng thủy:

Cỏ sống sót sau khốc tàn trận lụt

Đá trơn tru tí tách giọt sương ngời

Nắng hào cuồng thẳng góc ném ban mai

Đâm ngập lút đáy hồ chàm thẳmhút(= nắng ném mạnh ban mai xuống tận đáy hồ sâu thẳm)

 … Thế giới mới dựng lên từ róng thẳng

Lục thiết sồi, lim, sến, táu, đinh, sao.

Nhà hát thiên không gió trỗi khai mào

Giao hưởng lá nguy nga chào thế kỷ(= chào kỷ nguyên mới).

Sau đó cảnh vật lại vuitươi,đẹp đẽ, đầy sinh khí trở lại:

Vượn ríu rít gọi nhau chờ nắng tới

Trời ngoài từng bước ló dạng hừng đông

Khí ngào ngạt hương thơm, đời xởi lởi

Nức nô theo phơi phới ánh trời hồng.

 Theo CTT, trong thế giới được tạo dựng lại ấy, các thi sĩ có vai trò quan trọng: đó là những người con của Trời, được Trời choxuống thế, với nhiệm vụ. Thi sĩ CTT viết ở trang 605, và nhắc lại ở trang 644:

Sau trỗi trở thành thầm thì kinh kệ

Của con Trời giáng thế làm thi nhân.

 (CTT có niềm tin vào một Đấng Tối Cao).

 Theo CTT, các thi nhân “nghe” được tiếng của Trời:

Sự giáng thế một diệu kỳ sinh học

Một gien loài mẫn cảm nhất trần gian

Giống thi nhân nghe được tiếng nồng nànTrời nói với qua vi ba thủ thỉ.

 Theo CTT, chúng ta nên nghe lời của các thi nhân, vì đó là những âm thanh các vị nghe được từ Trời.

 Trong những điều thi nhân “nghe” được và truyền lại cho loài người, có ý niệm về độ lượng vô biên của Trời Đất:

Trời Đất chỉ biết cho

Nên Đất Trời bất tử (trang 582)

 Trái Đất chỉ cho không nên bất tử (trang 603)

 Trong thế giới được tạo dựng lại như thế, một văn hóa được hình thành: văn hóa biết ơn:

Hình thành một văn hóa

Của nghĩa đền ân trả.

 (ông ngụ ý: đã có những giai đoạn trong đời sống con người, không có văn hóa ấy).

 Kính thưa Quý vị,

Có một hiện tượng đáng chú ý trong văn học thế giới: những tác phẩm có giá trị lớn thường  xuất hiện sau một cuộc chiến tranh bi thảm,đem lại rất nhiều tàn phá vào xã hội và đời sống con người:

–Sau cuộc chiến tranh chống sự xâm lăng của Napoléon, nước Nga có truyện Chiến tranh và Hòa bình(War and Peace)của Leo Tolstoy. 

–Sau cuộc nội chiến bi thảm giữa hai miền Nam & Bắc giữa thế kỷ 19, nước Mỹ có truyện Gone with the wind(Cuốn theo chiều gió)của Margaret Mitchell.

–Sau những xáo trộn, nhiễu nhương cuối thế kỷ 18 ở VN (với Lê Trịnh/Trịnh Nguyễn—Tây Sơn—Nguyễn), chúng ta có Nguyễn Du với Truyện Kiềuvà bài “Văn tế thập loại chúng sinh.” Trong Truyện Kiều, ND đã viết:

Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy …

và tới cuối truyện, khuyên mọi người giữ lấy chữ “tâm”:

Thiện căn ở tại lòng ta

Chữ “tâm” kia mới bằng ba chữ “tài”

 –Khi Pháp xâm lăng cuối thế kỷ 19, miền Nam VN bị cắt nhường cho Pháp, dân miền Nam có Nguyễn Đình Chiểu (với Lục Vân Tiên, NTiều Vấn Đáp):

Thiên hạ xôn xao cuộc đảo huyền (= bị treo ngược)

Đau lòng ngồi viết Lục Vân Tiên

Hiếu trung xin giữ cho bền chặt

Tiết hạnh trau sao được vẹn tuyền…

 NĐC đã viết:

Trai thời TRUNG HIẾU làm đầu

Gái thời TIẾT HẠNH

 Với cơn đại hồng thủy đang dìm ngập dân tộc VN, chúng ta có Cung Trầm Tưởng. Theo nhà văn Võ Ý, người tù nào cũng nhận thấy thơ tù CTT mang hơi thở và ước vọng của chính họ, nên họ đã yêu mến, bảo vệ nhà thơ. Ở trong tù, giấy bút bị cấm. Nhiều khi thơ được làm trong cảnh hai tay bị còng, hai chân bị cùm, người tù lấy đầu viết hộ đôi tay trong còng. Những người bạn tù đã cố gắng nhớ thơ của ông, rồi giúp đem ra ngoài, nên thơ của ông mới có thể được phổ biến, rồi in ra cho chúng ta đọc. Ước mong của CTT cũng là ước mong của tất cả chúng ta: trận đại hồng thủy ở quê hương sẽ sớm chấm dứt để mọi vật mạnh mẽ hồi sinh. Về thơ CTT, 15 phút quả không nói được nhiều. Vì thời giờ giới hạn, tôi xin được kết thúc bằng câu: “Ở tuổi thanh niên, CTT làm thơ cho mình. Sau khi đã từng trải, chịu chung nhữngbất hạnh, ông làm thơ cho cuộc sống chung quanh. Vì những lẽ ấy, ông được coi là thi sĩ của tất cả chúng ta, được rất nhiều người trong chúng ta cảm kích và quý mến.” 

                             *****************************************************

TIẾNG QUÊ HƯƠNG & CUNG TRẦM TƯỞNG

(Trần Phong Vũ)

Bài nói chuyện của Nhà báo Trần Phong Vũ nhân buổi tái bản CUNG TRÂM TƯỞNG MỘT HÀNH TRÌNH THƠ 1948-2019 từ Nam California (Nov. 17-2019) 

Trân trọng kính chào quý vị, quý bạn trẻ

Như bảy năm trước, hôm nay, một lần nữa tôi xin giời thiệu sơ qua về tủ sách Tiếng Quê Hương và đặc biệt sau đó, về nhà thơ Cung Trầm Tưởng, tác giả thi phẩm đồ sộ này.

 

Khác với thói thường nói buông theo trí nhớ, hôm nay tôi viết thành văn bản. Lý do vì không muốn bị lố giờ và nhất là vì tôn trọng nhà thơ và những khách mời chọn lọc.

Thưa quý vị, 

Nói tới tủ sách TQH, không thể quên nhà văn Uyên Thao, một người suốt đời cặm cụi, lầm than với giấy bút. Anh bị CS cầm tù hơn 10 năm, sau đó lại bị cấm ra khỏi nước. Nhờ vận động quốc tế, năm cuối cùng thế kỷ trước, anh qua định cư tại Mỹ.

Đầu năm 2000, anh cùng bạn bè thành lập tủ sách, và ngay lập tức cho ra đời 5 tác phẩm của 4 nhà văn tên tuổi miền Nam. Truyện ngắn “Thân Phận Ma Trơi”, hồi ký “Giữa Đêm Trường” của Nguyễn Thụy Long, truyện dài “Ngã Tư Hoàng Hôn” của Văn Quang. Sau đó là thơ “Vương Đức Lệ” và hồi ký “Sống & Chết ở Sàigòn” của Hoàng Hải Thủy.

Mỗi năm, tủ sách ấn hành từ 4 đến 5 tác phẩm, tổng cộng đến nay là 90 đầu sách, trong đó có hơn 30 nhà văn trong nước, tiêu biểu như Bùi Ngọc Tấn đóng góp cho TQH 4 t ác phẩm.

Số còn lại là ngót 60 tác giả hải ngoại, mà vì giới hạn thời gian, xin lỗi, tôi không thể nêu tên.

Sau khi hoàn tất Hành Trình 70 năm Thơ ra mắt hôm nay, tiếp tay tổ hợp Cành Nam tái bản tập thơ ”Hoa Địa Ngục”, tập truyện ”Hỏa Lò”của Nguyễn Chí Thiện, hiện Tủ sách đang chuẩn bị tái bản tác phẩm ”Sợ Lửa” của nhà văn lão thành Doãn Quốc Sỹ.

Sau 2 thập niên hiện diện trong hoàn cảnh khó khăn về mọi mặt, với ngót 100 đầu sách, tuy không nhiều, nhưng cũng nói lên những hy sinh, đóng góp đáng kể của những trái tim Việt Nam trong và ngoài nước còn nặng lòng đối với những sản phẩm chữ nghĩa mang nặng hồn tính dân tộc.

Được như thế phải nói tới sự kiên trì, tận tụy của nhà văn Uyên Thao.

 

Và bây giờ, tôi xin có đôi lời về khuôn mặt chủ của buổi sinh hoạt văn học hôm nay, thi sĩ Cung Trầm Tưởng.

 

Trước hết, tôi phải cám ơn anh. Lần in đầu 7 năm trước, anh đã mời tôi nói về anh trong buổi ra mắt ở Viện Việt Học. Hôm nay anh lại cho tôi cái vinh dự ấy trong một bối cảnh khác. Không phải là buổi giới thiệu sách thông thường, mà là một tiệc Agape, một bữa ăn thân tình, giữa những con người biết yêu thương, trân quý nhau.

(Tôi mạo muội xin quý vị, quý bạn dành một tràng pháo tay thật dòn dã để chúc mừng nhà thơ).

Để tỏ lòng tôn trọng quý vị mà hầu hết đều biết rõ về thân thế, sự nghiệp nhà thơ, tôi sẽ không nói tới chuyện ông du học nước này nước nọ, tốt nghiệp những trường danh tiếng ở Pháp, ở Mỹ, từng là Sĩ Quan cao cấp trong Không Lực VNCH.

Tôi cũng sẽ không đề cập chuyện một thời ông chung chiếu với những văn thi sĩ hàng đầu miền Nam trên các tạp chí văn học lẫy lừng của Sàigòn kiếp trước.

Tôi chỉ xin chia sẻ với quý vị đôi điều về nhân cách, con người của tác giả trong đời thường cũng như những gì tôi cảm nhận qua Hành Trình 70 năm sống chết với thơ của ông.

 

Cuối tháng 2 sang năm, nhà thơ họ Cung 88 tuổi, hơn tôi chẵn 15 ngày. Với một người bị CS cầm tù 10 năm, qua Mỹ năm 1993 lúc đã 61 tuổi, quý vị thừa hiều đời sống của ông khó khăn đến mức nào. Nhưng nhìn mái tóc bạch kim, thần thái ung dung, diện mạo sáng rỡ, toát ra một vẻ an nhiên, phiêu hốt của một tâm hồn bình an khác thường, tôi hiểu tại sao, trong cảnh ngộ cay nghiệt nhất, nhà thơ của chúng ta vẫn giữ được một nhân cách hơn người.

 

Thế hệ tác giả và tôi, sinh sáu – bảy con không phải chuyện lạ. Điều lạ  là với một nhà thơ lừng lẫy như ông, qua những lần gặp gỡ riêng tư, tôi nhận ra ông là một người chồng, người cha rất có tinh thần trách nhiệm, ngay cả trong lúc ở trong tù cộng sản.

Nó không chỉ gói ghém trong những vần thơ tặng mẹ các cháu, như những bài ”Vô Vàn”, ”Mùa Chay”, ”Đường Vào Thiên Thu”, mà ngay cả những dịp họa hiếm khi có cơ hội nhắn tin cho vợ con.

Những lần như thế, ông đều lập lại điều ông từng thủ thỉ bên tai người bạn đời trước ngày đi tù, ”dù sống trong cảnh ngộ nào, mẹ ở đâu, các con ở đó”. Không ngờ, sau khi ra tù được gọi đi phỏng vấn để đi Mỹ, cả 7 con ông đều trót lọt. Chúng đáp ứng được tất cả những điều kiện. mà khó nhất là phải có chung một hộ khẩu.

Trong 10 năm khổ sai, ngoài nỗi đau mất nước, điều thi sĩ hận nhất là đã bị cướp mất 10 năm để dạy dỗ các con. Cho nên sau ngày ra tù, lúc kẹt trong nước cũng như suốt thời gian ở Mỹ, ông luôn gần gũi, hướng dẫn các con trong đạo làm người.

Đấy là tinh thần trách nhiệm của người cha, và cũng là nhân cách phi phàm của một nhà thơ lớn.

Lương thiện trí thức không cho phép ông né tránh vẽ lại trong thơ  những sự thật xúc phạm đến con người. Nó bộc lộ qua  bài ”Chúc Thư Của Một Người Lính Vô Danh”, trong đó, ông không sợ bị coi là phản chiến khi dám nói thẳng về những cái chết vô nghĩa của bạn cững như thù, để lên án chiến tranh. Đến như bài ”Một Nhà Thờ Kỳ Quặc” thi sĩ cũng không ngại nói ra những nét tiêu cực trong GH Công Giáo, một tôn giáo ông vốn quý trọng. Là người CG, tôi không chỉ đồng tình, mà còn cảm phục nhà thơ.

Một đặc điểm khác là trong ngót 26 năm ở Mỹ, dù thương nhớ quê hương biết mấy, chưa một lần ông về Việt Nam. Ông nói: ”Với một chế độ như thế làm sao tôi có thể về được?!”

 

Khác hẳn thiểu số nghệ sĩ đã thành danh, hãnh tiến thu mình trong tháp ngà vị kỷ, ông chia sẻ nỗi đau phận người. Nó bộc lộ công khai ở quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh của người thơ.

Qua thơ, ông bày tỏ tâm trạng xót thương thân phận hẩm hiu của những nàng Mạnh Khương, Tô Thị thời đại, trong đó có mẹ các con ông. Nhân cách ấy còn bộc lộ qua cái nhìn nhân bản của ông.

Trong lời tựa ”Bài Ca Níu Quan Tài”, nhà thơ xác quyết:  ”là một thiếu sót đáng trách, nếu nghệ thuật dửng dưng không nói đến sự Ác”. Trả lời phỏng vấn Viethome magazine, trang 555, ông nói ”Theo tôi, sự im lặng của người chứng kiến tội ác, nếu không là một hành động a tòng thì cũng phải lên án”.

Vì thế, nghĩ tới những bạn tù đã chết như những dũng sĩ bất khuất trước bạo lực ông viết, xin trích: ”hắn tự cảm thấy nhỏ bé, bất cập của những vần thơ hắn viết trước tầm vóc kỳ vỹ của những tấm gương anh hùng, và hắn cũng tự cảm thấy chữ nghĩa của mình chỉ như dăm ba giọt lệ trước nỗi bi thống mệnh mông như đại dương của dân tộc.”

Qua những lời tự thú này của thi sĩ ai dám nói rằng nhà thơ lớn của chúng ta thiếu tinh thần khiêm hạ?

 

Thưa quý vị,

Khiêm hạ và yêu thương con người, chống lại sự ác, chính là cửa ngõ mời gọi thi nhân tìm vào dòng thơ tôn giáo.

Nhân đây tôi phải cám ơn tác giả và nhà văn Võ Ý đã đề nghị dành cho tôi một tiết mục riêng để bàn về dòng thơ này, nhưng vì lý do tế nhị, tôi đã xin miễn.

Dù sao, để đáp lại phần nào tấm lòng tri ngộ ấy, nhân đây, tôi sẽ dành vài phút cuối, lướt qua thật nhanh những dòng thơ trân quý này của thi sĩ.

Cũng cần nói, đây chỉ là một số nhỏ trong mảng thơ linh thánh của người thơ. Và để giữ thái độ vô tư tuyệt đối, tôi chỉ trích đọc nguyên văn mà không nhận xét hay bình luận.

 

*Bài ”Lệ chuông” trang 138 sáng tác ở trại tù Tam Hiệp năm 76 vào một ngày đầu xuân. Ông viết:

”Bỗng từ xứ đạo gióng chuông reo // Thánh thót nghinh tân chút nghẹn ngào // Giòn giã thanh âm giòn giã đổ  // Cho hồn chắp cánh, hồn bay cao // Ba chiều Trời Đất một chiều Tin // Bốn phía chuông vang rộng mắt nhìn // Mấy thuở rồi sao giờ lại khóc // Lần đầu ấp úng lệ Amen.”

 

*Bài ”Nguyện Cầu Mùa Thu”  trang 140 viết ở nhà tù Hoàng Liên Sơn năm 77 có những câu: ”Thu này ngồi viết thơ kinh // Xin Trên ban phước an bình từ tim”, ”Cho lòng về với chân thân // Ngón tay mến Chúa được lần hạt châu” 

 

*Bài “Đưng Lên Giang Nứa”  trg 151 cũng viết ở HLS năm 77, người thơ vẽ ra trước mắt: ”Đường lên Đồi Sọ, Chúa rơi // Những dòng máu thắm cho đời mai sau”//. Từ đấy, ông tự nhủ lòng: ”Vai này xá kể gì đauDù cho có vác lấy sầu chung thân!” 

 

*Bài ”Đêm niệm”  trang 189 viết ở trại tù Hà Tây, Giáng Sinh 80, thi sĩ trải lòng ra: ”Ngửa tay hứng cho đầy // Dòng Phúc Âm tuyệt diệu..”. rồi dẫn vào hai câu kết: ”Mấy năm tầm học đạo // Tin yêu vớt nửa hồn.”

 

*Đến bài ”Mùa Chay” nơi trang 210,  nhà thơ viết tặng người bạn đời của ông thời gian bị tù ở Hàm Tân năm 84, với những câu: ”Anh chờ em giữa trần ai  // Lễ dâng nhà nguyện, miệt mài mùa chay”  

 

          *Bài ”Chủ Nhật Niềm Tin Màu Huệ Trắng”  trang 402 Tôi đếm được 15 câu đậm đặc sắc màu tôn giáo, chỉ  xin trích đọc vài câu:

”Thánh giá em đeo đáy mắt nhìn  //  Chủ Nhật cây me quỳ xám hối  // Rì rào chắp lá phượng amen //… Sớm nay chủ nhật thơm thiêng quá  // Vì có Nhà Thờ trong mắt em.”

 

*Bài NÚI VÀ SUỐI MỘT HUYỀN SỬ trang 439 trong tập  ”Những dấu Chân Ngang Trên Một Triền Phiếm Định”, một mảng siêu thơ, uyên áo, ảo diệu với ngôn từ được thi sĩ trầm hồn thanh luyện như luyện kim trong lửa -sáng tác ở một nơi ông gọi là Núi Mây Tần:

”Sớm đến tìm nhau làm lễ hiến  //  Cái phần thần diệu của lòng sâu  // Xa nhau xin hãy hát kinh cầu   // Trời mới lại như bảy ngày Sáng Thế,”   

 

          *Bài ”Khải mộ khúc”, trang 608 tập 7 ”Sáng Thế  và Người Tình Đầu”, khởi dựng một thế giới siêu linh với Hồn và Bóng.

Ông viết:

”Hồn với bóng một cội nguồn, hai phương vị  //  Hai đồng tâm thông báo một Tin Mừng  //  Đời sau này có tiếng hát ưu lương  // Cất từ miệng chàng thi nhân lãng tử  // Tai mộng thức nghe như lời Vũ Trụ // Hồn lờ mờ một nhung nhớ không đâu // Hơi lâm râm đã có hướng kinh cầu  // Làn ấp úng đã ươm màu Thánh Vịnh

 

Thưa nhà thơ Cung Trầm Tưởng,

Thưa quý vị, quý bạn trẻ,

Trước khi kết thúc, tôi xin có đôi lời cuối.

Lúc 5 giờ sáng nay, mở email, cô Dương Hoàng Mai, người bạn vong niên bên Đức gửi cho tôi bài cô đọc thi phẩm của thi sĩ Cung Trầm Tưởng.

Tôi xin đọc mấy câu ở đoạn cuối bài viết như cánh hoa của một người bạn văn phương xa gửi tặng nhà thơ lớn của chúng ta trong ngày ra mắt Hành Trình 70 năm Thơ của ông.

 

“Cái đẹp sẽ cứu rỗi nhân loại” như nhận định của Dostoevski, những vần thơ tuyệt đẹp của Cung Trầm Tưởng không chỉ cứu giúp ông & bạn tù của ông vượt qua cảnh khốn khó, nó còn cho chúng ta niềm tin quý giá là Thiện sẽ thắng Ác, Nhân nghĩa sẽ thắng Hung tàn.

… Hãy trân trọng “Một Hành Trình Thơ “ như viên ngọc quý biểu tượng cho Tự do của chúng ta, những người Việt Hải ngoại.

… Biết đến bao giờ những vần thơ của thi sĩ Cung Trầm Tưởng sẽ về ngự trị chính thức trên vùng trời thi ca đất Việt?

Ngày đó chắc chắn sẽ đến cùng với những đổi mới như ông hằng mong ước.”

 

            Trân trọng kính chào quý vị và quý bạn