Thi sĩ Bùi Giáng, nhà thơ kỳ lạ Mặc Lâm, RFA http://phailentieng.blogspot.be/2017/10/thi-si-bui-giang-nha-tho-ky-la-mac-lam.htmlhttps://youtu.be/aYieTMQiTCs
Posted by Vong Ngay Xanh on Saturday, October 7, 2017
Mặc Lâm gửi đến thính giả bài viết về ông được chia làm hai phần, phần đầu tập trung vào tác phẩm Mưa Nguồn và phần thứ hai sẽ nói nhiều hơn về những góc đời khác của tài thơ trong trạng thái nửa tỉnh nửa điên kéo dài suốt nhiều chục năm trong gió bụi của hè phố Sài Gòn.
Nhà thơ đa tài
Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926 tại làng Thanh Châu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Ông là một nhà thơ, dịch giả và nghiên cứu văn học của Việt Nam, ông nổi tiếng từ thập niên 1960 với tập Mưa Nguồn.
Thuở nhỏ ông theo học tại học Trường Bảo An tại Ðiện Bàn (Quảng Nam), học trung học ở trường Thuận Hóa (Huế). Tháng 5 năm1952 Bùi Giáng về Huế thi Tú Tài tương đương và vào Sài gòn ghi danh Ðại Học Văn Khoa. Cũng trong năm này Bùi Giáng quyết định chấm dứt việc học ở trường và bắt đầu viết khảo luận, sáng tác, dịch thuật và đi dạy học tại các trường tư thục.
Từ 1957 đến 1997, Bùi Giáng có khoảng 55 tác phẩm đã in về thơ, dịch và triết học trong đó tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là tập thơ “Mưa Nguồn”, xuất bản năm 1963. Bùi Giáng mất ngày 7 tháng 10 năm 1998, tại Sài Gòn, thọ 72 tuổi.
Nhà văn Phạm Xuân Đài, người có liên hệ mật thiết và chia sẻ kỷ niệm với nhà thơ cũng như đã viết nhiều bài về Bùi Giáng nói về tập Mưa Nguồn như sau:
Trang trọng tỉnh táo
Nhà văn Phạm Xuân Đài: Ngôn ngữ của Mưa Nguồn trang trọng và tỉnh táo. Đây là một tập thơ được xuất bản đầu tiên của Bùi Giáng vào năm 1963, trong đó chứa đựng cả những bài thơ làm từ mười mấy năm trước đó, tức là khi tác giả còn khá trẻ, chỉ ở trong lứa tuổi hai mươi của cuộc đời thôi. Ta có thể thấy từng bài được chăm chút rất là kỹ lưỡng, và tác giả đã lựa chọn để đưa vào tập thơ.
Trong Mưa Nguồn bây giờ chúng ta có thể tìm thấy những bài thơ vào hạng nổi tiếng nhất của Bùi Giáng, chẳng hạn như bài “Chào Nguyên Xuân” với những câu bất hủ:
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa Xuân phía trước miên trường phía sau
Tóc xanh dù có phai màu
Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng…
hoặc là câu:
Hỏi rằng người ở quê đâu
Thưa rằng tôi ở rất lâu quê nhà
Đó là những câu nhiều người biết.
Hay là bài “Nỗi Lòng Tô Vũ” là một hoạt cảnh bầy dê giữa núi đồi. Bài này hiếm thấy trong thi ca Việt Nam với tâm tình cảm động của người chăn dê với đàn dê của mình. Bài này khá dài, tôi xin đọc 4 câu:
Và giờ đây một lời thề đã thốt
Nghìn thu sau đồi núi chứng cho ta
Cao lời ca bê hê em cùng thốt
Hoà cùng lời anh nhạc nỗi thiết tha.
Âm hưởng Phạn Ngữ lẫn Pháp Hoa kinh
Có lẽ nền văn học Việt Nam sẽ thiếu thốn biết bao nếu không có tên của một thi sĩ mà cuộc đời ông gắn liền với giai thoại, với hào quang, và cả với bóng tối. Tài thơ của ông cũng khác lạ như tính cách sống của ông: ngập ngừng với người này nhưng lại sang sảng và hào phóng với người kia.
Với ai đồng cảm với thi sĩ thì từng chữ từng lời có ma lực quấn quýt không rời, nhưng ngược lại, với những trái tim nhạy cảm với thi ca, quen thuộc với những con sóng thơ mới thì ngôn ngữ của Bùi Giáng sẽ nhanh chóng nạt nộ người đọc bằng những con chữ lạ lẫm dày đặc ma âm của Phạn Ngữ lẫn Pháp Hoa kinh.
Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu rất xa.
Gọi tên là một hai ba,
Ðếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm.
Bốn câu nổi tiếng của Bùi Giáng mới đọc lên khác nào tiếng kệ của một chú tiểu ranh mãnh trả lời khách thập phương, nhưng lại man mác hình bóng của Nguyễn Du trong từng góc chữ.
Đó là Bùi Giáng. Là bắt đầu một hành trình mà không thể dùng một từ ngữ nào chính xác hơn: hành-trình-Bùi-Giáng.
Cuộc hành trình này kéo dài cả một kiếp người của thi sĩ trong trạng thái thờ thẫn, mông quạnh dưới sức nóng của một xã hội bị biến đổi đến tận gốc và cô đơn trong trạng thái u uẩn không thể rời ra. Nguyễn Du tự hỏi ba trăm năm sau biết ai còn nhớ tới ông chăng, thì Bùi Giáng lại có một câu trả lời ngộ nghĩnh cho chính mình:
Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không
Ta đi gửi lại đôi dòng
Lá rơi có dội ở trong sương mù
Và đó là Bùi Giáng.
Phiêu bồng lãng bãng
Bốn câu sau đây của Bùi Giáng nghe ra khó khăn hơn, u thần hơn nhưng với nhà thơ Đỗ Quý Toàn thì lại có khả năng mở ra một cõi khác trong nhân gian này, cõi của phiêu bồng, của thơ thới, và bảng lãng thu trôi:
Bây giờ xin ngó cụm cây
Chắp hàng viết nốt áng mây về trời
Phiêu bồng sáu cõi thu trôi
Ngàn mưa nhỏ giọt trang đời lạnh ghê!
Nhà thơ Đỗ Quý Toàn: Bây giờ nếu quý vị đọc bốn câu thơ đó thì quý vị đọc nó giống như là đọc một bài cách trí, một bài luận văn, bảo rằng câu này nghĩa là gì, câu này ý nói sao, thì làm như vậy là quý vị đã giã từ Bùi Giáng rồi, từ chối không có nhận Bùi Giáng vô trong lòng mình nữa rồi. Là bởi vì, tôi xin phép phân tích bốn câu thơ đó, như là một bác sĩ mổ xẻ thì chúng ta sẽ không cảm được cái thơ của Bùi Giáng.
Bây giờ xin ngõ cụm cây: Ai là chủ từ của chữ “xin” đó? Ai là chủ từ của động từ “ngó” đó? Có phải là thi sĩ đang xin người đọc hãy ngó cụm cây? Hay là chính người đọc đang tự nhủ mình là “ta hãy ngó cụm cây”, hay là chính thi sĩ đang nói chuyện với cây rằng “cho tôi ngó một chút”.
Tất cả câu thơ 6 chữ đó chúng ta mà đem phân tích ra và đặt câu hỏi như vậy thì là giết luôn cả thơ. Chúng ta thử đọc “Bây giờ xin ngó cụm cây – Chắp hàng viết nốt áng mây về trời” thế là chúng ta để cho mây bay vào lòng mình, để cho mây bay về trời và tự nhiên trong lòng mình mở rộng ra với cả ông trời.
“Chắp hàng viết nốt”, ai đang chắp hàng viết nốt? Có lẽ chính chúng ta đang đọc thơ và chúng ta đang viết câu thơ đó. Chúng ta viết mấy câu thơ đó lên trên mấy áng mây, chúng ta đưa mấy câu thơ đó theo áng mây về trời. Cảm nhận như vậy chúng ta mới tiếp cận được thi sĩ Bùi Giáng.
“Phiêu bồng sáu cõi thu trôi”, tại sao lại sáu cõi mà không phải là bốn cõi, mười cõi, mười phương chư Phật? Tại sao lại thu trôi? Thế mùa thu nó trôi từ bao giờ? Cái mùa thu có ở đó hay là nó có vĩnh viễn từ ngàn năm và lúc nào cũng trôi ở trên bầu trời?
“Ngàn mưa nhỏ giọt”, mưa ở đâu tới? Tự nhiên mình có thể mở lòng ra và nhận hàng ngàn giọt mưa suốt bao nhiêu đời trong cái vũ trụ này.
Và cuối cùng “trang đời lạnh ghê”, “Ngàn mưa nhỏ giọt trang đời lạnh ghê” tự nhiên chúng ta đang bay đi theo mây, theo thơ về trời, theo thời gian về ngàn năm, chúng ta lại trở lại với cái tấm lòng của mình và cảm thấy run lạnh giống như chúng ta run lạnh trước cái vũ trụ bao la.
Và thi sĩ tặng chúng ta tất cả những cái cảm giác đó với bốn câu thơ lục bát, nếu chúng ta không tiếp nhận một cách phiêu bồng, một cách thơ thới thì chúng ta không bao giờ hoà mình được với cái thơ của Bùi Giáng.
Tính cách thơ lục bát mới
Nhà phê bình văn học Thụy Khuê có những nhận xét tuy ngắn về Bùi Giáng nhưng đã mô tả được nét tổng thể của tài thơ này:
Nhà phê bình văn học Thụy Khuê: Nói chung nếu khi mà mình đã lựa lọc ra trong tất cả những sáng tác của Bùi Giáng về thơ thì bao giờ cũng kiếm ra được những câu thơ có thể gọi là tuyệt tác. Cái hay của Bùi Giáng trong thơ, tức là ông đã đưa ra một hình thức thơ lục bát rất mới, nó không còn là ca dao nữa mà nó đi vào cái tiến trình triết học hiện sinh.
Thành ra là một phần của Bùi Giáng chúng ta có thể nói như là một cái sự hoà hợp được hai cái dòng tư tưởng Đông Phương và Tây Phương với nhau trong cái lục bát của Bùi Giáng.
Trong thơ của ông, ông vừa vận dụng ca dao, ông vừa vận dụng những hình ảnh của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, nhưng mà đồng thời ông lại cũng đưa thêm vào những hình ảnh rất là hiện sinh, rất là siêu thực; thành ra cái tính cách thơ lục bát của Bùi Giáng đã khác hẳn với lại những cái gì mà chúng ta quen đọc và quen thấy trong ca dao hay là trong thơ lục bát bình thường. Cái công của Bùi Giáng trong thi ca là như vậy.
Một đời khổ hạnh lãng tử
Bùi Giáng sống một đời cùng khổ, bất hạnh dưới cái nhìn của những người bình thường, nhưng lại phiêu hốt lãng tử và hỉ xả với tha nhân dưới cái nhìn của những thiền tông. Cách nhìn nào thì vẫn có cái mộc đóng tên Bùi Giáng bên dưới, Bùi Giáng không thể bắt chước, và cũng không thể bị từ chối. Đó cũng là đặc trưng Bùi Giáng trong đời sống thật cũng như trong thi ca của ông.
Nhà phê bình Đặng Tiến ghi nhận những đóng góp của Bùi Giáng trong thời gian đầu trước khi ông lâm vào trạng thái chìm đắm sâu dần vào hôn mê tri thức:
Nhà phê bình Đặng Tiến: Khoảng từ 1950 đến 1960 thì ông Bùi Giáng làm thơ lúc đầu óc ông rất là sáng suốt. Chỉ từ cuối thâp niên 1960 thì ông mới bị tâm thần một phần nào đó. Trong khi ông bị tâm thần thì cũng có lúc sáng suốt. Nhưng mà những bài thơ nổi tiếng nhất của ông là những bài thơ làm lúc sáng suốt và những bài thơ hay, có giá trị nghệ thuật cao và giá trị tư tưởng cao. Tôi đánh giá cao ông Bùi Giáng.
Chiều bên lá lung lay vàng cửa khép
Bóng trời sa trùm phủ tiếng em cười
Vườn cỏ lạnh hoa buồn không nói xiết
Bước chân dừng nghe rã lệ hai nơi
Lời hẹn ước em nghiêng đầu tóc xoã
Ðể than van sầu thiên cổ theo nhau
Hồn tuổi trẻ bay trở về giữa dạ
Nhờ dung nhan em bất tuyệt xuân đầu
Trời thuở đó ngần nào em khổ sở
Khóc khi nhìn gió thổi nước sương buông
Tìm xa vắng bên kia bờ đổ vỡ
Giòng sông em đâu có biết ngọn nguồn.
Bài Dòng Sông mà quý vị vừa nghe qua giọng đọc của Việt Long xin được làm câu kết vì nói về Bùi Giáng thì biết sao cho hết, nhất là đi sâu vào những uẩn khúc ngữ nghĩa mà ông còn liến thoắng móc vào những câu lục bát thần tình của ông.
Trong chương trình kỳ tới, chúng tôi sẽ trình bày những hội chứng Bùi Giáng cũng như những giai thoại chung quanh ông sau khi ông đã giao phó Mưa Nguồn cho một cõi trần ai…
* *
Văn học Việt Nam qua các biến cố lịch sử đã chứng kiến nhiều lần sự xuất hiện các nhân vật cự phách trong lãnh vực thi ca.
Mỗi khuôn mặt mang một thần thái riêng, một nhân cách hay tài năng vượt trội và nhất là sự đóng góp của họ vào nền văn học Việt ngày một giàu có hơn. Trong số này, Bùi Giáng là một.
Tài năng của ông biểu lộ xuyên suốt qua hơn nửa thế kỷ, an nhiên chiếm một chỗ rất lớn trong lòng người yêu thơ của nhiều thế hệ và những câu thơ tuyệt đẹp của ông vẫn còn khả năng gây tranh luận trong nhiều năm nữa.
Thi phẩm Mưa Nguồn
Bùi Giáng lừng lững tiến vào khu vườn văn học Việt Nam với tư thế của một nhà thơ lớn ngay từ thi phẩm Mưa Nguồn đầu tiên cho in vào Năm 1963, và chỉ một thời gian rất ngắn, Mưa Nguồn trở thành một hiện tượng, một vùng sáng trắng chớp lên trong văn đàn Miền Nam.
Những dòng thơ lục bát quen thuộc của thi ca bình dân qua cách tung hứng của Bùi Giáng trở thành lóng lánh âm thanh của một thứ ngôn ngữ lạ lùng nhưng lại thân quen của nhiều vùng quê Việt. Đặc biệt là xứ Quảng, nơi nhà thơ gửi lại cuống nhau trước khi vui chơi cùng hương đồng gió nội.
Ruộng đồng mọc cỏ hôm nay
Mừng vui thiên hạ bên này quên nhau
Bãi vui tự bữa hôn đầu
Máu se tàn lạnh triều đâu chia ngành
Bây giờ phố rộng xa anh
Mù sương quấn cỏ quận thành Phủ Chiêm
Cõi bờ con mắt hoa nghiêm
Tường vôi lá cỏ lim dim vô cùng.
Quyến rũ với thơ tự do
Lục bát Bùi Giáng có ma lực của một bài kệ vang lên trong buổi tàn thu. Âm hưởng của lời thơ quấn quýt trong không gian có khả năng gây xao động những sợi tơ thi ca mong manh nhất của người thưởng thức.
Ngôn ngữ trong thơ Bùi Giáng vừa quen vừa lạ, không những trong lục bát mà còn quyến rũ cả ở những dòng thơ tự do mà hơn một lần nhà thơ ThanhTâm Tuyền cũng phải buột miệng trầm trồ:
Em hé cành cây xanh ngó lạ cười nhau rộng mở
Hàm răng. Thu qua em khóc bốn mùa sương ướt
tóc buồn bàn chân định bước về phía núi xa
xanh sớm tím chiều hoang gió dại thu rừng thu
rừng em ngó mắt nghe tai nắm cầm năm ngón
nhỏ nghe bốn phía lạnh nằm trong trái tim.
Máu xương lổ đổ biết mần răng đợi bóng sáng hôm
sau tuyết trắng như sầu băng thương nhớ
Em hé cành cây xanh cánh cửa bước vào trong
cõi ấy bờ xa gió rộng chạy dài. Em khóc cho
người nghe thổn thức sau khi cười cho thật
sung sướng người nghe. Miệng em và. Trái anh
đào lay lắt suối trong soi suốt một sớm mai tiên
nữ đi về gót vang lồng lộng em ồ em! ta định nói
hai tay năm ngón một lời man dại yêu thương
Kết vòng múa quanh vừng thu vời cành rơi loã
xõa ngang đầu vai em mở ngực đợi chờ đã đến
phút rồi giây giờ xem vĩnh viễn xanh như trời
như đất đỏ cây xanh
Em hé cành cong xuống nghe bàn tay động vỡ
sương băng nói nhỏ nghe chừng như hơi thở
môi cười kia răng mở sẽ mai sau cùng chúng
bạn thưa rằng.
Khó có thể phân biệt bài thơ “Xuân Xanh” mà chúng ta vừa nghe với những dòng lục bát mang đậm dấu ấn Bùi Giáng. Không còn vần điệu quen thuộc của câu sáu câu tám, nhưng trong Xuân Xanh vẫn ẩn hiện rất rõ những cách điệu, cùng những ẩn dụ và ngôn ngữ rất Bùi Giáng.
Thế giới hoang tưởng của Bùi Giáng
Tiếc một điều, Bùi Giáng không ở lâu cùng một thế giới với chúng ta. Ông thuộc về một thế giới khác, thế giới ngập tràn ánh sáng của những hoang tưởng cực đại và cũng không thiếu những vùng tối cô đơn rợn người mà y khoa đặt chung một tên gọi là bệnh tâm thần.
Nhà văn Phạm Xuân Đài kể lại:
Về chứng bệnh tâm thần của Bùi Giáng, theo như tôi biết, chứng bệnh tâm thần của ông là có tính cách di truyền. Hồi nhỏ, trên bước đường đi tản cư, tôi được sống gần gia đình ông ở một vùng núi của Quảng Nam, và tôi đã chứng kiến chứng bệnh này nơi thân phụ của ông.
Nói về cái điên của Bùi Giáng thì những cái hình ảnh của ông, ngôn ngữ và cử chỉ của ông trong lúc điên trở thành cái gì quá thông thường trên đường phố Sài Gòn suốt mấy thập niên của cuộc đời ông và được rất nhiều người đã biết. Nhìn gần hơn thì tôi có thể đọc lại một số câu mà tôi đã viết từ Năm 1992 trong bài “Kẻ cuồng sĩ trong vườn cây” để nói về cái điên của ông:
“Bây giờ anh ít làm thơ lắm, còn cái tên điên thì viếng anh gần như định kỳ. Những lúc ấy anh đi nhiều nơi, nhưng thường xuất hiện tại vùng Chợ Trương Minh Giảng, tức chỗ Đại Học Vạn Hạnh là nơi ngày xưa anh trú ngụ, đứng giữa đường vung tay điều khiển xe cộ, cử chỉ rất linh động, đặc biệt đôi mắt sáng quắc bừng bừng. Anh đang thể hiện một năng lực nào đấy đang đầy ắp trong người anh.
Có khi anh múa may trong một lớp áo loè loẹt, động tác mạnh mẽ, chính xác, gần như múa võ, miệng hò hét như đang nạt nộ một đối tượng vô hình đang hiện diện ngay trước mặt mình. Đêm khuya, một hai giờ sáng, người ta nghe thấy một người vừa đi vừa tranh luận với chính mình, lời lẽ khó hiểu, thì ai nấy đều biết đó là Bùi Giáng.
Chỉ có các em nhỏ là im thin thít. Đối với chúng, ông Bùi Giáng là ông ba bị thực sự hiện diện trên cõi đời này, gầy gò, dơ bẩn, tóc hoa râm có khi dài chấm vai, áo quần tả tơi, hay múa may la hét, đôi mắt sáng rực một cách ma quái sau cặp kính trắng.
Tất cả thành viên các nhà trẻ vùng Chợ Trương Minh Giảng đều thất kinh trước hình ảnh ấy. Hình như nhà nào ở khu vực này cũng biết dọa con nít khóc nhè bằng câu “Ông Bùi Giáng đó! Nín đi!” Và câu dọa có hiệu lực tức thì. Nhưng, nhiều người lớn khi nói câu ấy thì cảm thấy một nỗi xót xa vô hạn, thương cho một người mà họ biết là trí thức và tài hoa nhưng định mệnh đã buộc anh phải tự thể hiện một cách dữ dội và khác thường như thế.”
Tình yêu dành cho Kim Cương
Bao vây Bùi Giáng là những giai thoại và thật khiếm khuyết nếu không nhắc đến một cái tên mà ông đã gắn bó trong hơn bốn mươi năm, đó là kỳ nữ Kim Cương. Mặc dù Bùi Giáng luôn cao giọng tung hô Marylin Monroe lẫn Brigitte Bardot, nhưng người mà ông yêu thương đắm đuối và bền bỉ nhất vẫn là Kim Cương.
Trong một lần nói chuyện dành riêng cho chúng tôi, nữ nghệ sĩ Kim Cương kể lại:
Cái huyền thoại của ông Bùi Giáng nhiều và vui lắm. Trong cái điên của ảnh (thì) nhiều cái cũng dễ thương lắm. Ảnh đứng làm chim bay cò bay đầu đường (làm) kẹt xe, đi không được, không ai kêu ảnh vô được hết. Mấy ký giả đi ngang mà thấy ảnh đứng như vậy, nhứt là đám nhỏ nhỏ nói “Kim Cương kêu ông ở đẳng đó”, thế là ảnh xách giỏ, xách nón chạy đi liền.
Khi nhớ về những tình cảm mà nhà thơ dành cho mình trong suốt 40 năm, nghệ sĩ Kim Cương không khỏi ngậm ngùi:
Đối với anh Bùi Giáng, (ảnh) đối với tôi trân trọng một mối tình như vậy cho dẫu ảnh không có bình thường, ảnh có khi điên khi tỉnh, mà tới khi ảnh nổi cơn điên thì tôi khổ với ảnh lắm, anh biết không!
Ổng lại nhà kêu cửa mà không mở là ổng vác gạch ổng chọi mà ổng chửi tùm lum. Chịu đựng với ảnh bốn chục năm như vậy.
Với tình cảm nghệ sĩ đối với nghệ sĩ thì tôi đối với ảnh cũng tương đối là ảnh vui, mặc dầu chắc chắn là giữa tôi với ảnh không bao giờ có chuyện yêu thương gì đến.
Khi thơ là không khí để hít thở
Bùi Giáng liên lỉ làm thơ như cần không khí để thở. Ông làm thơ khi tỉnh lẫn khi không tỉnh, và những bài thơ trong trạng thái tâm thần bất định này đôi khi làm nhiều nhà phê bình bối rối. Nhà phê bình Đặng Tiến nhìn lại những tác phẩm bất bình thường này như sau:
Khoảng từ 1950 đến 1960 thì ông Bùi Giáng ổng làm thơ lúc đầu óc ổng rất là sáng suốt. Chỉ từ cuối thập niên 1960 thì ổng mới bị tâm thần một phần nào đó. Trong khi ổng bị tâm thần (thì) cũng có lúc sáng suốt. Nhưng mà những bài thơ nổi tiếng nhất của ổng là những bài thơ làm lúc sáng suốt là những bài thơ hay, có giá trị nghệ thuật cao.
Trong những bài thơ tâm thần của ổng có những câu hay, nhưng mà nói rằng thơ tâm thần là hay nhứt của ổng thì cũng không đúng.
Ở Việt Nam mình chưa có truyền thống đánh giá những nhà thơ, những nhà văn tâm thần như là ở Tây Phương, thành thử những người đánh giá cao thơ tâm thần của ổng thì thường thường cũng chỉ là tùy hứng thôi chứ không phải là dựa trên những phương pháp chặt chẽ về y học, về nghệ thuật, về ngôn ngữ để mà phân tích cho cẩn thận, mà nói cho khác người vậy thôi.
Thơ tâm thần của ông Bùi Giáng dĩ nhiên là cái thơ khác đời, và những người khen thơ tâm thần của Bùi Giáng cũng muốn làm cho khác đời vậy thôi chớ còn không có một lý luận nào cho mạch lạc, hay nói cho đúng hơn là tuy tôi chưa đọc một bài báo nào mà có thể nói là thuyết phục về những thơ tâm thần của Bùi Giáng.
Những bài hay nhứt về Bùi Giáng là những bài của Thanh Tâm Tuyền hay là Tuệ Sĩ thì chỉ dựa trên những câu thơ bình thường của ông ấy thôi, trong lúc ổng sáng suốt thôi.
Ra đi trong thương tiếc
Bùi Giáng ra đi trong niềm luyến tiếc của nhiều người yêu thơ ông và trong đó người chia sẻ niềm đau với ông lâu dài nhất không ai hơn được nữ kịch sĩ Kim Cương. Trong bài phát biểu cuối cùng trước linh cửu nhà thơ đúng mười năm về trước bà cho biết:
Có lẽ là ba cái câu mà tôi cảm ơn ảnh có thể khái quát hết cái quá trình ảnh đối với tôi. Điều thứ nhứt tôi cảm ơn ảnh là ảnh đã để cho đời những tác phẩm rất là hay, là bất hủ trong cuộc đời. Thứ hai là ảnh đã cho tôi một mối tình đơn phương mà bốn chục năm không thay đổi. Và cái cảm ơn thứ ba là ảnh cho tôi một bài học là dù điên dù khùng hay là dù tỉnh, dù già, dù trẻ, con người ta sống cũng phải có một mối tình, một cái gì để dựa vô mà sống.
Hình ảnh Bùi Giáng vai mang tay xách những thứ hỗn độn của đời sống trên đường phố Sài Gòn chừng như vẫn còn in đậm trong tâm trí nhiều người đã từng biết ông.
Còn những ai chưa có cơ hội gặp gỡ nhà thơ thì những vần lục bát thần tình của Bùi Giáng vẫn đủ ma lực mang đến cho người đọc những cảm giác thảnh thơi, chiêm nghiệm đời sống chung quanh bằng ngôn ngữ của một trích tiên vốn coi đời chỉ là cõi tạm.