Trong 20 năm qua, Đảng Cộng sản Tàu (ĐCST) đã không ngừng tăng cường đàn áp nội bộ và những hành động gây thù chuốc oán với bên ngoài của họ thường khiến nhiều nhà quan sát bối rối. Một mặt, họ cho rằng việc ĐCST tăng cường đàn áp là biểu hiện của sự bất an. Mặt khác, việc thực hiện ngoại giao chiến lang để gây thù chuốc oán với mọi phía dường như cũng cho thấy Bắc Kinh có đủ tự tin vào sức mạnh của mình, điều đó khiến nước này không thể không thực hiện một bước nhảy vọt để thách thức trật tự quốc tế hiện thời. Tuy nhiên, ông Michael Beckley, Giáo sư Khoa học Chính trị tại Đại học Tufts – Hoa Kỳ, sau nhiều năm nghiên cứu về sức mạnh quốc gia và quân sự của nước này đã đưa ra kết luận rằng, sự kiểm soát, đàn áp bên trong và các hành động khiêu khích bên ngoài của ĐCST đều là sự phản ánh một cảm giác bất an về một tương lai không còn dài của chính họ.
Tập Cận Bình và thuyết “Đông thịnh Tây suy”
Trong 20 năm qua, biểu hiện của Trung Cộng trên trường quốc tế mang một diện mạo hoàn toàn khác so với trước đây, đến mức Kurt Campbell, điều phối viên về các vấn đề Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ, người thường được coi là có cung cách nói chuyện vô cùng thận trọng và chừng mực, cũng không thể kìm nén nổi sự ngạc nhiên. Theo hãng tin Reuters, trong một cuộc hội thảo tại Hiệp Hội Nghiên cứu châu Á vào ngày 6 tháng 7 vừa qua, ông Campbell đã tuyên bố, “Bắc Kinh gần đây ngày càng trở nên hung hăng và gây thù chuốc oán với nhiều nước. Chiến lược này rất khác so với chiến lược của Bắc Kinh trong những năm 1990.”
Hiện nay, nhiều nhà quan sát Trung Cộng và nước ngoài tin rằng, việc chính quyền ĐCST có thể thực hiện toàn bộ các cuộc đàn áp ở Trung Cộng, từ việc áp chế các tín đồ tôn giáo, người Duy Ngô Nhĩ, người Mông Cổ và người Tây Tạng, các luật sư nhân quyền, các nhà hoạt động vì quyền lao động và quyền phụ nữ, những người chủ trương đòi quyền lợi cho các nhóm thiểu số tính dục, cho đến việc gây hấn khắp nơi thông qua chính sách ngoại giao chiến lang, chủ yếu là do ĐCST cho rằng với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế Trung Cộng, sức mạnh tài chính của nước này đã tăng lên nhiều đến mức họ có đủ vốn liếng để làm bất cứ điều gì mình muốn.
Trong khi các nhà chức trách của ĐCST đang gây hấn cả trong nước lẫn quốc tế, lãnh đạo ĐCST và Chủ tịch Trung Cộng Tập Cận Bình, người có quyền lực tuyệt đối với lời nói nặng tựa ngàn cân, thậm chí còn khẳng định xu thế chung của thế giới hiện nay là “Đông thịnh Tây suy”. Các nhà quan sát thường coi “Đông” mà Tập Cận Bình ám chỉ là Trung Cộng dưới sự kiểm soát của lãnh tụ họ Tập, còn “Tây” để chỉ các nước dân chủ có nền công nghiệp hóa phát triển do Mỹ đứng đầu. Ngoài ra, các nhà quan sát cả trong và ngoài Trung Cộng nói chung đều tin rằng, chính sách ngoại giao chiến lang gây hấn khắp nơi của Trung Cộng trong những năm gần đây có liên quan mật thiết đến Tập Cận Bình, người đã sớm thể hiện tinh thần dân tộc chủ nghĩa hết sức mãnh liệt từ trước khi lên nắm quyền.
Tuy nhiên, theo quan điểm của Beckley, mặc dù kể từ khi lên nắm quyền, Tập Cận Bình đã để lại những dấu ấn đậm nét trong việc trấn áp nội bộ cũng như gây hấn với bên ngoài, nhưng sự hung hăng của ĐCST ở cả trong và ngoài nước trong những năm gần đây phần lớn không đến từ hành vi cá nhân của họ Tập, mà là kết quả của quá trình ĐCST nhận thức được nước này đang bị đặt trong một tình thế khó khăn, đồng thời cố gắng vùng vẫy để thoát khỏi cục diện này. Beckley cũng chỉ ra rằng, việc ĐCST đồng thời tạo thù trong lẫn giặc ngoài không phải chỉ mới xuất hiện kể từ khi Tập Cận Bình lên nắm quyền mà đã tồn tại từ trước đó, và nó xuất hiện cùng lúc với sự tăng trưởng chậm lại của nền kinh tế Trung Cộng.
Vì sao thuyết “Đông thịnh Tây suy” không đáng tin cậy
Theo quan điểm của Beckley, việc Tập Cận Bình cho rằng cục diện thế giới lúc này đang theo chiều hướng “Đông thịnh Tây suy” là hoàn toàn vô lý và thiếu cơ sở, ngay cả khi có một vài người ở Tàu hay thậm chí ở Mỹ và các nước phương Tây tin rằng tuyên bố này của họ Tập có căn cứ ở một mức độ nào đó.
Tiến sĩ Beckley, người đã nghiên cứu về sự cạnh tranh giữa các cường quốc, đặc biệt là vấn đề cạnh tranh quyền lực giữa Mỹ và Trung Cộng trong nhiều năm qua, trước đây từng làm việc trong Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, cũng như các tổ chức tư vấn như RAND Corporation và Quỹ Carnegie vì Hòa Bình Quốc tế. Trong khi đảm nhận công việc giảng dạy, ông tiếp tục làm công tác tư vấn cho giới tình báo và Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ.
Beckley đã xuất bản các bài báo trên tạp chí Foreign Policy, Foreign Affairs và các tạp chí khác trong những năm gần đây, đồng thời xuất bản tác phẩm được giới phê bình đánh giá cao có tên Không thể thay thế: Tại sao Mỹ sẽ tiếp tục là siêu cường duy nhất trên thế giới (Unrivaled: Why America Will Remain the World’s Sole Superpower), để trình bày các nghiên cứu về sức mạnh quân sự của Trung Cộng và những điểm yếu của nước này trước công chúng và các nhà hoạch định chính sách của Mỹ. Ví dụ, ông đã viết trên tạp chí Foreign Policy vào tháng 12 năm 2020 như sau:
“Với tư cách là một cường quốc đang trỗi dậy, Trung Cộng đã bước vào thời kỳ đặc biệt nguy hiểm – nước này có khả năng phá vỡ trật tự hiện có, nhưng cánh cửa hành động của họ đang bị thu hẹp…
“Kể từ năm 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế hằng năm của Trung Cộng đã giảm hơn một nửa và năng suất lao động giảm 10%. Đồng thời, nợ công đã tăng gấp 8 lần, đạt mức 335% tổng sản lượng quốc gia (GDP) vào cuối năm 2020. Trung Cộng không có nhiều hy vọng sẽ đảo ngược được những tình thế này, vì trong 30 năm tới, nước này sẽ mất đi 200 triệu người trong độ tuổi lao động và có thêm 300 triệu người già. Khi tăng trưởng kinh tế giảm, nguy cơ bất ổn xã hội và chính trị sẽ gia tăng. Các nhà lãnh đạo Bắc Kinh hiểu rõ vấn đề này, Tập Cận Bình đã nhiều lần lên tiếng cảnh báo rằng sự tan rã theo kiểu Liên Xô có thể xảy ra, trong khi giới thượng lưu Trung Cộng đang chuyển tiền và gia đình của họ ra nước ngoài.”
Trong cuốn sách Không thể thay thế, khi so sánh sức mạnh tổng hợp quốc gia và xu hướng phát triển của Mỹ, Trung Cộng và Nga, Beckley đã nêu ra những viễn cảnh nghiệt ngã mà Trung Cộng phải đối diện theo cách này:
“Đến năm 2050, Trung Cộng sẽ đánh mất 1/3 lực lượng lao động và tốc độ lão hóa dân số sẽ diễn ra nhanh hơn bất kỳ xã hội nào trong lịch sử. Tỷ lệ người lao động và người về hưu là 8:1 hiện nay sẽ đạt mức 2:1, các cơ quan chính phủ của nước này không ngừng tham nhũng, kìm hãm sự đổi mới và cản trở cải cách sau những sai lầm về chính sách, đồng thời tài nguyên thiên nhiên cũng bị suy giảm do khai thác quá mức và ô nhiễm môi trường.”
– Beckley chỉ ra rằng, song song với việc ĐCST phải đối diện với nhiều thách thức trong nước, môi trường bên ngoài nước này cũng đang xấu đi, “tinh thần chống Trung Cộng trên toàn cầu dâng lên mạnh mẽ và đang ở cấp độ cao nhất kể từ cuộc thảm sát Thiên An Môn năm 1989, khi chính quyền ĐCST điều động quân đội đàn áp những người biểu tình vì dân chủ và chống tham nhũng, Trung Cộng gây mâu thuẫn với Ấn Độ và nhiều nước láng giềng khác, thái độ bức ép của Trung Cộng ở Biển Đông không chỉ dẫn đến sự phản đối của các nước láng giềng, mà còn dẫn đến sự phản ứng từ các nước châu Âu như Anh, Đức và Pháp.”
– Khi so sánh sức mạnh tổng hợp quốc gia của các cường quốc trên thế giới, Beckley kết luận từ nghiên cứu của mình rằng, các tài liệu nghiên cứu liên quan cho đến nay đã đo lường không chính xác sức mạnh tổng hợp quốc gia. “Hầu hết các nghiên cứu sử dụng một số chỉ số kinh tế rộng và nguồn lực quân sự để đánh giá sức mạnh quốc gia của các nước. Ví dụ như sử dụng tổng sản lượng quốc gia và chi tiêu quân sự để đánh giá. Các chỉ số này đem các nguồn lực có liên quan của các quốc gia cộng lại với nhau, nhưng không trừ đi chi phí mà các quốc gia đó phải trả để kiểm soát, bảo vệ và cung cấp phục vụ cho người dân của họ. Do đó, các chỉ số đo lường thông thường này sẽ phóng đại sức mạnh quốc gia của các nước nghèo và đông dân như Trung Cộng và Ấn Độ. Các nước này có năng lực sản xuất lớn và lực lượng quân đội đông đảo, nhưng họ cũng phải chịu gánh nặng an ninh và phúc lợi khổng lồ mà sẽ làm tiêu tốn nhân lực và vật lực của họ.”
– So với Trung Cộng, “Mỹ giàu hơn Trung Cộng nhiều lần và khoảng cách tuyệt đối giữa hai bên vẫn đang gia tăng hàng nghìn tỷ đô la mỗi năm. Nền kinh tế Trung Cộng tuy lớn nhưng không hiệu quả. Trung Cộng thu được sản lượng cao với chi phí cao. Các công ty Trung Cộng có chi phí sản xuất cao trong suốt cả năm và 1.4 tỷ dân của Trung Cộng tạo thành gánh nặng an ninh và trợ cấp khổng lồ. Nói một cách tương đối, nền kinh tế Mỹ lớn mạnh và hiệu quả, đồng thời đạt được sản lượng cao với chi phí tương đối thấp. Năng suất bình quân của người lao động và các công ty Mỹ gấp bảy lần Trung Cộng, nhưng dân số Mỹ chỉ bằng 1/4 Trung Cộng, do đó trợ cấp phúc lợi và an ninh ở Mỹ thấp hơn nhiều. GDP và các tiêu chuẩn đo lường thông thường khác đã tạo ra những ấn tượng khiến người ta lầm tưởng rằng Trung Cộng đang đuổi kịp Mỹ về mặt kinh tế.”
Ảo tưởng về sự gia tăng quân sự của Trung Cộng
Beckley cho rằng, ngay cả trong lĩnh vực sức mạnh quân sự mà nhà cầm quyền ĐCST đầu tư nhiều nhất, cái gọi là sức mạnh Bắc Kinh chỉ là ảo tưởng khi so với Mỹ. Ông đã viết trong cuốn sách Không thể thay thế như sau:
“Hệ thống vũ khí của Trung Cộng chỉ có năng lực bằng khoảng một nửa so với mức trung bình của Mỹ. Số lượng binh lính, phi công và thủy thủ hải quân đã qua đào tạo của Trung Cộng chưa bằng một nửa so với Mỹ, họ có kinh nghiệm hoạt động hạn chế và thiếu kinh nghiệm chiến đấu thực tế. Chi phí cho quân nhân Trung Cộng cao hơn Mỹ ít nhất 25%; các hoạt động bảo vệ lãnh thổ và an ninh tiêu tốn ít nhất 35% ngân sách quân sự và chiếm dụng một nửa lực lượng vũ trang đang hoạt động của Trung Cộng. Trong khi đó, quân đội Mỹ chuyển giao các vấn đề và chi phí đó đến các cơ quan dân sự.”
Beckley chỉ ra, vị thế của một cường quốc không cao cũng chẳng thấp sẽ khiến Trung Cộng trở nên đặc biệt nguy hiểm trong vài năm tới và Mỹ sẽ phải đối diện với những thách thức to lớn trong việc duy trì hòa bình. Ông viết trong một bài báo đăng trên tạp chí Foreign Policy: “Trong lịch sử, những hành động liều lĩnh để tranh giành vị thế quốc gia hùng mạnh thường đến từ những nước lớn đang trỗi dậy nhưng cảm thấy rằng họ không có nhiều thời gian.” Ông đã liệt kê nhiều ví dụ trong lịch sử, bao gồm Đức trước Chiến tranh thế giới thứ nhất và Nhật Bản đã kích động Chiến tranh Thái Bình Dương bằng cách tấn công Trân Châu Cảng ở Hawaii vào năm 1941.
Mặc dù trong các bài báo và tác phẩm của mình, Beckley cho rằng Mỹ vẫn có lợi thế nhất định so với Trung Cộng về sức mạnh quốc gia và quân sự, hơn nữa lợi thế này không hề giảm đi mà ngày càng được nới rộng, nhưng ông cũng chỉ ra, những lợi thế của Mỹ không phải là bất di bất dịch và trường tồn mãi mãi, mà vô số những vấn đề không thể coi nhẹ trong chính trị và xã hội Mỹ có thể khiến Mỹ đánh mất chúng.
Tuy nhiên, trong một cuộc phỏng vấn với đài VOA, Beckley nói rằng về lâu dài và về mặt lịch sử, là một quốc gia dân chủ, việc Mỹ kiên quyết đi theo những chính sách sai lầm không thể sửa chữa giống như những quốc gia theo chế độ chuyên chế là điều rất khó có thể xảy ra.
Sau đây là phần hỏi đáp trong cuộc phỏng vấn của Beckley với VOA. Những điều Beckley bày tỏ là quan điểm cá nhân của ông.
Lợi thế từ sự chuyên quyền độc tài của Đảng Cộng sản Trung Cộng
Hỏi: Trong cuốn sách Không thể thay thế: Tại sao Mỹ sẽ tiếp tục là siêu cường duy nhất trên thế giới, cũng như trong các bài báo đăng trên tạp chí Foreign Policy và Foreign Affairs, ông đã liệt kê hàng loạt điểm yếu về kinh tế, ngoại giao, chính trị, dân số, môi trường, cung cấp lương thực, năng lượng, an ninh nội địa mà Trung Cộng phải đối diện trong sự so sánh với Mỹ. Tuy nhiên, Trung Cộng nằm dưới sự kiểm soát của ĐCST vốn không biết kiêng nể, ĐCST có thể dễ dàng và thuận tiện huy động hoặc chiếm đoạt đủ nhân lực và vật lực để làm xói mòn hoặc phá hủy nền hòa bình dưới sự thống trị của Mỹ (Pax Americana). Ông muốn nói gì về tình huống này?
Beckley trả lời: Tôi nghĩ là đúng, chế độ chuyên chế có một lợi thế, nó có thể nhanh chóng huy động nhân lực và vật lực để xây dựng cơ sở hạ tầng quy mô lớn, vận động kinh phí, buộc nông dân phải dời đi và dựng lên những trị trấn ma mà các cơ quan quản lý xây dựng muốn. Điều này cũng đúng trong quân đội. Ý tôi là Tập Cận Bình có thể ra lệnh bắt các công ty kỹ thuật công nghệ phục vụ cho quân đội và các cơ quan an ninh của Trung Cộng. Nhưng Tổng thống Mỹ không thể buộc Google cung cấp kỹ thuật công nghệ mới nhất cho quân đội Mỹ.
Rõ ràng chính phủ chuyên chế có một số lợi thế nhất định, nhưng những lợi thế này chỉ tồn tại ở một số lĩnh vực biệt lập và chỉ mang tính ngắn hạn. Tuy nhiên, xét về xu hướng dài hạn, về mặt tạo ra sự phát triển kinh tế bền vững trong khoảng thời gian hàng thập niên, về mặt ngoại giao và đối nội, tạo ra các chính sách ổn định hơn, thiết lập một thế cục quân sự bền vững hơn, hay nói thẳng ra là không mắc những sai lầm thảm khốc, thì các nền dân chủ hoạt động tốt hơn.
Lý do rất đơn giản. Bởi vì các chế độ dân chủ có tính cạnh tranh, nên luôn có những đảng đối lập cố gắng chỉ trích và tìm ra cách làm tốt hơn đảng cầm quyền. Dân chủ có thể tránh được tình trạng hôn quân hay bạo chúa, tức là cục diện kẻ mạnh hy sinh cả đất nước vì lợi ích của riêng mình. Theo tôi, nền kinh tế Liên Xô sụp đổ vì một số lý do. Đó là vì nền kinh tế do chính phủ chủ đạo không làm tốt trong công tác đổi mới và khởi nghiệp. Tôi cho rằng trong một số lĩnh vực, dân chủ có ưu điểm là sức mạnh quốc gia được tích lũy lâu dài, còn nhược điểm của nó nằm ở tốc độ huy động nhân lực và vật lực. Đây chính là tình hình của Mỹ và Trung Cộng. Trung Cộng có sự kết hợp quân – dân, là chế độ toàn dân, toàn xã hội. Trong khi đó, Mỹ có chế độ phân quyền và buộc phải tập hợp sức mạnh của tất cả các bên để hoàn thành công việc.
Có phải Trung Cộng đã phá vỡ hòa bình dưới sự lãnh đạo của Mỹ ở Biển Đông?
Hỏi: Một số người nói rằng Trung Cộng đã thực sự làm xói mòn và phá hủy nền hòa bình dưới sự lãnh đạo của Mỹ. Ví dụ, ở Biển Đông, Trung Cộng trực tiếp xây dựng các đảo nhân tạo, quân sự hóa và tuyên bố chúng là lãnh thổ của Trung Cộng. Các tàu chiến và máy bay của Mỹ giờ đây chỉ có thể nhìn chúng từ xa mà không thể can thiệp. Ông nghĩ thế nào về việc Trung Cộng đang biến Biển Đông thành của riêng mình, và cái giá phải trả là sự tín nhiệm của Mỹ và hòa bình dưới sự lãnh đạo của Mỹ?
Đáp: Tôi nghĩ việc Trung Cộng có thể biến Biển Đông thành của riêng mình vẫn còn xa xôi lắm. Trung Cộng đã quân sự hóa một số đảo nhân tạo, nhưng Mỹ đã cố tình cho tàu chiến đi qua các đảo nhân tạo đó ở cự ly gần, tuyên bố rằng đây không phải lãnh thổ của Trung Cộng mà là đường biển quốc tế. Điều này được thiết lập bởi Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. Năm 2016, Tòa Án Trọng Tài Thường Trực ở La Hay cũng tuyên bố rằng tất cả các yêu sách lãnh thổ của Trung Cộng ở Biển Đông đều vô hiệu.
Mặc dù việc Trung Cộng biến Biển Đông thành của riêng mình vẫn còn xa, nhưng các chiến lược được Trung Cộng sử dụng mà bạn vừa chỉ ra là một cách để Trung Cộng cố gắng tạo thành một “việc đã rồi”. Trung Cộng sử dụng “chiến thuật vùng xám” (Chú thích: Chiến thuật tránh đối đầu quân sự nhưng có thể buộc bên kia nhượng bộ) để thách thức quyền sử dụng tuyến đường biển đó của các nước khác. Đây là một vấn đề lớn. Hơn nữa, điều này cũng có thể mang lại cho Trung Cộng một số lợi ích ban đầu trong các cuộc xung đột có thể xảy ra. Trung Cộng khai triển và phóng các thiết bị cảm biến trên các đảo nhân tạo đó và đang trong trạng thái chuẩn bị tác chiến. Khi chiến tranh ở Biển Đông nổ ra, họ có thể hành động nhanh hơn.
Nhưng tôi nghĩ, đầu tiên, Trung Cộng không hề củng cố quyền kiểm soát đối với Biển Đông, vì tôi cho rằng đây là điều không thể thực hiện được trong thực tế, vì diện tích của Biển Đông quá lớn, mà Trung Cộng chỉ mới chiếm được 7 đảo nhỏ trong số đó. Trung Cộng chỉ có một số lượng tàu chiến hạn chế và không thể củng cố quyền kiểm soát của mình ở đó.
Ở một khía cạnh quan trọng hơn, dù Trung Cộng đạt được lợi ích trong ngắn hạn nhưng đã khiến không chỉ các nước xung quanh Biển Đông, các nước ở những khu vực khác, mà cả các nước Châu Âu cử tàu chiến đến Biển Đông cũng phải tuyên bố với Trung Cộng rằng, hầu hết các quốc gia khác trên thế giới đều công nhận đó là đường biển quốc tế. Nếu Trung Cộng muốn dùng vũ lực để củng cố quyền kiểm soát thì sẽ vấp phải sự phản đối mạnh mẽ, và có thể phải đối diện với sự phản đối của hơn chục quốc gia hùng mạnh do Mỹ đứng đầu.
Mối quan hệ kinh tế giữa Trung Cộng và phương Tây là con dao hai lưỡi
Hỏi: Trung Cộng chắc chắn đang trỗi dậy và đó có thể không phải một sự trỗi dậy hòa bình. Cũng không nghi ngờ rằng, sự trỗi dậy của Trung Cộng hoặc về cơ bản hoặc hoàn toàn phụ thuộc vào vốn, công nghệ và thị trường phương Tây. Trong quá trình này, Trung Cộng đang trở thành một con quái vật mà phương Tây khó đối phó. Nói cách khác, Trung Cộng một mặt thu được lợi ích từ phương Tây, mặt khác ngày càng trở nên thù địch với phương Tây, và mức thiệt hại ngày càng nghiêm trọng. Ông nghĩ phương Tây sẽ thoát khỏi cái bẫy sinh tồn này như thế nào và khi nào?
Đáp: Rõ ràng, sự tiếp xúc của phương Tây với Trung Cộng trong 30 hoặc 40 năm qua là lý do chính cho sự trỗi dậy của Trung Cộng. Không có thị trường phương Tây, kỹ thuật công nghệ phương Tây và vốn phương Tây, Trung Cộng không thể vươn lên. Trung Cộng đã chơi rất hay trong trò chơi này, một mặt Trung Cộng duy trì quan hệ với phương Tây để có được tất cả những điều trên, mặt khác lại xây dựng sức mạnh quốc gia, xoay chuyển và bắt đầu tiến lên đưa ra những đòi hỏi của riêng mình, buộc phương Tây phải chấp nhận hoặc thay đổi mối quan hệ ban đầu giữa hai bên.
Nếu Mỹ và Trung Cộng tách rời hoàn toàn về kinh tế, rõ ràng cả hai bên đều sẽ thiệt hại rất nhiều. Tuy nhiên, cần phải xem bên nào phụ thuộc nhiều hơn vào thị trường của bên kia. Quy mô thị trường Mỹ gấp ba lần thị trường nội địa Trung Cộng. Mức tiêu dùng của Trung Cộng đã trì trệ ở mức 35% GDP, đây là mức rất thấp. Vì vậy, Trung Cộng cần xuất khẩu sang các nước giàu có trên thế giới.
Ai là người phụ thuộc vào ai nhiều hơn? Nếu Trung Cộng không có chip máy tính từ phương Tây hoặc thiết bị bán dẫn từ các nhà sản xuất phương Tây, máy tính của Trung Cộng sẽ không hoạt động được. Về những khía cạnh này, Mỹ và các đồng minh có lợi thế tuyệt đối. Mỹ và các quốc gia khác đã đánh bại các công ty kỹ thuật công nghệ hàng đầu của Trung Cộng như Huawei bằng cách ngăn cản họ có được những chip công nghệ quan trọng, đặc biệt là công nghệ bán dẫn.
Trung Cộng ngày càng phụ thuộc vào các quốc gia khác về dầu mỏ và thực phẩm. Như chúng ta đã biết, Trung Cộng luôn biết rằng ngoại thương là con dao hai lưỡi, ngoại thương một mặt đem lại những lợi ích như thị trường, kỹ thuật công nghệ; mặt khác lại khiến quốc gia bộc lộ những điểm yếu và làm bản thân nó chịu phải phụ thuộc vào những nước khác. Tôi nghĩ Trung Cộng hiện cũng thấy mình đang đối diện với phản ứng dữ dội từ chủ nghĩa bảo hộ ở khắp nơi trên thế giới. Chính quyền Biden của Mỹ tiếp tục duy trì các mức thuế trừng phạt mà chính quyền Trump đã áp đặt lên Trung Cộng trước đây, và giờ đây các mức thuế như vậy đã trở thành hiện thực.
Ngay cả Liên minh châu Âu cũng đặt câu hỏi về mối quan hệ kinh tế giữa họ với Trung Cộng. Một số quốc gia trả tiền cho các công ty của nước mình để họ chuyển hoạt động khỏi Trung Cộng. Tôi không nghĩ rằng các quốc gia trên thế giới sẽ tách biệt hoàn toàn khỏi Trung Cộng, nhưng chắc chắn quan hệ kinh tế của Trung Cộng với các nước khác sẽ giảm đi.
Kết quả là tất cả các nước sẽ bị thiệt hại ở một mức độ nào đó, nhưng Trung Cộng sẽ bị đặt vào tình thế nguy hiểm. Bởi vì dù cho Trung Cộng đang cố gắng cải thiện khả năng công nghệ của mình, nhưng nhìn vào các ngành công nghiệp khác nhau của nước này, chẳng hạn như công nghệ sinh học, công nghệ vũ trụ và bất kỳ ngành nào liên quan đến máy tính, họ vẫn phải dựa vào kỹ thuật công nghệ của phương Tây. Trung Cộng cũng phụ thuộc vào nước ngoài để kiếm dầu, thực phẩm và thị trường. Sự phụ thuộc vào bên ngoài của Trung Cộng là rất nghiêm trọng, điều đó khiến nước này lâm vào tình thế khó khăn.
Cách nhìn nhận vấn đề liên minh Trung – Nga
Hỏi: Trong cục diện giữa Mỹ và Trung Cộng, ông nghĩ thế nào đến yếu tố ĐCST và Nga sẽ đoàn kết lại để đối phó với Mỹ?
Đáp: Đây là một câu hỏi rất quan trọng, ngay cả khi hai nước này sẽ không trở thành đồng minh. Nhân tiện, tôi không nghĩ họ là đồng minh của nhau. Như chúng ta đã biết, đồng minh có nghĩa là bạn sẵn sàng hy sinh một số lợi ích trước mắt của mình cho một quốc gia khác. Mối quan hệ giữa Trung Cộng và Nga về cơ bản giống như một cuộc liên hôn được xây dựng trên cơ sở vì sự thuận tiện lâu dài. Sự hợp tác của họ là để cung cấp lợi ích cho nhau, nhưng họ cũng cạnh tranh với nhau. Ví dụ, ở Trung Á, ở Viễn Đông, và về vấn đề bên nào nên là người lãnh đạo chế độ chuyên chế toàn cầu.
Tuy nhiên, tôi vẫn rất lo lắng. Ngay cả khi họ không hỗ trợ lẫn nhau như những đồng minh thực sự, nhưng nếu họ làm những điều tương tự cùng một lúc, điều đó sẽ phóng đại các mối đe dọa mà Mỹ và các đồng minh phải đối diện. Ví dụ, sẽ có một kịch bản ác mộng như vậy, Trung Cộng tấn công Đài Loan ở châu Á, trong khi cùng lúc đó, Nga cũng có hành động tương tự ở Đông Âu. Điều này sẽ khiến Mỹ và đồng minh khó có đủ sức mạnh để đối phó với họ trên cả hai chiến trường.
Các ví dụ khác bao gồm việc Trung Cộng và Nga cùng phổ biến các phương thức và công nghệ “chủ nghĩa độc tài kỹ thuật số”. Cả hai quốc gia này dường như đang mài dũa và thử nghiệm các phương pháp và công nghệ như vậy ở quốc gia mình, đồng thời cũng đang tiến hành các hoạt động như vậy ở hàng chục quốc gia khác trên thế giới.
Rõ ràng trong một số tổ chức quốc tế, một số chính thể phi tự do do Trung Cộng và Nga lãnh đạo làm méo mó các yếu tố cơ bản của Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế khác. Khuôn khổ tự do mà các tổ chức này thiết lập lúc đầu không còn chiếm được ưu thế nữa. Các tổ chức này không còn khả năng hoạt động hiệu quả, và bất kỳ nghị quyết nào được đề xuất tại Liên Hợp Quốc nhằm lên án và xử phạt các hành vi vi phạm nhân quyền đều sẽ bị chặn lại. Một số quốc gia chống lại tự do chiếm các vị trí chính thức quan trọng trong các tổ chức này. Sự bắt tay giữa Trung Cộng và Nga khiến hiện tượng này càng dễ xảy ra hơn.
Cuối cùng, tôi muốn nói về việc chia sẻ thông tin tình báo và mua bán vũ khí giữa Trung Cộng và Nga, họ có thể nâng cao ảnh hưởng quốc tế của nhau. Vì vậy, tôi muốn nói rằng tôi rất lo lắng. Nhưng tôi sẽ không đồng ý nếu ai đó nói rằng Trung Cộng và Nga sẽ thành lập một liên minh, bởi vì Trung Cộng và Nga chưa bao giờ thành lập một liên minh. Tôi nghĩ Trung Cộng và Nga có rất nhiều xung đột lợi ích. Hơn nữa, giữa hai quốc gia này cũng có sự cạnh tranh tự nhiên, vì họ là hai nước lớn cùng bị đặt vào một chỗ. Nhưng khi hai nước thông đồng với nhau, đó là một vấn đề đối với Mỹ và các đồng minh.
Các đồng nghiệp Trung Cộng nhìn nhận điểm yếu của Trung Cộng như thế nào?
Hỏi: Các đồng nghiệp của ông ở Trung Cộng (học giả/nhà phân tích Trung Cộng) có nhận xét gì về hàng loạt điểm yếu của Trung Cộng được thể hiện trong cuốn sách của ông?
Đáp: Khi tôi thu thập tư liệu để viết cuốn sách này, vào đầu năm 2010, tôi sống ở Trung Cộng. Lúc đó, tôi viết báo cáo học thuật ở Trung Cộng, nói về các vấn đề dân số và những điểm yếu khác nhau của nền kinh tế Trung Cộng. Những báo cáo này nhận được nhiều sự quan tâm ở Trung Cộng hơn là ở Mỹ. Vào thời điểm đó, nhiều người ở Mỹ nói rằng Trung Cộng đã trở thành một người khổng lồ cao 10 thước và rằng Trung Cộng sẽ trở thành siêu cường tiếp theo.
Điều này chứng tỏ, bạn có thể nhìn thấy vấn đề của đất nước mình rõ ràng hơn vấn đề của nước khác. Đối với người Trung Cộng, phản ứng của họ khi nghe tôi nói về những vấn đề này là, chúng tôi cũng biết những vấn đề này; rõ ràng là chúng tôi đang phải đối diện với những thách thức này. Tôi nghĩ họ nhận thức được những vấn đề này, vì vậy họ hoan nghênh các bài giảng của tôi hơn.
Nhưng hiện nay theo như tôi quan sát, các đồng nghiệp Trung Cộng của tôi đang ngày càng dập khuôn theo các quan điểm của Đảng. Một số người trong số họ đang lặp lại các tuyên bố của Bắc Kinh, ngoài ra cũng có sự kiểm duyệt nữa (khiến họ không thể hoặc không dám nói ra sự thật).
Tuy nhiên, vẫn có nhiều người cảm thấy rằng Trung Cộng đang bị cô lập, khi mà tinh thần chống Trung Cộng đã tăng lên đến cực điểm kể từ vụ thảm sát Thiên An Môn năm 1989. Một số ý kiến chống Trung Cộng xuất phát từ đại dịch COVID-19 và một số đến từ những thứ khác. Nhưng họ cảm thấy rằng, cộng đồng quốc tế đã thay đổi thái độ đối với Trung Cộng và e ngại trước sự trỗi dậy của Trung Cộng. Tôi nghĩ, họ cảm nhận được rằng Trung Cộng đang bị cô lập, điều này dẫn đến tâm lý phòng thủ hơn ở họ.
Họ trở nên miễn cưỡng khi nghe mọi người nói về những điểm yếu của Trung Cộng, và họ không muốn nghe mọi người nói về việc người dân Trung Cộng thiếu ý chí chính trị khi tin tưởng chính phủ Trung Cộng hay ĐCST. Trong vài năm qua, tôi đã thực sự nhận thấy sự thay đổi trong thái độ của họ. Thật không may, điều này nghĩa là sẽ có ít hơn những cuộc đối thoại và trò chuyện trung thực giữa hai bên, và đôi bên sẽ không thể tuyên bố lập trường của mình để tìm ra các thỏa hiệp. Chúng ta đang thực sự bước vào kỷ nguyên cạnh tranh.
Lê Thị Thanh Loan dịch từ nguồn tiếng Trung trên VOA Chinese.