TƯỞNG NIỆM LẦN THỨ 75 NHÀ CÁCH MẠNG PHAN BỘI CHÂU

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

Nhà cách mạng Phan Bội Châu sinh ngày  26-12-1867,  tạ thế ngày 29-10-1940, hưởng thọ 73 tuổi, tên thật là Phan Văn San, tự là Hải Thu, bút hiệu là Sào Nam, Thị Hán, Độc Tỉnh Tử, Việt Điểu, Hãn Mãn Tử, v.v…cụ Phan là một nhân sĩ, văn sĩ, nhà cách mạng Việt Nam, cụ tổ chức hành động và bôn ba tìm đường cứu nước chống thực dân Pháp giành độc lập. Khi Việt Nam Quốc Dân Đảng thành lập được hơn hai năm, đảng trưởng Nguyễn Thái Học cử đại diện vào Huế để mời cụ làm Chủ Tịch Danh Dự VNQDĐ, cụ đã vui vẻ nhận lời ngay.
Tưởng niệm năm thứ 75 ngày cụ Phan Bội Châu mất (29/10/1940 – 29/10/2015),  xin thắp nén hương lòng ngưỡng mộ lòng yêu nước và sự hy sinh cao cả đối với tổ quốc, dân tộc của nhà cách mạng Phan Bội Châu….

Thân thế nhà cách mạng Phan Bội Châu:

Cụ Phan Bội Châu sinh ngày 26/12/1867 tại làng Đan Nhiễm, xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Thân sinh là cụ Phan Văn Phổ và cụ bà Nguyễn Thị Nhàn.

Thời còn bé, cụ Phan có tiếng thông minh xuất chúng. Năm 6 tuổi, chỉ học 3 ngày thuộc hết Tam Tự Kinh,  năm 7 tuổi đã đọc và hiểu sách Luận Ngữ, 13 tuổi đã thi đỗ đầu huyện.

Thuở thiếu thời cụ đã ý thức được nỗi đau của quê hương bị cai trị bởi thực dân Pháp, đã thể hiện lòng yêu nước nhiệt thành. Năm 17 tuổi, cụ viết bài “Hịch Bình Tây Thu Bắc” đem dán ở cây đa đầu làng để hưởng ứng việc Bắc Kỳ khởi nghĩa kháng Pháp. Năm 1885, cụ 18 tuổi  đã cùng bạn là Trần Văn Lương lập đội “Sĩ tử Cần Vương” để chống Pháp, nhưng bị thực dân Pháp đàn áp nên phải giải tán.

Vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, cụ đi dạy học kiếm sống và tự học thi, nhưng thi suốt 10 năm không đỗ đạt, sau đó bị một lỗi vi phạm nội quy trường thi nên cụ bị cấm thi suốt đời gọi là “chung thân bắt đắc ứng thí”. Có tin đồn là sự việc này do thực dân Pháp dàn cảnh để bôi nhọ danh dự cá nhân và làm mất ảnh hưởng của nhà ái quốc Phan Bội Châu.

Năm 1896, cụ Phan Bội Châu vào Huế dạy học, do mến tài cụ nên các quan đã xin vua Thành Thái xóa án. Nhờ vậy, khoa thi hương năm Canh Tý (1900) ở trường Nghệ An cụ đã đỗ Giải nguyên (đỗ đầu kỳ thi Hương).

Cuộc đời hoạt động cách mạng của cụ Phan Bội Châu

Lập Duy Tân hội, sang Nhật cầu viện

Sau khi đỗ Giải nguyên ở Nghệ An, cụ đã bỏ 5 năm ròng rã bôn ba khắp nước Việt Nam kết giao với các nhà yêu nước như Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Hàm (tức Tiểu La Nguyễn Thành), Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế, Đặng Thái Thân, Hồ Sĩ Kiện, Lê Huân, Nguyễn Quyền, Võ Hoành, Lê Đại,…

Năm 1904, cụ cùng Nguyễn Hàm và khoảng 20 đồng chí khác thành lập Duy Tân Hội ở Quảng Nam để đánh đuổi Pháp, chọn Kỳ Ngoại hầu Cường Để, một người thuộc dòng dõi nhà Nguyễn, nắm vai trò chủ tịch Hội.

Năm 1905, cụ cùng Đặng Tử Kính và Tăng Bạt Hổ sang Trung Hoa rồi sang Nhật Bản, để cầu viện Nhật giúp Duy Tân Hội đánh đuổi Pháp. Tại Nhật, cụ gặp Lương Khải Siêu, một nhà cách mạng người Trung Hoa, đàm đạo và khuyên là nên dùng thơ văn chống giặc, cụ Phan Bội Châu viết Việt Nam Vong Quốc Sử để thức tỉnh lòng yêu nước của người dân Việt Nam. Rồi gặp hai nhân vật quan trọng của Đảng Tiến Bộ đang cầm quyền ở Nhật Bản, là Bá tước Ôi Trọng Tín (Okuma Shigenobu) và Thủ tướng Khuyển Dưỡng Nghị (Inukai Tsuyoshi) khuyên là nên cổ động thanh niên ra nước ngoài học tập để sau này về đấu tranh cứu nước và xây dựng đất nước.

Tháng 6 năm 1905, cụ Phan Bội Châu cùng cụ Đặng Tử Kính mang theo một số sách Việt Nam Vong Quốc Sử về nước. Tháng 8 năm 1905 tại Hà Tĩnh, cụ và các đồng chí nồng cốt trong Duy Tân Hội bàn bạc rồi đưa ra kế hoạch hành động đó là:

Nhanh chóng đưa Kỳ Ngoại hầu Cường Để ra nước ngoài.

– Lập các hội nông,hội buôn,hội học để tập hợp quần chúng và để có tài chánh cho hội.

– Chọn một số thanh niên thông minh hiếu học, chịu được gian khổ, đưa đi học ở nước ngoài.

Phát động phong trào Đông Du

Kỳ Ngoại Hầu Cường Để (đứng) cụ Phan Bội Châu (ngồi)

Trong ba nhiệm vụ trên, thì nhiệm vụ thứ ba hết sức quan trọng và bí mật, nên Duy Tân hội đã cử Phan Bội Châu và Nguyễn Hàm tự định liệu. Sau đó, phong trào Đông Du được hai ông phát động, được đông đảo người dân ở cả ba kỳ tham gia và ủng hộ, nhất là ở Nam Kỳ.

Tháng 10 năm 1905, Phan Bội Châu trở lại Nhật Bản cùng với ba thanh niên, sau đó lại có thêm 45 thanh niên nữa. Năm 1906, Cường Để qua Nhật, được bố trí vào học trường Chấn Võ. Kể từ đó cho đến năm 1908, số học sinh sang Nhật Bản du học lên tới khoảng 200 người, sinh hoạt chung trong một tổ chức có quy củ gọi là Cống Hiến Hội…

Tháng 3 năm 1908, phong trào “cự sưu khất thuế” (tức phong trào chống sưu thuế) Trung Kỳ nổi lên rầm rộ ở Quảng Nam rồi nhanh chóng lan ra các tỉnh khác. Bị thực dân Pháp đưa quân đàn áp, nhiều hội viên trong phong trào Đông Du và Duy Tân Hội bị bắt, trong số đó có cụ Nguyễn Hàm, một yếu nhân của hội.

Mất mát này chưa kịp chỉnh đốn, thì hai phái viên của hội là Hoàng Quang Thanh và Đặng Bỉnh Thành lại bị Pháp bắt khi từ Nhật về Nam Kỳ nhận tiền quyên góp cho phong trào Đông Du. Tiếp theo, là Pháp và Nhật vừa ký với nhau một hiệp ước (tháng 9 năm 1908), theo đó chính phủ Nhật ra lệnh trục xuất các du học sinh người Việt ra khỏi đất Nhật. Tháng 3 năm 1909, Cường Để và Phan Bội Châu cũng bị trục xuất. Đến đây, phong trào Đông Du mà Phan Bội Châu và các thành viên khác đã dày công xây dựng hoàn toàn tan rã, kết thúc một hoạt động quan trọng của hội.

Lúc này, ở nhiều nơi trong nước, mọi hoạt động quyên góp tài chính và chuẩn bị vũ trang bạo động của Duy Tân Hội cũng bị thực dân đàn áp dữ dội. Những người sống sót sau các đợt khủng bố đều phải nằm im, hoặc vượt biên sang Trung Quốc, Thái Lan (Xiêm La), Lào để mưu tính kế lâu dài.

Cuối năm 1910, Phan Bội Châu chuyển một đại bộ phận hội viên (trong đó có khoảng 50 thanh niên) ở Quảng Đông về xây dựng căn cứ địa ở Bạn Thầm (Thái Lan). Tại đây, họ cùng nhau cày cấy, học tập và luyện tập võ nghệ để chuẩn bị cho một kế hoạch phục quốc sau này.

Thượng tuần tháng 6 năm 1912, trong cuộc “Đại Hội Nghị” tại nhà ông Lưu Vĩnh Phúc ở Quảng Đông, Trung Hoa, có đông đủ đại biểu khắp ba kỳ đã quyết định giải tán Duy Tân Hội và thành lập Việt Nam Quang Phục Hội, tức thay đổi tôn chỉ từ chủ nghĩa quân chủ sang chủ nghĩa dân chủ để đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục Việt Nam, thành lập nước Cộng Hòa Dân Quốc Kiến Lập Việt Nam, đáp ứng tình hình chuyển biến mới trên trường quốc tế.

Hoạt động ở Trung Hoa

Mặc dù thay đổi tôn chỉ, nhưng cụ Phan Bội Châu vẫn duy trì Kỳ Ngoại Hầu Cường Để trong vai trò chủ tịch chính phủ lâm thời Việt Nam Quang Phục Hội, nhằm tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân trong nước.

Sau đó, Việt Nam Quang Phục Hội cử một số hội viên về nước để trừ khử một vài viên chức Pháp và cộng sự đắc lực của họ, nhằm “đánh thức đồng bào”, “kêu gọi hồn nước”. Các cuộc bạo động bằng tạc đạn tuy xảy ra lẻ tẻ, nhưng vẫn khuấy động được dư luận trong và ngoài nước, làm nhà cầm quyền Pháp tăng cường khủng bố, khiến nhiều người bị bắt và bị giết. Bị kết tội chủ mưu, cụ Phan Bội Châu và Cường Để bị thực dân Pháp cùng với Nam triều kết án tử hình vắng mặt.

Năm 1913, thực dân Pháp cử người đến Quảng Đông “mặc cả” với Tổng Đốc Long Tế Quang, yêu cầu bắt cụ Phan Bội Châu và các yếu nhân của hội. Ngày 24/12/1913, nhà cách mạng Phan Bội Châu bị bắt. Nhưng nhờ cụ Nguyễn Thượng Hiền lúc bấy giờ đang ở Bắc Kinh vận động, nên Long Tế Quang không thể giao nộp cụ Phan cho Pháp, mà chỉ đưa giam vào nhà tù Quảng Đông, mãi đến tháng 2 năm 1917, cụ Phan mới được thả ra.

Ra tù, cụ Phan Bội Châu lại tiếp tục hoạt động cách mạng. Năm 1922, phỏng theo Quốc dân Đảng Trung Hoa của Tôn Trung Sơn, cụ có ý định cải tổ Việt Nam Quang Phục Hội thành Việt Nam Quốc Dân Đảng. Nhưng chưa kịp cải tổ thì cụ bị bắt cóc ngày 30 tháng 6 năm 1925. Việc cụ bị Pháp bắt tại tô giới Thượng Hải là do Hồ Chí Minh (dưới tên Lý Thụy) cộng tác với Lâm Đức Thụ chỉ điểm cho Pháp để lấy tiền thưởng 15 vạn bạc (theo tài liệu Thành Ngữ-Điển Tích-Danh Nhân tự điển của Trịnh Văn Thanh do nhà Xuất Bản Văn Học Hà Nội Xuất Bản, năm 2008)

Căn nhà phía sau nơi an trí cụ Phan từ năm 1925

Sau khi bị Pháp bắt tại Thượng Hải giải về nước qua đường Hồng Kông đến Hải Phòng cụ bị xử án tù chung thân. Mặc dù năm 1912, cụ đã bị thực dân Pháp kết án tử hình vắng mặt, nhưng trước phong trào đấu tranh của nhân dân cả nước, nhất là thanh niên học sinh đòi thả cụ Phan Bội Châu, và nhờ sự can thiệp của Toàn quyền Varenne, cụ được về an trí tại Bến Ngự, thành phố Huế.

Mặc dù bị giam lỏng ở Huế, cụ Phan Bội Châu vẫn tha thiết với vận mệnh của dân tộc, theo tài liệu của cuốn Lịch Đấu Tranh Cận Đại 1927-1954 – Việt Nam Quốc Dân Đảng của Hoàng văn Đào, Xuất bản lần thứ 4 năm 2006, Trang 43 thì:

“Ngày 15 tháng 9 (năm 1928) phiên họp Tổng Bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng theo thường lệ. Ngoài các vấn đề hệ trọng đã được giải quyết. Cuối cùng trở lại “vấn đề thống nhất các lực lượng cách mạng quốc gia”. Tổng Bộ quyết định cử Đại Biểu vào Huế vấn an cụ Phan Bội Châu, tặng cụ chức “Danh dự Chủ Tịch Đảng” và yêu cầu cụ giúp Đảng hai việc:

1) Yêu cầu cụ đem uy tín và đạo đức của cụ ra thuyết phục để thống nhất các đảng phái.

2) Yêu cầu cụ giúp đỡ về phương diện ngoại giao, vì cụ quen biết nhiều các chính khách ngoại quốc.

Vị Đại Biểu được Tổng Bộ đề cử là lão đồng chí Đặng Đình Điển lên đường vào Huế ngày mồng 2 tháng 10, 1928 Hai nhà lão thành cách mạng gặp nhau rất tương đắc, hoan hỉ vô cùng. Cụ Phan đã vui lòng nhận là một đảng viên của VNQDĐ, cụ nói:

– “Tôi tuy già yếu thật, nhưng nếu có thể giúp ích được gì cho Tổ Quốc, thì tôi nguyện đem hết sức mình phục tòng mệnh lệnh của Đảng.”

Đến khi chia tay từ biệt, cụ Phan Sào Nam trao cho lão đồng chí Đặng Đình Điển một tấm danh thiếp, phía sau đề 4 chữ “Khã dĩ đoạn kim” đề phòng khi Tổng Bộ có cử phái viên vào, thì cầm tấm danh thiếp ấy làm tin. Sự tham gia của nhà ái quốc Phan Bội Châu đã làm tăng uy tín cho VNQDĐ rất nhiều, các đảng viên vô cùng phấn khởi.”

Bị Pháp bắt và an trí

Căn nhà an trí của cụ Phan tại Bến Ngự, Huế

Trong 15 năm cuối đời, cụ còn được gọi “Ông già Bến Ngự”, vẫn giữ trọn phẩm cách cao khiết, không ngừng tuyên truyền tinh thần yêu nước bằng văn thơ, nên rất được nhân dân yếu mến. Nhà cách mạng Phan Bội Châu mất ngày 29 tháng 12 năm 1940 tại Huế.

Tác phẩm cách mạng

Việt Nam vong quốc sử

Việt Nam Quốc sử khảo (1909)

Ngục Trung Thư (1913)  – Sài Gòn: NXB Tân Việt, 1950

Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư (19??)

Việt Nam vong quốc sử (1905)

Việt Nam Quốc sử bình diễn ca (1927)

Cao Đẳng Quốc Dân Di Cảo (19??)  – Huế: NXB Anh-Minh, 1957

Chủng diêt dự ngôn(19??)  – Hà Nội: NXB Khoa hoc xã hội, 1991

Tân Việt Nam (19??)  – Hà Nội: NXB Cục lưu trữ nhà nước, 1989

Thiên Hồ Đế Hồ (19??)  – Hà Nội: NXB Khoa học xã hội, 1978

Khuyến quốc dân du học ca (19??)

Hải ngoại huyết thư (1906)

Dĩ cửu niên lai sở trì chủ nghĩa (19??)

Hà thành liệt sĩ ca (19??)

Truyện Lê Thái Tổ (19??)

Tuồng Trưng nữ vương (19??)

Gia huấn ca (19??)

Giác quần thư (19??)

Nam quốc dân tu tri (19??)

Nữ quốc dân tu tri (19??)

Truyện Chân tướng quân (1917)

Truyện tái sinh sinh (19??)

Truyện Phạm Hồng Thái (19??)

Tác phẩm biên khảo, thi ca

Kí niệm lục (19??)

Vấn đề phụ nữ (19??)

Luận lí vấn đáp (19??)

Sào nam văn tập (19??)

Hậu Trần dật sử (19??) – Hà Nội: NXB Văn hóa-thông tin, 1996

Khổng Học Đăng (19??) – Houston, TX: NXB Xuân Thu, 1986

Phan Bội Châu Niên Biểu (19??) – Sài Gòn: Nhóm nghiên-cứu Sử Địa, 1971

Phan Bội Châu Toàn Tập (19??)  – Huế: NXB Thuận hóa: Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2001

Trùng Quang Tâm Sử (19??) Hà Nội: NXB Văn học, 1971.

Vietquoc.org’s Admin

 (nguồn: vietquoc.org)