Anh Trần Văn Bá sinh ngày 14 tháng 5 năm 1945 tại Sa Đéc. Là người con út trong số 3 người con của Cố Dân Biểu Trần Văn Văn, một khuôn mặt lỗi lạc Miền Nam trong suốt 2 nền Cộng Hòa. Ông Văn đã từng tham gia chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945 và đã từng giữ chức tổng trưởng Kinh Tế và Kế Hoạch trong chính phủ độc lập đầu tiên của Việt Nam năm 1949. Ông Trần Văn Văn đã bị CS ám sát ngày 7 tháng 12 năm 1966 tại Sàigòn.
Sau đám tang của cha, anh Bá sang Pháp du học vào tháng Giêng năm 1967. Anh tốt nghiệp Cao học kinh tế, nghiêng về Chính trị Kinh doanh năm 1971 và làm trợ giảng tại Đại học Nantes (Nanterre), và từng là chủ tịch của Tổng hội Sinh viên Việt Nam tại Paris từ năm 1973 đến 1980.
Năm 1972 anh dẫn đầu một phái đoàn sinh viên Việt Nam tại Châu Âu trở về thăm viếng và ủy lạo chiến sỹ Việt Nam Cộng hòa để tạo sự thông cảm giữa những sinh viên du học và quân cán chính của Việt Nam Cộng hòa trong chương trình “Nối Vòng Tay Lớn”.
Ngay từ lúc đặt chân đến Pháp, anh TV Bá đã quyết định dồn hết tâm trí để tìm một giải đáp cho thảm trạng của đất nước. Khi đi đến kết luận là sự tồn vong và tương lai của dân tộc chỉ có thể được bảo đảm trong một nước Việt Nam độc lập, dân chủ, tự do, tiến bộ, và mục tiêu này chỉ co thể được hoàn thành từ một nền Cộng Hòa miền Nam vững mạnh và tự do. Anh đã tự vạch ra cho mình một hướng đi và đã tự học hỏi, rèn luyện cho mình một khả năng và một phương thức hành động.
Anh Trần Văn Bá đắc cử chức chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Quốc Gia tại Pháp năm 1972. Anh đã hoạt động hăng say và tận tụy để xây dưng một lực lượng Sinh Viên Quốc Gia thật hùng mạnh tại Châu Âu. Anh đã dẫn phái đoàn SV du học trở về thăm quê hương vào những tháng hè năm 73 – 74 trong chương trình “Nối Vòng Tay Lớn”, đã tổ chức cuộc xuống đường rầm rộ để ủng hộ Miền Nam và các chiến sĩ VNCH vào ngày 27 tháng 4 năm 1975, ba ngày trước khi Sài Gòn thất thủ.
Khi miền Nam sụp đổ, anh TV Bá đã xác định chánh nghĩa quốc gia và tổ chức đêm hội Tết Bính Thìn 1976 với chủ đề “Ta Còn Sống Đây”, giương cao ngọn cờ vàng Quốc Gia, hát lớn bài “ Hồn Tử Sĩ”, trước hơn 2000 khán giả xúc động đến ứa lệ. Anh kêu gọi mọi người tham dự hãy tiếp tục tranh đấu cho một nước Việt Nam tự do, dân chủ, chống lại chế độ độc tài cộng sản. Một ngọn lửa đối kháng đã được đốt lên từ đêm hôm đó.
Lớp trẻ SV Quốc Gia tại Âu Châu vào năm 75, trở thành côi cút, không Tổ Quốc, không đàn anh, mất đường về… Tuy vậy, họ chưa bao giờ tuyệt vọng : Trần Văn Bá đã cùng nhóm SV QG kiên trì tiếp tục con đường đấu tranh cho Chính Nghĩa, cho một Miền Nam không cộng sản.
Anh Trần Văn Bá đã trở thành linh hồn của Lớp Trẻ Tỵ Nạn.
Thôi thúc bởi thảm cảnh của đồng bào lênh đênh trên biển Đông hay ngoi ngóp trong các trại tỵ nạn, cảnh ngộ của dân quân miền Nam bị đày ải, hành hạ trong các trại gọi là “cải tạo” hay ở các vùng “kinh tế mới”; thảm họa của cả một thế hệ thanh niên bị đem làm vật tế thần cho cuộc bành trướng quân sự điên rồ qua Kam Pu Chia; anh TV Bá quyết định rời kinh thành ánh sáng Ba Lê ngày 6 tháng 6 năm 1980 để trở về chiến đấu trong lòng quê hương.
Nhận định rằng mặt trận chính là ở trong nước nên anh cùng các tín đồ đạo Cao Đài và đạo Hoà Hảo đã thành lập Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam và âm thầm xâm nhập vào Việt Nam.
Trong một lần chuyển vũ khí bằng đường biển vào nội địa, do nội gián, anh bị bắt ngày 9 tháng 9 năm 1984 với số lượng lớn vũ khí và tiền bạc. Anh bị đưa ra trước cái gọi là Tòa Án Nhân Dân tại trụ sở cũ của Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa ở Sài Gòn, ngày 14 tháng 12 năm 1984, cùng với 20 đồng đội. Tòa Án cộng sản tuyên án tử hình anh Trần Văn Bá cùng với 4 bạn đồng hành.
Vào ngày 08 tháng 1 năm 1985, tà quyền CSVN đã mang anh Trần Văn Bá ra hành quyết cùng với các ông Hồ Thái Bạch, tín đồ Cao Đài và Lê Quốc Quân, tín đồ Hòa Hảo .
Anh Trần Văn Bá được vinh danh như một chiến sĩ tự do, một nhà ái quốc, một tấm gương tranh đấu cho dân chủ : hai tấm bảng tưởng niệm Trần Văn Bá được đặt nơi công cộng ở thành phố Liège, Bỉ quốc; một con đường được đặt tên Trần Văn Bá ở trung tâm sinh hoạt của người Việt, Eden Center, tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ; Huân chương Tự Do Truman-Reagan 2007 được truy tặng cho Trần Văn Bá.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_dep…009134331.html
Anh hùng Trần Văn Bá được trao huân chương Tự Do Truman-Reagan
Ông Trần Văn Bá, sinh năm 1945 tại miền nam Việt Nam, thứ nam của cố dân biểu Trần Văn Văn, từng là chủ tịch của tổng hội sinh viên Việt Nam tại Paris. Ông sang Pháp du học trong thập niên 1970. Năm 1972 ông dẫn đầu một phái đoàn sinh viên Việt Nam tại Châu Âu trở về thăm viếng và ủy lạo chiến sỹ Việt Nam Cộng Hòa cùng tạo sự thông cảm giữa những sinh viên du học và quân cán chính của Việt Nam Cộng Hòa trong chương trình Nối Vòng Tay Lớn để chuẩn bị cho ngày về phục vụ đất nước. Sau biến cố 1975, ông vẫn tiếp tục tranh đấu chống cộng sản tại Châu Âu.
Sau nhiều năm chuẩn bị, năm 1980 ông âm thầm trở về nước để bí mật tranh đấu giành lại tự do. Năm 1984, sau nhiều lần xâm nhập Việt Nam, ông và một số phục quốc quân đã bị bắt tại làng Minh Hải, Cà Mau. Đến tháng 12 năm 1984, một phiên tòa được nhà nước cộng sản dàn dựng xử ông và các bạn đồng chí hướng về tội ‘phản quốc’.
Ông đã hiên ngang không ký tên nhận tội, không cần ân xá. Ngày 8 tháng Giêng năm 1985, ông đã bị nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam hành quyết, hưởng dương 40 tuổi.
Tại Liege, nước Bỉ, đã có một mộ bia tưởng niệm dành cho ông, và ở thành phố Falls Church, bang Virginia, cũng có một con đường mang tên ông.
Thân nhân ông Trần Văn Bá đã được thông báo và được mời đến nhận huân chương cao quí này trong buổi lễ được tổ chức tại đại sứ quán Hungary ở thủ đô Washington vào chiều ngày 15 tháng 11.
Trong số những nhân vật tên tuổi từng được trao huân chương Tự Do Truman-Reagan có các ông Vasclav Havel, Lech Walesa, thượng nghị sỹ Hoa Kỳ Joseph Lieberman và Ðức giáo hoàng Gioan Phao Lồ đệ nhị.
http://www.voatiengviet.com/content/…32/834149.html
Các bài liên quan :
Sinh năm 1945 ở Sa Đéc, ông Trần Văn Bá nổi tiếng trong phong trào Việt Kiều và sinh viên tại Pháp.
Làm Chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Quốc Gia tại Pháp năm 1972, ông Bá đại diện cho phái quốc gia, chống lại phe Việt Kiều thân miền Bắc và phản chiến. Dù trước 1975, ông Bá đã dẫn đầu các đoàn sinh viên Việt Nam phe quốc gia về ủng hộ cho Việt Nam Cộng Hòa, nhưng việc rời Pháp về hoạt động chống chính quyền sau chiến tranh vẫn gây tiếng vang lớn trong giới quan tâm.
Ông được tuyên dương trong lễ kỷ niệm Giải thưởng Tự Do Truman-Reagan (Truman-Reagan Medal of Freedom Award) cho những người đã từng nêu những tấm gương kiên cường chống lại chủ nghĩa cộng sản hồi 2007 tại Đại sứ quán Hungary ở Hoa Kỳ.
Cùng được huy chương với ông Bá, mà người đại diện là anh trai Trần Văn Tòng đến nhận, còn có Dân biểu Hoa Kỳ Dana Rohrabacher và tiến sĩ János Horváth, dân biểu quốc hội Hungary.
Bia tưởng niệm ông Bá có ở Liege, Bỉ và một phố ở Falls Church, tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ có mang tên ông.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/viet…ong_free.shtml
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/viet…spokeman.shtml
Lễ trao huân chương Truman-Reagan
Một tử tù Việt Nam đã bị nhà cầm quyền cộng sản hành quyết năm 1985 là ông Trần Văn Bá được trao huân chương tự do Truman-Reagan (Truman-Reagan Medal of Freedom).
Huân chương lấy tên hai vị tổng thống Hoa Kỳ là Reagan và Truman để dành cho những nhân vật trên thế giới có thành tích suốt đời đấu tranh cho lý tưởng tự do và đối đầu với các chế độ độc tài.
Lễ trao huân chương là một trong những nghi thức hàng năm của quỹ tưởng niệm nạn nhân cộng sản tại Washington DC mà tổng thống Bush là chủ tịch danh dự. Năm nay, lễ được tổ chức tại tòa đại sứ Hungary.
Ba nhân vật được bầu chọn đó là dân biểu đảng Cộng hòa, Dana Rohrabacher, tiến sĩ Janos Horvath của Hungary, và ông Trần Văn Bá.
Dân biểu Rohrabacher của bang California là một người đã góp nhiều công sức trong việc hoàn thành tượng đài tưởng niệm nạn nhân cộng sản tại Washington DC gần đây.
Ngoài thành tích này, ông là một trong những tiếng nói tâm huyết và mạnh mẽ nhất trong quốc hội Hoa Kỳ về những vấn đề nhân quyền ở Việt Nam và Trung Quốc.
Còn Janos Horvath là một trong những nhà đấu tranh với cộng sản vào cuối thập niên 40 và là lãnh đạo trong cuộc cách mạng 1956 tại Hungary.
Cuộc đời đầy sóng gió của ông từ chính khách vào năm 1945 tới lưu vong 1956 và sự trở về vào năm 1998 đã để lại nhiều cảm khái cho dân tộc Hungary sau cuộc cách mạng Đông Âu.
Trần Văn Bá
Ngày 08 tháng 01 năm 1985 ông Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch bị chế độ cộng sản VN hành quyết.
Ông Tòng cho biết gia đình muốn xin lại hài cốt của ông Trần Văn Bá
Trước đó ngày 14 tháng 12 năm 1984 Việt Nam đã đem ra xử 21 người thuộc Mặt Trận Thống Nhất các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam. Những người này đã bị bắt trong nhiều đợt từ 1981 đến 1984.
Anh ruột của ông Trần Văn Bá là tiến sĩ Trần Văn Tòng đến từ Paris để thay mặt người đã khuất nhận huân chương và nói lời cảm tạ.
Ông Trần Văn Tòng xúc động khi nhắc đến cuộc đời ngắn ngủi và đầy bi tráng của người em mình.
Theo lời ông Trần Văn Tòng cho đến giờ này tuy đã có nhiều yêu cầu nhưng nhà cầm quyền Việt Nam vẫn từ chối với lý do là họ không có thể lệ trả thi hài tử tội cho gia đình.
Tham dự viên gốc Á tại buổi lễ trao huân chương phần đông là người Việt Nam.
Trong sự cảm động của người thân, những người bạn của Trần Văn Bá và những đồng hương Việt Nam hải ngoại, giữa không gian này là sự tương phản giữa sống chết, bi tráng, tự do và lao tù – khác với mọi người, tấm huân chương tự do dành cho Trần Văn Bá có lẽ như là lời tưởng niệm.
Hoài niệm
Tiến sĩ Horvath trả lời truyền hình Hungary
Tiến sĩ Janos Horvath cũng đã từng bị kết án tử hình vào năm 1956 và may mắn thay ông đã trốn thoát ngay lúc mọi người đang bấn loạn vì đạo quân Xô Viết đang tiến vào.
Không khí bài xích chủ nghĩa cộng sản của liên bang Xô Viết hiện diện rõ trong tòa đại sứ Hungary.
Các bức bích hoạ, các cuốn phim tài liệu chiếu ở bên ngoài đều nói lên điều đó.
Các quan chức sứ quán biểu lộ tình cảm thật chân thành khi nói về cố tổng thống Mỹ Ronald Reagan có sức ảnh hưởng với đất nước Hungary như thế nào.
Họ nói rằnh chính tổng thống Reagan là niềm khích lệ cho những nhân vật tranh đấu trong nước có được điểm tựa tinh thần nhằm thoát ra khỏi ảnh hưởng của liên bang Xô Viết thời đó.
Ông Attila TÓTH sinh năm 1977 hiện là tham tán sứ quán về sự vụ nông nghiệp nói: ”Xã hội Hungary bây giờ hầu như đoạn tuyệt với di sản cộng sản tuy cũng còn một bộ phận người già vẫn có một chút hoài niệm nào đó mang chất lãng mạn. Những người trẻ tuổi như tôi đã vượt qua ký ức này một cách dứt khoát.”
Ông Harry Wu (giữa) đã mất tuổi trẻ của mình trong các nhà lao và trại cải tạo
Trong cuộc tiếp tân này còn đi kèm theo một sự kiện liên quan cuộc cách mạng 1956 mà người Hungary luôn coi trọng.
Đó là giải thưởng của phía Hungary dành cho ông Harry Wu, người Trung Quốc, vốn rất được dư luận Hungary coi trọng và cảm kích.
Vào thời quan hệ Trung Xô còn tốt, chỉ vì nói rằng đạo quân của Liên Xô vào đàn áp cuộc cách mạng của Hungary là hành động phi pháp mà ông Harry Wu bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 19 năm tù.
Ông xúc động cho cuộc đời ngắn ngủi của Trần Văn Bá. Khi hỏi về tương lai của cộng sản Trung Quốc ông Wu nói: ”Họ cố tạo sức mạnh bề ngoài để che đậy cái yếu kém ở bên trong. Một người Trung Quốc tỉnh táo thì không thể có niềm tin ở chủ nghĩa cộng sản.”
”Nếu không có niềm tin mà phải làm theo thì thực chất là xã hội Trung Quốc đang xây dựng trên cơ sở lòng người dối trá.”
Ngày 6 tháng 6 năm 1980, anh Trần Văn Bá, cựu giảng viên đại học bên Pháp, rơì thành phô´ Paris và khởi sự cuộc hành trình trở về quê hương để làm tròn bổn phận đối với đất nước, cùng những ngươì ở Việt Nam kháng chiến vơí cộng sản và hy sinh ở Việt Nam ngày 8 tháng 1 năm 1985, khi muôn´giải cưú ngươì dân miền Nam VN bị chèn ép, phải vượt biên ra đi (gần nữa triệu ngươì boat people chêt´ trên biển).
Ngày 08/01/1985, Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch bị chế độ cộng sản VN hành quyết. Tên tuổi cả 3 vị được ghi vào sử xanh của nước Việt hào hùng. Trần Văn Bá trở thành ngọn đuốc soi sáng con đường tranh đấu cho Tự Do của các thế hệ thanh niên Việt đi sau !
Ngày 14/12/1984, “Toà Án Nhân Dân Tối Cao” của chế độ cộng sản tại Việt Nam đã đem ra xử 21 người thuộc Mặt Trận Thống Nhất các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam. Những người này đã bị bắt trong nhiều đợt từ 1981 đến 1984.
Phiên toà diễn ra ở công trường Lam Sơn tai nhà hát lớn của thành phố Sài Gòn và được phóng thanh ra ngoài đường cho một công chúng đông đảo tụ tập lại theo dõi. Các hình ảnh của phiên xử được báo chí ngoại quốc phát ra làm chấn động dư luận thế giới và gây bàng hoàng trong các cộng đồng người Việt tại hải ngoại.
Sau vài ngày xử ngắn ngủi, từ 14 đến 18/12, với các luật sư do chính nhà cầm quyền chỉ định, toà án cộng sản đã tuyên án tử hình 5 người mà chúng nghĩ là chủ chốt :
- Mai Văn Hạnh
- Trần Văn Bá
- Lê Quốc Quân
- Huỳnh Vĩnh Sanh
- Hồ Thái Bạch
Tráng sĩ Kinh Kha Trần Văn Bá sinh ngày 14/05/1945 tại Sa Đéc, thân phụ là dân biểu VNCH Chống Cộng Quyết Liệt Trần Văn Văn (bị VC ám sát chết). Anh là chủ tịch tổng hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris 1972-1973.
Trong những ngày sau đó, tại khắp nơi trên thế giới, các cộng đồng người Việt cũng như chính giới ngoại quốc đã không ngừng đẩy mạnh những nỗ lực để yêu cầu nhà cầm quyền xét lại vụ xử và huỷ bỏ các bản án tử hình. Tại Paris, môi trường hoạt động tiên khởi của Trần Văn Bá, những cuộc biểu tình phản kháng Hà Nội và vận động cho các kháng chiến quân đã liên tục diễn ra trước sứ quán cộng sản cũng như tại nhiều điểm trong thành phố. Các báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình đưa ra nhiều bài bình luận chê bai chế độ cộng sản Việt Nam, chính giới Pháp và ở nhiều nước Âu Châu đã gởi điện văn can thiệp cho những người bị nạn.
Ngày 03/01/1985, niềm hy vọng của thế giới tự do được khởi sắc phần nào khi Hà Nội quyết định cải biến các bản án tử hiình của 2 ông Mai Văn Hạnh và Huỳnh Vĩnh Sanh thành án chung thân.
Thực ra cái được gọi là sự “khoan hồng” này chỉ nhằm mục đích làm giảm bớt áp lực của quốc tế để nhà cầm quyền tiếp tục dự án dã man đã sắp đặt sẵn.
Diễn tiến vụ án
Ngày 14/12/1984, Hai Mươi Mốt Kháng Chiến Quân thuộc Mặt Trận Thống Nhất các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam đã bị “Toà Án Nhân Dân Tối Cao” của chế độ cộng sản Hà Nội đem ra xử.
Phiên toà xảy ra tại Nhà Hát lớn Sài Gòn tức toà nhà Hạ Viện cũ của thời Việt Nam Cộng Hoà, một phần của cơ sở còn được biến thành khu vực triển lãm các “chiến lợi phẩm” tịch thu được từ các kháng chiến quân. Nhà cầm quyền còn cho phóng thanh diễn tiến vụ án tại công trường Lam Sơn và hàng ngàn người đã chen chúc nhau ngồi theo dõi.
Trong bản Cáo trạng đọc trước toà, công tố viên Trần Tế cho biết ngay từ đầu tháng 1/81, cơ quan an ninh cộng sản đã phát hiện một “tổ chức gián điệp” xâm nhập vào Việt Nam. Theo bản buộc tội, ông Lê Quốc Túy là chủ tịch của tổ chức, ông Mai Văn Hạnh là chủ tịch quốc ngoại, các ông Huỳnh Vĩnh Sanh và Hồ Tấn Khoa làm đồng chủ tịch quốc nội. Ông Trần Văn Bá được cử là tham mưu và ông Lê Quốc Quân phụ trách lực lượng vũ trang trong nước. Mặt khác, Trung quốc thì bị tố là đã tài trợ mạnh mẽ các hoạt động của “tổ chức gián điệp” và các lực lượng tình báo của Thái Lan và Hoa Kỳ cũng bị cho là đã hợp tác chặt chẽ vào “âm mưu phá hoại”. Tết 1983, lực lượng an ninh cộng sản đã bắt được Hồ Tấn Khoa, Võ Văn Nhơn, Nguyễn Ngọc Hoà thuộc tổ chức “Hoà Giải Quốc Tế” gần với Cao Đài giáo. Những người bị bắt bị nghi là thông đồng với các ông Túy Hạnh để “cướp chính quyền” ở một số tỉnh miền tây. Con trai ông Khoa là Hồ Thái Bạch sau đó thay thế cha trong chức vụ đồng chủ tịch.
Công tố viên cộng sản cho biết có 10 toán gián điệp đã được tung vào trong nước tính từ đầu năm 1981 đến tháng 9 năm 1984. Toán thứ nhất về bằng đường bộ từ tỉnh Trat ở Thái Lan qua Cam Bốt, khi đến Châu Đốc thì bị bắt. Toán này có nhiệm vụ liên lạc với lực lượng của Hoà Hảo để chiếm đóng vùng Bảy Núi. Toán thứ 10 về bằng đường biển hồi đầu tháng 09/1984 gồm 21 người trong đó có Mai Văn Hạnh, Trần Văn Bá. Toán này bị bắt ngay khi mới đổ bộ vào bờ biển. Tổng cộng, có tất cả 119 người đã bị bắt giam hoặc giết chết.Thiếu tá CA Nguyễn Tấn Dũng là người chỉ huy vây bắt vụ án này. Sau đó được phong làm đại tá Công An. Hiện nay là phó thủ tướng thường trực bạo quyền CSVN.
Ông Lê Quốc Túy đáng lẽ cũng đi cùng toán thứ 10 nhưng vì phải vào nhà thương ở Pháp để mổ gấp nên đã thoát nạn. Ngày 27/12/1984, ông tổ chức họp báo tại Paris với tư cách là uỷ viên đối ngoại của Mặt Trận Thống Nhất các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam. Theo nguyệt san Nhân Bản số tháng 01/01/1985 phát hành tại Paris, ông Túy xác nhận một số chiến sĩ của Mặt Trận đã bị bắt từ 1980. Một trận đánh lớn đã xảy ra tại Hà Tiên gây thiệt hại cho khoảng 120 cán binh Việt cộng. Không ai giúp Mặt Trận cho đến nay, việc Việt cộng cho rằng có Trung Hoa, Thái Lan hay Hoa Kỳ giúp là để phỉ báng cuộc cách mạng. Súng đạn do chính cán bộ cộng sản cung cấp hoặc bán lại. Trong số 21 người bị xử có 2 cựu cán bộ cộng sản. Mặt Trận không có căn cứ ở ngoại quốc, hoạt động ở Nam và Trung phần và tổ chức đí kháng tiêu cực, không tổ chức đánh lớn. Điểm duy nhất đúng trong bản Cáo trạng của cộng sản là Mặt Trận dự định tổ chức một vụ lớn và mạnh trong năm 1985. Vũ khí dùng để bảo vệ dân chúng, chất nổ nhằm tổ chức phá hoại tại Sài Gòn.
Ông Huỳnh Vĩnh Sanh vừa hô “Việt Nam Cộng Hoà Muôn Năm” …
Ngay từ phiên xử đầu tiên, nhà cầm quyền cộng sản đã cho thấy các bản án đã được sắp xếp sẵn. Sự hiện diện của các luật sư quốc doanh bên cạnh các bị cáo chỉ là một sắc thái cố hữu của các phiên toà trong các chế độ cộng sản trên khắp thế giới. Làm sao có thể tin tưởng các luật sư do chế độ chỉ định khi ngay từ đầu những người này đã chấp nhận lời cáo buộc các thân chủ của họ “phản bội lại tổ quốc”, “chống phá cách mạng” và cuộc biện hộ của họ chỉ xoay quanh việc xin nhà nước khoan hồng !
Trong các phiên xử, mỗi lần một bị cáo có toan tính đi ra ngoài những lời tự thú đã bị áp đặt trước là lập tức bị dàn áp. Ông Huỳnh Vĩnh Sanh vừa hô “Việt Nam Cộng Hoà muôn năm” liền bị một cán bộ cộng sản đưa tay bịt miệng, một cán bộ khác chạy tới còng tay lại ! Ông Hồ Thái Bạch bị công an dùng dùi cui đánh đập vì ông lên tiếng phản đối các bản án của toà án cộng sản.
Sau 4 ngày diễn ra vụ án bịp bợm, các bản án đã được tuyên đọc trong suốt 2 giờ đồng hồ :
Tử hình : Mai Văn Hạnh, Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Huỳnh Vĩnh Sanh, Hồ Thái Bạch.
Chung thân : Trần Nguyên Hùng, Tô Văn Hườn, Hoàng Đình My.?
Từ 8 đến 20 năm tù : số 13 kháng chiến quân còn lại.
Ghi chú : các hình trong trang này được lấy từ bán nguyệt san Hoa Thịnh Đốn Việt Báo số 1 đến 15/01/1985.
Danh sách 21 kháng chiến quân bị nạn :
1 – Mai Văn Hạnh
2 – Trần Văn Bá
3 – Lê Quốc Quân
4 – Huỳnh Vĩnh Sanh
5 – Hồ Thái Bạch
6 – Trần Nguyên Hùng
7 – Tô Văn Hườn
8 – Hoàng Đình Mỹ
9 – Thạch Sanh
10 – Nguyễn Văn Trạch
11 – Nguyễn Bình
12 – Nguyễn Văn Hậu
13 – Nhan Văn Lộc
14 – Lý Vinh
15 – Trần NGọc Ẩn
16 – Cai Văn Hùng
17 – Đặng Bá Lộc
18 – Thái Văn Dư
19 – Trần Văn Phương
20 – Nguyễn Phi Long
21 – Nguyễn Văn Cầm
TRẦN VĂN BÁ: “CON RỒNG LẠC LONG CỦA BIỂN ĐÔNG”! – NGUYỄN THIẾU NHẪN
Để tưởng niệm Trần Văn Bá: người anh hùng của dân tộc Việt Nam (8-1-1985 – 8-1-2012)
“Con rồng Lạc Long của Biển Đông đã u sầu câm nín Vì xác người làm bạc sóng kêu than”
(Thơ Dương Như Nguyện)
Trong cuộc chiến Việt Nam vừa qua, một trong những tờ báo mà người Việt Quốc Gia miền Nam hết sức căm ghét là tờ l’Express của Pháp. Trong cuộc chiến tranh tự vệ của quân dân miền Nam chống lại cuộc xâm lăng của Cộng sản miền bắc, tờ báo này đã gây ra không biết bao nhiêu thiệt hại cho phía những người Quốc Gia.Tờ báo này qua tay bỉnh bút thiên tả nặng ký Oliver Todd đã ra rả tung hô Hồ Chí Minh, đã bỏ công lặn lội vào các vùng do Cộng sản kiểm soát ở miền Nam và ca tụng, thần thánh hóa những cán binh Cộng Sản như những anh hùng của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.
Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau tháng Tư năm 1975, sự thật đã làm Oliver Todd mở mắt. Tháng 6-1978, tuần báo l’Epress đã đăng một bài mang tựa đề “Le Goulag Indochinois” (tạm dịch Đông Dương: Quần đảo Ngục Tù). Đây là một bài viết chứng minh sự phản tỉnh hoàn toàn của Oliver Todd.
Trong bài viết, ký giả phản tỉnh Oliver Todd đã nhắc tới một lời phát biểu của văn hào Nga lưu vong Solzhenitsyn. Trong cơn hấp hối của miền Nam, đoán trước sự chiến thắng của Cộng sản và những gì họ sẽ làm trong tương lai ở Việt Nam, ngày 11 tháng Tư năm 1975, văn hào người Nga này đã gửi đến thế giới một thông điệp vắn tắt: “Toàn thể nước Việt Nam sẽ trở thành một trại tập trung.” Lời tiên đoán này đã trở thành sự thật.
Tiếp theo đó, Oliver Todd còn viết nhiều bài vạch trần những mặt trái của xã hội Cộng sản mà bấy lâu nay được che lấp bởi hào quang và huyền thoại. Một trong những tác phẩm của Todd là quyển “Cruel Avril 1975: La Chute de Saigon” (tạm dịch Tháng Tư Đen 1975: Sự sụp đổ của Sàigòn) để tưởng niệm và tôn vinh một người Việt Nam mà ông đã có dịp gặp gỡ: Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Paris Trần Văn Bá.
Có lẽ mọi người còn nhớ, Trần Văn Bá là con của cố Dân biểu Trần Văn Văn, du học tại Pháp từ trước 1975 và giữ chức Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Việt Nam tại Paris. Trong những ngày cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Pháp lúc ấy làNguyễn Duy Quang đang chuẩn bị bàn giao Đại sứ quán VNCH tại Paris cho đại diện Ngoại giao của Cộng sản và không thiêu hủy các hồ sơ mật. Chính Trần Văn Bá đã cùng các sinh viên trong Tổng hội Sinh viên Việt Nam trèo lên tầng lầu chứa các hồ sơ và tiêu hủy các hồ sơ đó.
Ai đã từng theo dõi cuộc đấu tranh chống Cộng của người Việt tại Pháp trong giai đoạn 1975-1980 chắc hẳn không ai mà không biết Trần Văn Bá, một trong những người lãnh đạo chủ chốt.
Cùng với các ông Lê Quốc Túy, Mai Văn Hạnh (đồng Chủ tịch Mặt trận Thống nhất các Lực lượng Yêu nước Giải phóng Việt Nam), Trần Văn Bá trở thành một trong những bộ óc lãnh đạo của tổ chức kháng chiến này.
Ngày 6 tháng 6 năm 1980, sau năm năm chuẩn bị và trăn trở suy nghĩ, chán ngán các trò tranh đấu chống Cộng bằng những cuộc thảo luận tại những phòng khách sang trọng ở các thành phố, thủ đô Pháp, Mỹ, Trần Văn Bá bay sang Thái Lan. Dưới bí danh C.4 trong tổ chức, anh đã góp phần tuyển mộ, tổ chức, huấn luyện cho các chiến sĩ kháng chiến, chuẩn bị xâm nhập quốc nội.
Kỷ niệm hai năm ngày rời Paris, từ vùng hoạt động, anh gửi ra ngoài một lá thư, có đoạn viết:
“Tôi vẫn mạnh khoẻ. Thật là gay go và cực khổ. Nhưng tôi cảm thấy được sự liên đới mật thiết giữa tôi với quê hương nghèo khổ, bất hạnh và đói khát. Công cuộc giải phóng đất nước, chủ yếu sẽ là công trình của những người kháng chiến quốc nội, chứ không phải của các chính trị gia lưu vong.” (do tác giả bài này in đậm).
Trong những ngày anh còn ở Thái Lan, ông Trần Văn Tòng, anh ruột của anh (sau này là Chủ tịch Ủy ban Quốc tế Trần Văn Bá, trụ sở ở Paris) đã đến thăm và đã được anh tâm sự: “Quả thật là em đang làm cái chuyện đội đá vá trời.”
Và rồi, từ giã C.1 (bí danh của ông Lê Quốc Túy) anh cùng C.2 (bí danh của ông Mai Văn Hạnh) và một số chiến hữu khác mang vũ khí, đạn dược, phương tiện liên lạc xâm nhập quốc nội.
Sa cơ, anh và ông Mai Văn Hạnh cùng một số chiến hữu cùng xâm nhập và một số chiến hữu cơ sở quốc nội bị Cộng sản bắt.
Bạo quyền Hà Nội đã mở một phiên tòa hát bội, được quảng cáo rùm beng ngày 19-12-1984 tại Nhà hát Thành phố Sàigòn để xử anh cùng 21 chiến hữu khác trong tổ chức.
Phiên tòa này, thực chất chỉ là một cuộc trình diễn hình thức và đọc lên các phán quyết đã được định trước: 5 án tử hình dành cho các ông Mai Văn Hạnh, Trần Văn Bá, giáo sư Hồ Thái Bạch, Huỳnh Vĩnh Sanh vàLê Quốc Quân (em của ông Lê Quốc Túy).
Trước phiên tòa, Trần Văn Bá đã giữ trọn vẹn khí phách của một chiến sĩ Quốc Gia can trường. Mặc dù theo luật, các tử tội có thể xin ân xá, nhưng anh đã thẳng thừng từ chối.
Trong số những người từ bên ngoài xâm nhập Việt Nam để hoạt động, có hai người lãnh án tử hình là Trần Văn Bá và Mai Văn Hạnh. Ba người còn lại thuộc cơ sở quốc nội.
Trong những người này, chỉ có ông Mai Văn Hạnh là thoát khỏi mũi súng của đội hành quyết. Là công dân Pháp, ông được chính phủ Pháp tích cực can thiệp và đã được thả về Pháp sau nhiều năm tù. Trần Văn Bá và các chiến hữu khác đã lần lượt đền nợ nước trong năm 1985.
Trong phiên tòa, một cán bộ cao cấp của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, đóng vai trò công tố viên, đã lồng lộn quy kết cho Trần Văn Bá và các chiến hữu của anh những tội danh nặng nề nhất. Đồng thời cũng lên án các “thế lực phản động quốc tế, bọn bành trướng Bắc Kinh, quân phiệt Thái Lan” đã tiếp tay hỗ trợ cho Mặt trận Thống nhất các Lực lượng Yêu nước Giải phóng Việt Nam. Đặc biệt Hà Nội đã tố cáo đích danh Tình báo Lục quân Thái Lan do Tướng Yongchaiut, Tham mưu trưởng Lục quân Thái lan vào lúc đó chỉ huy đã tận tình giúp đỡ tổ chức này. Youngchaiut sau này trở thành Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Thái Lan và đã qua thăm Việt Nam.
Anh Trần Văn Bá đã chết. Hơn hai mươi năm đã trôi qua. Oliver Todd đã đặt câu hỏi:
“Cũng như những người kháng chiến vô danh khác, Trần Văn Bá là người của lý tưởng hay thực tế, can đảm hay mạo hiểm? Anh là một anh hùng gương mẫu hay là một kẻ tuẫn đạo vô ích? Cuộc đấu tranh mà anh Bá theo đuổi là một cái gì đó mơ hồ, tuyệt vọng hay một thách đố xứng đáng để chúng ta kính phục, thông cảm và ủng hộ?”
Đối với người Việt Nam chúng ta, có lẽ không cần thiết phải đặt ra một câu hỏi như vậy. Rõ ràng anh Trần Văn Bá là một người tranh đấu vừa lý tưởng vừa thực tế, can trường và dám mạo hiểm. Anh là một anh hùng gương mẫu và là một kẻ tuẫn đạo, và con đường anh đã theo đuổi, cuộc đấu tranh của anh là một thách đố hết sức xứng đáng để chúng ta kính phục và hết lòng biết ơn.
*
Trong 27 năm qua, đã có nhiều người làm thơ ca tụng anh hùng Trần Văn Bá.
Trong đó có bài thơ “TÔI CHƯA BIẾT MÀ ĐÃ GỌI TÊN ANH” của nhà văn Dương Như Nguyện, tác giả “Daughters of the River Hương”,theo tôi, là một bài thơ chắc chắn sẽ sống mãi với thời gian.
“Trần Văn Bá
Tôi chưa biết anh
Mà đã hình dung ra đứa bé trai chạy chơi ở Cù Lao Cát,
Đứa bé thích hội họa, thích máy bay, ở tuổi ngây thơ chắc đã mơ làm nên vũ trụ, như họa sĩ, như nhà phát minh cơ khí.
Ngày mẹ đặt vào nôi, đặt luôn tên anh là chính đạo.
Mộng bá vương là mộng giúp đời, như tùng bách trong rừng sâu,
Cô độc mà nghênh ngang,
Cao vời mà nhân đạo
Cương quyết trong ân cần.
Anh đó,
Nuôi dưỡng bằng đất bồi Cửu Long,
Tim đỏ thắm như bã trầu quê mẹ, sinh con trai lớn lên làm cách mạng, ôi cách mạng Thế Giới Thứ Ba nổi trôi hơn thân phận con người.
Thóc thơm,
Gạo trắng,
Gió hiền
Miền Nam phì nhiêu nắng ấm.
Mang vào đời anh chân thiện mỹ giữa hai lằn tư tưởng Đông Tây
Tư tưởng mở tung xích xiềng nhược tiểu, cởi trói lý thuyết vô bằng.
Anh không chỉ nói mà làm.
Anh chỉ làm, mà không cần nói.
Đứa bé trai lớn lên ở vựa lúa phương Đông, rồi đứng ở phương Tây,
Đọc sách mà trông về phương Đông, ửng một khối trùng trùng khí phách.
Khí như khí hiên ngang của loài cây không biết ngã
Phách như phách linh thiêng của rừng già không dấu chân người qua.
Tôi chưa hề biết tên anh
mà đã hình dung ra một thiếu niên có đường môi cong, mặc áo len trong trời thu Đà Lạt.
Tôi hình dung ra
phố thị cao nguyên khi tấp nập khi đìu hiu mà anh đã một lần đi qua, với đôi chân đùa nghịch của tuổi trẻ.
Trời Đà Lạt thấp sương mù, mang cái lạnh của Hoàng Triều Cương Thổ, anh đã mang mùa thu Đà Lạt vào đôi mắt hiền lương.
Đôi mắt của niềm tin chính đạo, của loài cây vương bá trong rừng già.
Khi sách vở bạn bè Yersin chưa nhận ra chân dung người đi tìm công lý trong cuộc đời,
thì trường lớp cao nguyên vẫn là hàng rào không hoa trái, cản chân anh trong khuôn khổ bình an.
Nhưng rồi
Bình an không còn nữa
Khuôn khổ xóa đi
Một lần
trong hoa lệ Sài Thành, trên vũng máu chính trị vô nhân,
giây phút cha anh nằm xuống,
là ngày vương đạo lên ngôi.
Vương đạo trong lòng bàn tay anh
Chỉ tay ngoằn ngoèo của những người luôn mơ tạo dựng lại vũ trụ,
Chỉ tay phức tạp mà an bài như định mệnh, cho cuộc đời đã trót đi theo đường đã vạch rồi.
Đường đã vạch rồi.
Tôi chưa hề biết anh
mà đã hình dung ra người thanh niên mặc áo sô trắng, chít khăn tang
khóc cha trong lòng dân tộc
Ôi trong lòng dân tộc…
Anh có hay chăng… một ngày
Cũng trong lòng dân tộc, anh bắt đầu cuộc hành trình
Để rồi
bên ngoài dân tộc.
Có tiếng khóc anh
Ở hành lang đại học
Ôi hành lang đại học
Là nơi giấc mộng của loài cây trong rừng già bắt đầu ươm trái
Cho anh và cho tôi.
Khi Phương Tây rộng mở, đón anh vào
vành môi cong thiếu niên đã đượm nét ưu tư,
Tim óc anh đã nhập vào vòng lịch sử.
Lịch sử oái oăm khi lá cờ đổ xuống, anh đã hăm hở dựng lên.
Lịch sử thách thức vương đạo trong lòng bàn tay anh,
Lịch sử réo gọi trái tim nuôi dưỡng bằng gạo trắng Cửu Long,
chảy vào Đông Hải.
Anh đã làm theo đường đã vạch rồi, trong khi bao người còn đứng nói.
Bao người nói cũng không thành một bước anh đi, một việc anh làm, theo đường đã vạch rồi.
Ôi đường đã vạch rồi…
Như Cửu Long đổ vào Đông Hải,
Định mệnh anh thành dòng huyết nhục cội nguồn tan biến vào ngàn khơi.
Tôi chưa hề biết anh
Mà hình dung ra những con đường mang dấu chân anh.
Từ bầu trời rực nắng của tháng 6 Paris mùa hè oi ả, khi âm nhạc đổ dồn vào phố xá tưng bừng.
Ai đó còn nghe tiếng kèn đồng của người nhạc sĩ vĩa hè…
Qua đến tháng 12, mưa tuyết Paris phủ trắng dòng sông Seine.
Đâu đây vọng tiếng hồ cầm trong giai điệu cuối cùng.
Còn văng vẳng tấu khúc không trọn vẹn của Schubert trước khi đêm xuống là đứt ngang giấc mộng.
Những nơi chốn anh đã nằm, ngồi, cười, nói, đã suy tư, đã uất nghẹn, từ Đà Lạt đến Paris.
Từ Paris quay lại những nẻo đường đất nước.
Anh đã trở về.
Ôi lục tỉnh lầm than, nơi bùn lầy nước đọng, con rồng Lạc Long của Biển Đông đã u sầu câm nín
Vì xác người làm bạc sóng kêu than.
Này đây biên giới
Này đây rừng nước với cù lao.
Này đây những người vất vưỡng trong nghèo đói, trong chính sách tiêu diệt hết một thế hệ phải buông súng, chịu cúi đầu.
Anh đã thấy, đã nhìn, và đã biết.
Đã chua xót đau lòng,
Đã bất nhẫn, đã buồn hiu.
Ngày một ngày hai.
Anh đội đá vá trời.
Dầm ưa, dãi nắng,
Giã từ nhung lụa,
Chối bỏ vinh thân,
Tất cả.
Đưa bàn chân anh tới,
Lót đường cho anh đi,
Đẩy anh về Cha,
Cho anh xa rời Mẹ.
Ôi đường vào dân tộc là túi mật của kẻ tử tù. Ôi Cửu Long, Cù Lao Cát, Đà Lạt, Sàigòn, Paris và Biên Giới.
Tuồng diễn trâng tráo nhà hát lớn, vách tường vô nhân, cay nghiệt nhà lao, và tiếng súng nổ sau cùng…
Tôi chưa hề biết anh
Nhưng đã nghe nhân loại kể chuyện những người không chịu chết, chỉ biết khuất phục trước hai sức mạnh: Tình Yêu và Tổ Quốc.
Trong anh, TìnhYêu chưa một lần đến,
Mà Tổ Quốc đã một lần đưa.
Tôi chưa hề biết anh
Nhưng đã khóc ngày anh nằm xuống.
Anh nằm xuống như cha già đã nằm xuống,
Anh nằm xuống cho mẹ già đứng bên cạnh biểu ngữ trước nhân loại, khi nước mắt xót thân con phải chảy ngược vào lòng.
Trên con đường Thiên Lý và Thiên Cổ
Bên vong linh những Thiên Tài không chịu chết…
Anh đã đi vàoThiên Thu.
Tôi chưa hề biết tên anh
Đứng chơ vơ bên này bờ đại dương,
tôi sẽ gọi tên anh cho tất cả những thiếu nữ có ánh mắt làn môi Gina Lolobrigida ngoài lòng đất nước,
con tim vẫn óng ánh đường gươm của rừng già Mê Linh,
nơi mà tùng bách ngàn đời còn đứng vững,
đôi môi son còn mang guốc mộc của rừng Thanh Hoá,
muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp làn sóng dữ, trên con đường anh đã đi qua,
Trong âm thầm.
Tôi sẽ gọi tên anh cho tất cả những nam nhân ở ngưỡng cửa đại học đường, mặc áo len, mang giấc mộng kinh bang tế thế,
Trên viền môi cong nghịch ngợm, nói tiếng Anh, tiếng Pháp, nhưng vẫn đánh vần chữ Việt,
Đôi mắt hiền lương đọc Camus, Steinbeck, nhưng trên diện mạo vẫn còn phảng phất vầng trán vuông và chiếc cằm vuông Nguyễn Thái Học…
Ngày xưa đã có người viết sử cho 13 người trai trẻ lên đoạn đầu đài…
Nay mai, ai sẽ là người viết sử do anh làm ra,
Nhánh thông non,
Cây cao rừng già
TRẦN VĂN BÁ
TRẦN VĂN BÁ
vì thế
Tôi chưa hề biết anh
Nhưng sẽ gọi tên anh
Những sáng tuyết trắng trời Tây.
Những trưa nắng khét sa mạc bên này biển,
Khi người nhạc sĩ blue jazz đã buông kèn đồng trong hầm rượu tối.
Khi tiếng réo rắt cuối cùng Hồ Cầm đã ngừng giai điệu.
Tôi sẽ gọi tên anh,
Trong trầm tư mộng mị
Trong thương nhớ u hoài,
Trong ánh nến lung linh tôi thắp trong lòng, ngọn nến không bao giờ tắt, cho riêng anh.
Tôi chưa hề biết anh
Nhưng đã gọi tên anh
TRẦN VĂN BÁ”.