SAU 30-4-1975: CỘNG SẢN HÀ NỘI ĐÃ “TRUY CÙNG DIỆT TẬN” DÂN QUÂN CÁN CHÍNH VNCH (Hàn Giang Trần Lệ Tuyền)

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

Có lẽ đa số người Việt Nam đều biết: Sau ngày Quốc Hận 30/4/1975, đối với bạo quyền Cộng sản Hà Nội, thì tất cả Dân-Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa đều là “thành phần nguy hiểm”. Vì thế, đảng Cộng sản đã không từ bất cứ một thủ đoạn tàn ác nào, để phải loại trừ, nên Hà Nội cần phải truy cùng, giết tận, để cho tất cả con dân của nước Việt Nam Cộng Hòa không thể có một cơ hội để khôi phục Quốc Gia.

“Chính sách” đầu tiên là bỏ tù tất cả các vị Quân-Cán-Chính, có tinh thần chống Cộng. Có vị đã ở trong các nhà tù “cải tạo” của Việt cộng trên dưới mười năm, hai mươi năm!

Trong suốt những năm tháng dài trong các nhà tù của bạo quyền Cộng sản, tù nhân “cải tạo” đã bị hành hạ, đọa đày bằng những cực hình vô cùng tàn độc, dã man, từ lao động khổ sai, bắn chết, đánh đập, cùm kẹp tay chân, đói khát, lạnh lẽo, không cho ăn no, mỗi ngày chỉ “được” phát khoai, sắn, bo bo, một chút muối lẫn với đất cát với mùi tanh của cá biển.

Cho đến hơn mười năm sau, trong lúc bị Chính phủ Mỹ “cấm vận” thì người Việt ở Mỹ cũng như nhiều nước khác, không được gửi tiền về nước cho thân nhân, mà phải gửi những thùng quà bằng vải vóc và thuốc Tây, được đóng thùng tại nước Pháp, có đánh số cho từng thùng cho những loại thuốc nào, giá tiền bao nhiêu, để gửi về gia đình ở Việt Nam. Mặc dù khi gửi, thân nhân đã trả cước phí tại Bưu Điện, nhưng khi nhận quà tại Việt Nam, thì thân nhân phải đóng thuế theo “giá trị” của những thùng “hàng”.

Điêu đứng trước chính sách “cấm vận”, chế độ Cộng sản Hà Nội đã cận kề sự sụp đổ, thì có sự “can thiệp” của Chính phủ Mỹ, muốn nhận các cựu tù Chính trị Việt Nam Cộng Hòa, thì bạo quyền Hà Nội đã “chụp lấy” cơ hội này, để đạt được những điều mong muốn:

Thứ nhất, Việt cộng thừa biết, dẫu có bỏ tù, hành hạ các cựu tù Chính trị Việt Nam Cộng Hòa 10 năm, 20 năm, hay hơn nữa, thì chỉ trừ các vị bị chúng giết chết, nhưng các vị còn sống chúng không thể “cải tạo” được tinh thần chống Cộng sản và Lý tưởng Quốc Gia của các vị trong hơn hai mươi năm sống dưới Thể chế Việt Nam Cộng Hòa, đã cùng đối diện với tử sinh, để chiến đấu chống Quân Thù Xâm Lăng: Cộng sản Bắc Việt.

Các vị là những người đã xuất thân từ những ngôi học đường Quân Sự, Hành Chánh Quốc Gia. Họ không dễ gì khuất phục trước quân Xâm Lăng, cướp nước!

Đây là cơ hội ngàn vàng, để “tống khứ” hết những vị cựu tù “cải tạo” ra khỏi nước, để không còn là những “mối lo – mối họa” cho bạo quyền Cộng sản. Thời điểm ấy, các vị cựu tù; đặc biệt là các vị Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam dù mới ra tù, nhưng tuổi còn tương đối trẻ, chưa phai nhạt những cuộc hành quân do chính mình là cấp Chỉ huy trong cơn khói lửa mịt mùng, sinh tử trên các trận địa với quân giặc thù Xâm Lăng. Và những người Lính thuộc quyền vẫn còn đó. Bạo quyền Hà Nội vẫn lo sợ các vị có thể “tái chiêu mộ binh sĩ” đứng lên đánh đổ bạo quyền!

Chính vì thế, Cộng sản Hà Nội đã chấp nhận để cho các vị cựu tù “cải tạo” cùng gia đình được ra đi sang nước Mỹ, không phải chỉ để hổ phải lìa rừng, mà còn được chính phủ Mỹ “bỏ cấm vận”, và ban cho “Tối Huệ Quốc”. Nhờ đó, mà bạo quyền Cộng sản vượt qua cơn khốn khó, để chúng có được ngày hôm nay, để cùng nhau bán nước, buôn dân, chia chác tài nguyên của đất nước, để sống trên giàu sang nhung gấm tột đỉnh, trên sự đói rách lầm than của đa số người dân Việt.

Nhưng không riêng các Cựu Tù Nhân Chính Trị, mà bạo quyền Cộng sản còn sợ cả các vị Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa, mặc dù các vị đã tàn phế. Bởi vậy, Việt cộng đã tìm mọi cách, để giải tán, xua đuổi các Thương Phế Binh, không cho các vị đến với nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, Sài Gòn, để được sự giúp đỡ, và hội ngộ cùng nhau. Người viết có suy nghĩ, chắc không sai rằng, ngày nay, nếu chính phủ Mỹ vẫn tiếp nhận cho các vị Thương Phế Binh được sang nước Mỹ, thì Việt cộng cũng sẽ vui mừng mà cho đi ra khỏi nước, để xóa hết (nhưng không bao giờ xóa được) những hình ảnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, để khỏi thấy những hình ảnh như trong video này:

Chính vì thế, mà trước đây, các cựu tù “cải tạo” không còn con đường nào khác, là phải ra đi, vì không sống được với Cộng sản, vì “chính sách” truy cùng, diệt tận!

 Tại Thành phố Đà Nẵng, các vị cựu tù “cải tạo”, Công an Cộng sản đã bắt buộc những người thuộc “Thành phần nguy hiểm” phải “chấp hành lệnh quản chế” không được đi ra khỏi Thành phố, hàng tuần phải “trình diện” ở Phường, con cái dù có học giỏi đến đâu cũng không được vào Đại học, vì “Lý lịch Ngụy quân, Ngụy quyền”, không có việc làm… Nghĩa là các vị phải ra đi, để tự cứu mình và gia đình, nếu không, sẽ bị Cộng sản truy cùng, diệt tận!

Tuy nhiên, không phải các vị ra khỏi nước rồi, mà được yên ổn, vì nhiều vị vẫn còn có con cái lớn tuổi, đã có gia đình, bị kẹt lại ở Việt Nam. Hà Nội vẫn thấy con cái của họ cũng là “mối lợi” cho bạo quyền, vì ít nhất, các vị này phải gửi tiền về giúp đỡ con cháu, hoặc giúp con cái mở ra những “hãng xưởng” làm ăn. Có vị vì thương nhớ con cháu đã phải về thăm. Có vị đi và về thường xuyên, mà đã về thăm con cháu rồi, khi trở ra hải ngoại, lại khó có thể mạnh mẽ chống Cộng sản, vì sợ ảnh hưởng đến công việc làm ăn của con cháu. Lại còn có những cháu nội ngoại của họ bị Cộng sản “trồng người”, nên đã lấy vợ, lấy chồng là đảng viên Cộng sản! Những người này, dù ở Mỹ, vẫn thường “ở ẩn” không lên tiếng chống Cộng sản, không tham dự các cuộc biểu tình chống Cộng sản!

Nhưng không riêng ở Mỹ, mà ở các nước Châu Âu, cũng vẫn có một số người như vậy. Họ là những người đã di tản trên Tầu Trường Xuân vào ngày 30/4/1975, hoặc đã vượt biên, vượt biển sau đó. Có người cũng từng ở tù “cải tạo”. Họ ra đi một mình, hay cả vợ chồng, vì không đủ vàng để đóng cho chủ tàu, vợ hoặc con thì kẹt lại. Họ cũng giống nhu những cựu tù “cải tạo” ở Mỹ, nên có một thiểu số, thường hay đi về Việt Nam, nhưng khi trở ra, cũng thường xuyên đi biểu tình “chống Cộng”. Không biết họ có “chống Cộng” hay không?

Bạo quyền Hà Nội cũng truy cùng, diệt tận đối với người dân lương thiện của nước Việt Nam Cộng Hòa

Đây là những người mà bạo quyền Cộng sản gọi là “Thành phần tư sản, mại bản”, tuy họ chỉ có một căn nhà khang trang do mồ hôi, nước mắt của họ xây dựng; Nhưng Cộng sản đã dùng hai chữ “trưng dụng” nghĩa là chiếm đoạt nhà cửa, và ngang nhiên dọn vào “làm chủ”.

Cướp nhà xong, Việt cộng còn dùng bạo lực bắt buộc gia đình của họ phải đi “vùng kinh tế mới”. 

“Kinh tế mới” là cái mỹ từ do đảng Cộng sản đã đặt để ra, cũng như cái mỹ từ “Học tâp cải tạo” vậy. Thực chất, đây là những vùng đất ở những nơi rừng thiêng, nước độc, không người lui tới, để lưu đày tất cả các gia đình “ngụy dân”. Những vùng “kinh tế mới” toàn là rừng núi hoang vu, đất đá khô cằn, trồng sắn, sắn chết, trồng khoai, khoai khô… không một loại ngũ cốc nào sống được.

Chính vì vậy, sau những tháng năm phải dùng những bàn tay, mà một số người, trước kia vốn chỉ quen với phấn trắng, bảng đen. Họ là các thầy cô giáo đã phải đến nơi rừng thiêng, nước độc này, vì họ không có “lý lịch cách mạng”. Họ không chấp nhận phải “đi học khóa chính trị, dạy học theo đường lối cách mạng”.

Sau khi đến vùng đất này, họ lâm vào những căn bệnh sốt rét rừng… có rất nhiều người đã chết ngay trên vùng “kinh tế mới”, vì không có thuốc men, không có nơi chữa bệnh. Và những giọt nước mắt của họ đã rơi trên những thi thể của con em của mình đã chết vì bệnh tật, đói, lạnh và kiệt sức. Họ cũng đã nhỏ máu mười đầu ngón tay, vì phải vạch gai rừng, đào huyệt mộ trên vùng đất đá, để chôn xác người thân, và cũng không có quan tài, chỉ bó chiếu mà thôi!

Với những thảm cảnh như thế, nên sau những ngày tháng đối diện với đói rách, họ phải rời bỏ “vùng kinh tế mới” để quay trở về nơi đã từng có căn nhà cũ của họ; nhưng nhà cũ của họ đã bị đảng viên Cộng sản chiếm đoạt, nên gia đình con cái của họ đành phải sống ở nhà Ga, bến xe. Đêm đêm gối đất nằm sương, hàng ngày người lớn đi gánh nước thuê, xách hàng thuê, còn con nhỏ phải đi “bán nước”. “Bán nước” là tay cầm một ấm nước trà, tay cầm chiếc ly, mời gọi người đi đường uống giúp ly nước, để kiếm chút tiền mua gạo.

Người viết đã biết nhiều vụ cướp nhà, cướp của, truy bức người dân đến cùng đường của lương dân tại Đà Nẵng; nhưng trong phạm vi bài này, nên không thể kể hết cảnh ngộ của từng gia đình.

Riêng một số vị là vị Quân-Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa; sau khi ra tù, vào cuối thập niên 1980. Thời gian này, họ không biết chính phủ Mỹ, có chương trình nhận những người thuộc thành phần cựu tù “cải tạo”, mà họ còn bị Việt cộng buộc phải “chấp hành lệnh quản chế”, nếu muốn đi đâu, phải làm “Đơn xin tạm vắng”, phải cho biết đi đến đâu, ở nhà ai. Rồi sau khi đến nơi, phải có “Đơn xin tạm trú”. Và các vị ra tù, trong tay chỉ có hai tờ giấy, là cái “Lệnh phóng thích” là cái “Giấy ra trại”. Họ có “lý lịch ngụy quân-ngụy quyền” thì đến đâu họ cũng bị xem là “thành phần nguy hiểm”, ngay người thân, là anh em ruột thịt, cũng bị Công an Việt cộng ra lệnh cho gia chủ “không được chứa chấp thành phần nguy hiểm”.

Người viết đã biết nhiều hoàn cảnh bi thương, riêng tại thành phố Đà Nẵng, vì không thể viết hết, nên chỉ xin kể ra một trường hợp, mà đa số các vị Cựu Tù Nhân Chính Trị tại “Trại I, tức Trại chính Trại cải tạo” Tiên Lãnh, có mặt ở trong tù trong thời điểm xảy ra sự việc đã biết như sau:

Trước 30/04/1975, tại Đà Nẵng, có nhiều rạp Ciné như: Rạp Trưng Vương, Kim Châu, Kinh Đô, Lido, Chợ Cồn… nhưng riêng rạp Ciné Kim, ở đường Phan Đình Phùng, mới được hoàn thành sau này, khoảng năm 1971, là rạp hạng sang, ba tầng, “tối tân” nhất, vì rạp có ghế bọc nhung đỏ, có máy lạnh, cách trang trí đẹp, lại có mấy hàng ghế sau cùng, là những chiếc ghế chỉ có hai người ngồi, nên được nhiều người thích đến xem hơn.

Chủ của Ciné Kim (tên của rạp được đắp nổi là Ciné Kim, không có chữ “rạp”) là ông Nguyễn Đăng Hưng. Sau ngày 30/04/1975, Việt cộng buộc ông Hưng phải “đóng thuế siêu ngạch”. Nghĩa là tính thuế kể từ khi Ciné Kim mới bắt đầu khai trương chiếu phim. Tôi không nhớ chính xác số tiền “phải đóng thuế”, nhưng vì đây là “vụ án” nổi tiếng, nên tôi và người dân Đà Nẵng có biết là “ba trăm triệu” (tính theo tiền Việt Nam Cộng Hòa).

Ông Hưng là người Thành phố, không biết gì về Cộng sản, ông lầm tưởng là cứ nộp đủ số tiền này rồi, thì sẽ được công khai mở cửa rạp, chiếu phim như trước, nên ông gom đủ số tiền, đem “nộp thuế” cho Việt cộng.

Thế nhưng, sau khi nộp đủ tiền, thì Công an Đà Nẵng đã đến niêm phong rạp Ciné Kim, và nói là “tài sản của tư sản mại bản nên nhà nước phải trưng thu”.

Lúc này, ông Nguyễn Đăng Hưng, có “kêu trời” cũng không thấu, nhưng vì quá uất ức, nên ông “chống” Công an bằng những lời nói, mà bị Việt cộng kết thêm thành “tội” là “thành phần tư bản mại bản phản động”.

Sau đó, “Ty Công an Đà Nẵng” đã bắt giam, rồi đưa lên “Trại cải tạo” Tiên Lãnh. Khi “nhập trại” ông Hưng càng uất ức, đau đớn hơn, lại buộc phải đi lao động khổ sai, ra đồng làm ruộng, làm tất cả những cộng như tất cả các vị Cựu Tù Nhân Chính Trị.

Một hôm, có lẽ quá sức chịu đựng, nên khi đốn củi, ông đã dùng cây rựa để tự cắt cổ mình. Đến nước này, thì quý vị đồng tù đã ra sức can ngăn, khuyên giải, nói với ông: “Ông đã mất Ciné Kim, mất tiền, bây giờ không được mất mạng, không được chết. Ông phải sống!”

Cuối cùng, ông Hưng đã hiểu, đành phải ở tù và lao động khổ sai như các vị đồng cảnh ngộ, cho đến ngày được ra tù. Ông ra tù trước tôi. Sau này, khi tôi về Đà Nẵng, thì được nhiều người nói với nhau, trong đó có tôi:

 

 “Ông Hưng Ciné Kim đã vượt biển, và tới Mỹ rồi!”

Quả đúng như vậy, ông Nguyễn Đăng Hưng đã vượt biển, và tỵ nạn Cộng sản ở miền Nam California.

Một lần nữa, người viết xin chúc mừng ông. Cám ơn những tấm “Carte” tức “Giấy mời” xem phim của ông tặng cho mình. Người viết vẫn nhớ, trên “Giấy mời xem phim” của ông chủ Ciné Kim, mỗi lần đi xem phim, được phép cho hai người vào rạp. Ngày ấy, có khi bận không đi, thì người viết lại trao “Giấy mời” cho cô em kết nghĩa, để cô này muốn đi với ai tùy ý.

Trên đây, là trường hợp của ông Nguyễn Đăng Hưng, chủ Ciné Kim, cũng như bao nạn nhân của bạo quyền Cộng sản. Đến lúc, họ tự biết, họ đang bị truy bức đến đường cùng, nếu muốn gia đình được sống, thì chỉ có một giải pháp duy nhất, là vượt biên, vượt biển, mới thoát khỏi bàn tay tàn ác của Cộng sản, nhưng họ không có tiền, vàng cho đủ để đóng cho chủ tàu, thuyền để được ra đi.

Đứng trước hoàn cảnh sống, chết này, họ phải đi vay mượn của người thân-thích đôi bên, với lời hứa ra hải ngoại sẽ gửi tiền về hoàn trả, nên một số người đã được sự tin tưởng và giúp đỡ, nên họ đã phải rời Quê Hương, lên đường vượt thoát Cộng sản bằng đường bộ, hay đường biển. Họ phải ra đi, họ không có con đường nào khác, vì không sống được dưới chế độ của bạo quyền Cộng sản!

Nhưng đau đớn thay, vì trong số người đã liều mình, đem sinh mạng để đánh đổi hai chữ Tự Do, có rất nhiều gia đình đã rơi vào tay của hải tặc Thái Lan, hoặc lênh đênh nhiều ngày trên đại dương, chịu đói, khát, lạnh lẽo, và bị bỏ mình nơi biển cả. Họ không được đến bến bờ Tự Do. Họ đã đau thương từ các nhà tù “cải tạo” của Việt cộng, rồi chím xuống đáy biển sâu, làm mồi cho cá. Họ đã bị bạo quyền Cộng sản Hà Nội truy cùng, diệt tận!

 

Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không hề “bại trận”

Làm sao mà “bại trận” được. Hãy nhìn lại những hình ảnh oai hùng, những chiến công lừng lẫy, qua những trận chiến như Mùa Hè Đỏ Lửa, 1972, Bình Long…

Đêm 28/9/1968, Việt cộng pháo kích trại Lực Lượng Đặc Biệt Thường Đức (Quảng Nam)

Người Lính Việt Nam Cộng Hòa đã từng xông pha trên chiến địa, ghìm chặt tay súng, nhắm thẳng về phía quân thù mà bắn. Có đôi lần, dù bị Cộng quân bủa vây giữa đêm tối, khói lửa mịt mùng, nhưng Người Lính vẫn chiến đấu, không để đơn vị rơi vào tay giặc. Người Lính Việt Nam Cộng Hòa không hề sợ chết!

 

 Đêm 28/9/1968, Việt cộng pháo kích trại Lực Lượng Đặc Biệt Thường Đức (Quảng Nam)

Thế hệ hậu sinh, cần phải biết, chỉ riêng trong trận chiến Tết Mậu Thân, 1968, vì “tin vào thỏa ước hưu chiến ba ngày do phía Cộng sản Bắc Việt đề nghị và cam kết để người dân đón Tết trong an bình”, nên đa số người lính đã được phép rời các đơn vị, về ăn Tết với gia đình, để rồi giữa lúc dân-quân Việt Nam Cộng Hòa đang đón Xuân trước bàn thờ Tổ Tiên, khói hương nghi ngút, thì Quân Thù Xâm Lăng Cộng sản Hà Nội đã bất ngờ tấn công, không riêng ở Huế, mà tấn công vào các Thành phố.

Lần này, Cộng sản Bắc Việt đã chuẩn bị trước, nên đã đưa nhiều “Sĩ quan quân báo” vào nằm ngay trong nhà của những tên Cộng sản nằm vùng, (người viết đã viết rõ họ, tên qua bài Trưởng Niệm 40 năm Cuộc Thảm sát Tết Mậu Thân, 1968) để chờ đến lúc khi bên ngoài “ngoại công”, thì bên trong chúng “nội kích”.

Tuy nhiên, mặc dù đã mưu tính “chu đáo”, nhưng Cộng sản Bắc Việt không ngờ được lòng yêu nước, thương đồng bào, với tâm niệm: Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm của Người Lính Việt Nam Cộng Hòa, không tiếc máu xương, nên giữa cơn khói lửa, đã quyết chiến “cảm tử” với quân thù!

Chính vì vậy, trong lúc Cộng quân đang “say men chiến thắng” vì tin rằng sẽ chiếm được miền Nam, ngay trong Tết Mậu Thân, 1968. Nhưng quân Xâm Lăng Cộng sản Bắc Việt đã lầm, vì dù một nửa quân số đã “về quê ăn Tết”; và dù chỉ còn lại một nửa quân số còn lại ở các Đơn vị, nhưng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã khiến Cộng quân đã phải hết sức kinh hoàng trước sự phản công mãnh liệt, đã đánh bật quân thù Cộng sản ra khỏi các thành phố, bỏ lại những xác chết ngổn ngang, trả giá cho hành vi “bội ước” mưu toan giết hại đồng bào trong ngày Tết thiêng liêng, vì “Cứu cánh biện minh cho phương tiện”.

Người viết đã từng lên tiếng, trong những cuộc biểu tình ngày Quốc Hận trước đây, nhưng đến hôm nay, người viết vẫn muốn nhắc lại một câu đanh thép:

Trong cuộc “Tổng công kích Tết Mậu Thân, 1968”, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đa số đã “về quê ăn Tết”, nên quân số chỉ có phân nửa, nhưng Cộng quân đã không thắng nổi, đã thua, và phải bỏ chạy!

Vì thế, vào thời điểm, trước và sau ngày 30/04/1975, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã bị bức tử, không được Chiến, nên không hề có “bại”. Và nếu được đánh một trận thư hùng cuối cùng, thì chắc chắn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phải Thắng!

Tạm kết

Giờ đây, nước đã mất, nhà đã tan. Dân-Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa, dẫu ở quốc nội, hay hải ngoại, đa số đều biết bạo quyền Cộng sản Hà Nội với bàn tay sắt máu, phi nhân, bạo tàn. Thế nhưng, vẫn có một thiểu số, có lẽ vì “mắc bệnh” hoang tưởng, nên nghĩ rằng đảng Cộng sản Việt Nam sẽ “thay đổi tốt hơn” rồi cứ về Việt Nam, để tô son, điểm phấn cho chế độ bán nước, buôn dân.

Xin hãy ghi nhớ, ngày xưa, vì lòng yêu nước, nên một số vị trí thức từng đã đứng chung với Hồ Chí Minh trong “Chính phủ Liên Hiệp…” Để rồi sau đó, Cụ Huỳnh Thúc Kháng đã bị giết chết, và nhiều người nữa phải chạy thoát thân, để khỏi chết dưới bàn tay sắt máu của đảng Cộng sản Việt Nam!

Nhưng có lẽ những người đã “quay đầu” về nước, họ đã quên đi bài học xương máu ấy. Người đời thường nói: “Chưa thấy qua tài, chưa đổ lệ”. Song, Cụ Nguyễn Du đã viết: “Lo chi chuyện ấy mà lo; Kiến trong miệng chén có bò đi đâu”. “Bò” làm sao được, nếu có một ngày, cũng sẽ bị Việt cộng chụp cho cái “tội” nào đó, thì có “ăn năn” thì đã quá muộn rồi. Xin hãy nhớ cho rằng:

Cộng sản, muôn đời vẫn là Cộng sản. Con rắn độc dù có bao nhiêu lần lột da, bỏ vỏ, nhưng cái nọc độc Cộng sản không bao giờ thay đổi!

30/04/2021

Hàn Giang Trần Lệ Tuyền