PHAN LANG, QUÊ HƯƠNG VÀ ĐỊNH MỆNH ( Ngô Quốc Sĩ)

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

Trong tâm tình Quốc Hận, xin chuyển tới các bạn bài viết về nhà thơ, vốn là cựu Trung tá Lục quân Hoa Kỳ. Bài viết mang tên “Phan Lang, Quê Hương và Định Mệnh”. Mời bà con cùng chia sẻ tâm cảm với Phan Lang:PHAN LANG

PHAN LANG, QUÊ HƯƠNG VÀ ĐỊNH MỆNH (Ngô Quốc Sĩ)

Phạm Phan Lang sinh tại Nha Trang, theo học tại trường Nữ Trung Học và Võ Tánh Nha Trang. Phan Lang là người phụ nữ Mỹ gốc Việt mang cấp bậc Trung Tá đầu tiên của Quân Lực Hoa Kỳ, là phu nhân của một cựu Thiếu Tá Hải Quân VNCH, di tản sang Mỹ cùng chồng và ba đứa con vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam. Trung Tá Lục Quân Hoa Kỳ Lang Phan Phạm đã nhận thông báo sẽ được thăng cấp Đại Tá, trước khi xin về hưu..Phan Lang từ chối mang quân hàm Đại Tá vì muốn được ở lại thiên đàng hạ giới Hawaii vui sống với gia đình. Nhưng định mệnh qúa khắt khe! Đôi bờ tử sinh đã khép lại, bắt nàng phải làm người cô phụ khi người chồng dấu yêu đã ra đi trong một thảm nạn đứt ruột. Chàng đã chết đuối vì lao vào biển sóng để cứu đứa con mình và con các bạn đang bị sóng ngầm cuốn ra khơi trong một buổi Picnic tại Foley Beach! Thật đáng thương cho số phận hẩm hiu của những con tim gắn bó..
Điều cần nói là Phan Lang mang quân phục Trung Tá Lục Quân Hoa Kỳ, nhưng tâm hồn lại rất Việt Nam, ướt át với con tim nhạy cảm trước những đau khổ của kiếp người, của đất nước đang bị đọa đày, của quê hương khổ đau, và nhất là tình gia đình nồng thắm với chồng con và song thân.
Trước hết là tình gia đình. Phan Lang đã trải lên thơ tấm lòng son sắt với người chồng dấu yêu đã ra đi, để lại người vợ hiền ngày thương nhớ đến ruột thắt, đêm trăn trở trên gối mộng:
Từ chàng cách biệt phân ly
Em về ôm mối sầu bi não nùng
Đêm đêm ôm chiếc gối chung
Ngửi mùi hương cũ, lòng nhung nhớ sầu
Anh ơi, giờ ở nơi đâu?
Mau về lau những giọt đau tím lòng
Đèn chong em vẫn đợi mong
Bóng anh bỗng hiện như trong cõi nào
Nhớ rồi hỏi cho vơi bớt sầu thương, nhưng trải dài qua năm tháng, nhà thơ cũng phải tìm quên, chôn sâu mối nợ tình để quay về với hiện thực cuộc sống, tô điểm cho cuộc đời thêm xanh:
Thôi hãy chôn sâu mối nợ tình
Lấp đi mộng ước những ngày xinh
Hãy ngăn giọt lệ đêm trăng tỏ
Mơ đến chân trời thăm thẳm xanh…
Tiếp đến là nỗi lòng hiếu thảo với song thân. Phan Lang đã dành cho thân mẫu những lời thơ thật tha thiết không còn lời nào để diễn tả. Vì hoàn cảnh đất nước loạn ly, Phan Lang đã phải xa mẹ ngàn trùng, chỉ biết nhớ về với đôi mắt đẫm lệ qua làn mây, khóm lá:
Chân bước đi mắt con đẫm lệ 
Biết bao giờ gặp lại Mẹ hiền 
Nước non lâm cảnh đảo điên 
Xa quê, bỏ Mẹ lòng miên man sầu…

Chốn viễn xứ lòng đau như cắt 
Mỗi chiều về dõi mắt chốn xa 
Nhìn cây con tưởng tre nhà 
Nhìn mây con tưởng như là Mẹ yêu
Niềm tưởng nhớ ray rứt đã đưa nhà thơ vào mộng, tìm gặp mẹ trong giấc mơ, tưởng như nghe rõ mồn một tiếng ru hời lúc còn bé thơ:
Buồng chuối chín sau vườn 
Lá vàng rụng con mương ngoài ngõ 
Văng vẳng tiếng ầu ơ
Thấy Mẹ trong giấc mơ

Nhớ mẹ rồi nhớ cha. Tình cảm Phan Lang dành cho thân phụ cũng không kém tha thiết. Nhà thơ đã viết về cha với những vần điệu thật truyền cảm của một người con hiếu thảo, thương cha già lưng cong tóc bạc, và mãi mãi ghi khắc công ơn sinh thành:
Thương cha tóc đổi màu
Lưng cha gầy cong mau 
Con nhìn cha lệ ứa
Đời cha lắm bể dâu
Nước mắt cha mờ hoen
Năm tháng vẫn chưa quên
Những chuỗi ngày lưu lạc
Xa xóm làng tổ tiên
Thương nhất là ngày cha đã nhắm mắt ra đi khi non sông còn nhuộm máu và cha chưa trả xong nợ tang bồng của một thời nuôi mộng kình ngư:
Tim cha không còn nóng
Như một thuở kình ngư
Một hôm cha nằm xuống
Vĩnh biệt đời ngàn thu…
Tình gia đình qủa là thắm thiết! Đến như tình quê hương của Phan Lang lại càng thắm thiết hơn. Hằng đêm, tác giả đã cảm thấy lòng đau, mắt đẫm lệ, nhớ về quê hương quằn quại trong gông cùm cộng sản, mà hy vọng ngày về qúa mong manh:
Quê hương xa diệu vợi 
Đắm chìm trong màn đêm 
Lòng đau mắt rơi lệ 
Ngày về là ảo vọng 
Mơ ước chết lưng đồi 
Tiếng cười vang vỡ vụn 
Ôi đớn đau phận người
Lòng đau, mắt ướt lệ là phải, vì đất nước đang trải qua bao nỗi oan khiên. Từ ngày 30 tháng 4 năm 75, dân Việt đã phải ngậm ngùi rời bỏ quê hương yêu dấu, chấp nhận cuộc sống lưu vong nơi đất khách quê người vơi con tim rỉ máu:
Tháng Tư Đen ôi buồn
Trong tim còn rỉ máu
Nỗi đau người mất nước
Sống cuộc đời lưu vong
Người đi sống như kẻ lạc loài, còn người ở lại thì bị đày đọa trong cuộc sống đói nghèo, mất tự do, nhân quyền bị chà đạp, quyền sống cũng bị tước đoạt như thể bị lưu đày trên chính quê hương mình:
Quê hương xa diệu vợi 
Đắm chìm trong màn đêm 
Lòng đau mắt rơi lệ 
Nhìn nước nhà ngã nghiêng
Lòng đau đêm trăn trở
Khóc vận nước điêu linh
Thương dân nghèo khốn khổ
Trời hỡi xin thương tình
Lòng đau ruột thắt, nhưng Phan Lang không tuyệt vọng. Nhà thơ mang quân hàm Trung Tá Lục Quân Mỹ đã về hưu, nhưng lòng vẫn hướng về quê hương Việt Nam, tin vào một ngày quang phục sạch bóng thù trong giặc ngoài:
Nghẹn ngào trong nỗi tái tê
Lá vàng quét mãi ngày về còn xa
Dù cho đất nước phong ba 
Lòng tin quang phục không nhòa trong tim
Trong niềm tin tưởng mãnh liệt đó, Phan Lang đã chấp tay khấn nguyện Trời Đất cho quê hương sớm thấy ánh sáng thanh bình, rạng ngời như minh châu trời Đông:
Ngày ngày quét lá tôi tìm
Dư âm ngày cũ nỗi niềm đầy vơi
Cầu xin khấn nguyện với Trời
Một mai non nước rạng ngời ánh quang
Đó là Phan Lang, người con gái da vàng, mang dòng máu Âu Cơ, mang khí tiết Triệu Trưng, trong hoàn cảnh nghiệt ngã, vẫn sống, vẫn yêu và vẫn làm thơ, đúng như Holderlin đã thổ lộ: “Đã hẳn đời chất đầy sự nghiệp, nhưng người ở đời như nhà thi sĩ..”.  

(Ngô Quốc Sĩ)

Chị Phan Lang ( người đứng phía sau )chụp với  (cựu Giáo Sư Trung Học Võ Tánh, Nha Trang) áo đỏ bên phải, nhân ngày họp mặt trường Võ Tánh.