Lời nói đầu: Chiều 28/3/75, trong khi Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I (QĐI) đang họp với các Tướng Lâm Quang Thi, Tư Lệnh QĐI Tiền Phương, Tướng Điềm, TL/SĐ1 BB, Tướng Bùi Thế Lân, TL/SĐ TQLC, Tướng Khánh KQ, Phó Đề Đốc Thoại, HQ tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân ở Tiên Sa thì VC pháo kích vào những điạ điểm trọng yếu của thành phố Đà Nẵng. Điạ điểm bị nặng nhất nhất là Tiên Sa, nơi đây một số trực thăng của các vị tướng đến họp bị hư. Sau đó thì Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đến nghỉ đêm tại TTHQ/TQLC trong căn cứ Non Nước.
Lúc 6.30 sáng ngày 29/3/75, có 2 tàu HQ vào đón TQLC tại bãi biển Non Nước nên Tr/Tướng Trưởng cùng Đại Tá Nguyễn Thành Trí, TLP/SĐ TQLC lên một trong 2 chiếc tàu này. Chúng tôi ở Trung Tâm HQ thì được vớt lên chiếc tàu thứ hai. Nhìn thoáng qua mặt biến, người ta thấy nhiều chấm đen đang nhấp nhô theo làn sóng. Nhưng nếu nhìn kỹ, họ mới thấy những đốm đen đó là đầu người nhấp nhô hụp lặn dưới nước. Nếu không được kéo lên tàu thì chỉ trong chốc lát là họ chết “vì nước”. Tôi là một trong những đốm đen này, nhưng may mắn nắm được sợi dây từ trên tàu quăng xuống rồi được kéo lên. Khi lên tàu rồi, tôi nhìn xuống mới thấy có quá nhiều anh em đã chết nổi lềnh bềnh từ gần sườn tàu rồi trôi dạt ra xa. (Vì nước biển mặn nên vừa chết đã nổi ngay). Khi mọi người đang tìm đủ mọi phương tiện bơi ra tàu thì VC pháo kích lên bãi biển mù trời. Nhiều đạn pháo kích nổ tung nước lên gần tàu nên HQ vội vàng lui ra khơi. Trong khi đó thì những anh em ở trên bờ hứng chịu pháo kích và tuyệt vọng nhìn con tàu lui ra khơi.
Tôi xin nói thêm về trường hợp mất tích của Tr/Tá Nguyễn Xuân Phúc, LĐT/LĐ 369, và Tr/Tá Đỗ Hữu Tùng, LĐP, trên bãi biển này. Lúc 6 giờ sáng ngày 29/3/75, hai anh Phúc, Tùng, và Trần Văn Hợp (TĐT/TĐ2) còn đứng nói chuyện với tôi trước cửa TTHQ, trong khi đó thì Trung Tướng Trưởng đang ngồi trong hầm. Khi có 2 tàu HQ vào đón, vì tôi làm việc ở TTHQ nên đi bơi trước, còn hai anh thì chờ “thằng 9”. LĐ 369 gồm các Tiểu Đoàn 2, 6, 9 thì TĐ2 của Trần Văn Hợp và TĐ6 của Lê Bá Bình đã về đến căn cứ Non Nước. Nhưng TĐ9 của Lâm Tài Thạnh còn ở xa và đang đi chuyển về nên hai anh Phúc và Tùng ngồi lại ở bờ biển để chờ TĐ9/TQLC. Hai anh phải hứng chịu pháo kích và bị mất tích!
Khi còn sinh thời, Đại Tá Nguyễn Năng Bảo, LĐT/LĐ 258 kể lại rằng, khi ông đi ra tàu thì thấy hai anh Phúc và Tùng còn ngồi trên bờ. Anh Bảo hỏi anh Phúc sao chưa lên thì hai anh nói là còn chờ “thằng 9”. Trưởng ban 3 của TĐ9 là Đ/Úy Đoàn Văn Tịnh (hiện ở Gorgia) đã viết trong hồi ký về cuộc lui quân rằng đang lúc liên lạc vô tuyến với hai anh Phúc Tùng để nhận lệnh thì nghe một tiếng nổ lớn đội vào “ô-bạc-lơ” của máy C25 và mất liên lạc ngay với hai anh.
Từ những việc tôi nghe và thấy, từ nhân chứng là anh Bảo và Tịnh, và sự việc tiếng nổ trùng vào lúc VC pháo kích lên bờ biển thì tôi nghĩ hai anh đã…! Nhưng vì không chứng kiến tận mắt nên tôi chỉ có thể nói là Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc và Đỗ Hữu Tùng “mất tích” khi đang chờ thuộc cấp ở bãi biển Non Nước. Nếu ai không chứng kiến tận mắt, không có những sự kiện cụ thể thì chớ nên suy diễn rằng hai anh đã “bay” đi trước. Tôi đã chiến đấu dưới quyền anh Phúc từ khi anh còn là Đại Đội Trưởng ĐĐ4/TĐ2, rồi TĐT/TĐ2 và sau này. Tôi tin chắc anh sẽ là một trong những cấp chỉ huy và lãnh đạo lý tưởng của QLVNCH. Được phục vụ dưới quyền các anh thì dẫu có thác cũng không hối hận. Quân Đội VNCH có những cấp chỉ huy như các anh thì không có những “OAN HỒN”, những hồn hoang trong chiều hoàng hôn trên pháp trường cát Thuận An.
Những hồn hoang buổi hoàng hôn trên pháp trường cát Thuận An, Huế.
Sau khi TQLC Cao Xuân Huy “lên tàu”, nhà thơ Nguyễn Mạnh Trinh yêu cầu tôi lên Hồn Việt TV để anh phỏng vấn về tác giả và tác phẩm “Tháng Ba Gẫy Súng”. Trước ống kính, tôi nói với Mạnh Trinh rằng Cao Xuân Huy viết đúng nhưng chưa đủ, phải thêm vài cuốn Gẫy Súng của những TQLC khác nữa mới thấy hết cái bi thương và lý do gây nên thảm cảnh đó.
Trong chương trình Huynh Đệ Chi Binh của nhà văn Huy Phương trên SBTN nói về việc đồng bào thôn An Dương, Thuận An, Huế, đã cải táng nấm mồ tập thể 132 quân nhân tử trận trên bãi biển Thuận An vào những ngày cuối tháng 3/1975, anh đã phỏng vấn tôi một số chi tiết liên quan đến Thuận An.
Buổi nói chuyện của anh và tôi đã được phổ biến trên TV/SBTN khắp các tiểu bang Hoa Kỳ và gây xúc động cho nhiều người, nhất là những gia đình có chồng, con, anh, em, còn mất tích trên bãi biển Thuận An, nên quý vị đó đã gọi điện thoại cho tôi yêu cầu nói rõ thêm về cuộc rút quân của Lữ Đoàn 147/TQLC.
Thời gian của mỗi buổi nói chuyện chỉ trong vòng 20 phút trong khi muốn hiểu rõ đầu đuôi thì phải cần cả ngày. Quý khán thính giả đã xem chương trình của anh Huy Phương như các anh Tô Đức Hạnh (Alhambra, anh của cố Đ/Úy Tô Thanh Chiêu), Phan Hữu Hạnh (Witchita), Nguyễn Công Thân (AZ), Lữ Minh Đức (San Francisco), Đỗ Văn Minh (Houston TX) và nhất là chị Hồng Bạch (San Jose) đã khóc ngất khi hỏi tin tức về em trai là Tr/Sĩ TQLC Lâm Phi Hạnh mất tích tại Thuận An.
Vì vậy, tôi xin được nói rõ THÊM về những điều tôi đã nghe và thấy trong nhiệm vụ của một người trực trung tâm hành quân SĐ/TQLC tại Non Nước, ĐN, cũng như các bài được tham khảo từ các bài viết của các Mũ Xanh khác. Ngoài nhà văn Cao Xuân Huy với “Tháng Ba Gẫy Súng” đã in sách và xuất bản, còn thì mỗi người lính TQLC bị đẩy ra bãi cát Thuận An đều có “cây súng bị gẫy”, nhưng mới chỉ phổ biến trong nội bộ TQLC mà thôi, đó là:
– Tháng Ba Buồn Hiu của Tiểu Cần, âm thoại viên của Tư Lệnh/ TQLC. (1)
– Những Người Lính Bị Bỏ Rơi của BS TQLC PHạm Vũ Bằng. (2)
– Người Lính Sau Cùng Tuyến Sông Bồ của Th/Úy Phan Văn Đuông. (3)
– TĐ 7/TQLC Từ Cuộc Di Tản 23/3/75 của Th/Tá Phạm Cang, TĐT/ TĐ7. (4)
– Ngày Tháng Không Quên của Tango Nguyễn Thành Trí, TLP/ SĐTQLC. (5)
(1 và 2 đăng trong web TQLC. Còn 3, 4, 5 đăng trong Tuyển Tập II TQLC. Khi trích dẫn tôi sẽ dùng những số này để rút gọn thay vì viết đầy đủ tên bài viết.)
Chiến đấu là có thắng thua, mà phần quyết định thắng thua thường do khả năng chỉ huy và tài lãnh đạo của cấp chỉ huy. Viết về một chiến thắng thì quá dễ dàng, vui trong bụng và làm hài lòng những người tham dự, nhất là những cấp chỉ huy và lãnh đạo trận đánh đó, nhưng rất dễ “lãnh đạn” khi viết về một chiến bại, dù cho là “Can Trường Trong Chiến Bại”. Viết về biến cố Thuận An thì lại càng khó, nó không chỉ là chiến bại, mà là một tan hoang! Tan hoang không hoàn toàn do địch quân*, mà có phần trách nhiệm chỉ huy cao cấp của cuộc rút quân đó! Lại càng khó khi những nhân vật chỉ huy cao cấp đó còn đây. Không khéo lại bị mang vạ là hỗn hào, sao dám phê bình thượng cấp?
Biết vậy nhưng tôi vẫn phải viết, viết để trả lời cho những người đã khóc, đang khóc và còn khóc mãi khi thân nhân của họ là những oan hồn* chưa tìm được nơi tạm trú, những hồn hoang vẫn còn lang thang trên pháp trường cát Thuận An vào những buổi hoàng hôn.
(* Khi nghe tin SĐ1/BB và TQLC đã rút thì Thiếu Tá Hoàng Trai, CHT trung tâm huấn luyện SĐ.1 tại Dạ Lê, mới cho TTHL rút theo. Trước khi rút, ông còn dùng xe jeep chạy khắp thành phố Huế để nhìn lại “quê hương” một lần chót mà không hề hấn gì, chỉ gặp một vài trái pháo rơi vãi đó đây. Áp lực địch không mạnh, tức là hậu quả thê thảm trong giai đoạn rút quân là do vị chỉ huy cao cấp và ban tham mưu không nắm vững tình hình hoặc bỏ “nhiệm sở”.)
Trong buổi nói chuyện trên SBTN, nhà văn Huy Phương hỏi tôi:
– Nhiệm vụ của Sư Đoàn TQLC tại vùng I.
– Lý do rút quân và diễn tiến cuộc rút quân. Những gì xẩy ra trên bãi biển Thuận An?
– Tổn thất như thế nào? Có bao nhiêu TQLC về được Đà Nẵng?
– Nếu có mặt của vị chỉ huy cao cấp (?) tại chỗ thì tình thế sẽ ra sao?
– Hoạt động của TQLC sau đó và những ngày cuối cùng của cuộc chiến.
Xin trả lời:
Cuộc hành quân Lam Sơn 719 Hạ Lào năm 1971, một cuộc chiến kỳ quái thí quân, rồi sau đó tới “Mùa Hè Đỏ Lửa”, tái chiếm Cổ Thành đã khiến hai binh chủng Nhẩy Dù và TQLC bị tiêu hao khá nặng. Binh Chủng Tổng Trừ Bị (TTB) là như vậy, nhưng rồi sau đó thượng cấp biến TTB thành “binh chủng” ĐPQ và NQ của vùng I, đóng đồn giữ đất, cắm chốt, đào giao thông hào, trải quân từ bờ biển vào tận dãy Trường Sơn. Một trung đội trưởng còn biết sự cần thiết của lực lượng trừ bị, vậy mà giới lãnh đạo lại không biết điều đó sao?
Sau khi Ban Mê Thuột (BMT) bị mất ngày 10/3/75 thì ngày 13/3.75. “thượng cấp” mới giật mình tỉnh cơn mê, thấy không có tổng trừ bị, ngài bèn vội vàng kéo Dù đang trấn thủ Đà Nẵng về Nam. Để trám vào chỗ trống, TQLC phải kéo LĐ 258/ TQLC và LĐ 369/ TQLC, đang giữ đất ở Quảng Trị, Huế, di chuyển vào Đà Nẵng, Thường Đức để thay thế cho Dù, chỉ còn để lại LĐ 147/ TQLC phòng thủ tuyến sông Bồ và bảo vệ Huế. Lực lượng thay thế 2 Lữ Đoàn TQLC với 5 ngàn tay súng là Liên Đoàn 14/BĐQ với quân số 1400.
BMT bị mất, Dù về Nam, TQLC xuôi vào ĐN đã ảnh hưởng rất lớn đến các lực lượng chiến đấu ở QT, Huế. Đấy là chưa nói đến áp lực địch gia tăng và dân chúng hoảng loạn bắt đầu di tản. Việc phòng thủ Huế đã quá mong manh.
Lúc 14.30 giờ ngày 24/3/75, Tại căn cứ Hải Quân Thuận An, Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I Tiền Phương (QĐITP) Lâm Quang Thi họp với Tướng TL/ SĐ1 BB. Đại Tá Hy -TMT/ QĐI TP, Đại Tá Duệ -Tỉnh Trưởng Thừa Thiên, Đại Tá Nguyễn Thành Trí -TLP/TQLC, để bàn kế hoạch rút quân. Kế hoạch đã được trình lên Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, TL/QĐI và được chấp thuận. Khoảng 17.30 giờ, Đ/Tá Hy đi trực thăng đến trao công điện cầm tay cho Đ/Tá Nguyễn Thành Trí ra lệnh rút quân và Đ/Tá Trí ra lệnh cho các đơn vị TQLC thi hành vào lúc 18 giờ.
Trong phạm vi bài viết này, tôi không đề cập tới lệnh rút quân của BTL/ QĐI TP đã được soạn thảo như thế nào và tôi cũng không đề cập tới việc rút quân của các đơn vị bạn như SĐI BB, BĐQ, TG v.v.. mà chỉ đề cập tới lệnh rút quân ban cho LĐ147/ TQLC mà thôi.
Đ/Tá Nguyễn Thành Trí Tư, TLP/TQLC kiêm Tư Lệnh lực lượng Tây-Bắc, mà nỗ lực chính là LĐ.147, đã viết trong bài “Ngày Tháng Không Quên” như sau:
– “Tướng Thi quyết định đề nghị kế hoạch rút quân khỏi Huế lên Tướng Trưởng như sau: Lực lượng Tây Bắc Huế do tôi chỉ huy sẽ rút về Thuận An, sau đó đi chuyển về cửa Tư Hiền. Tại đây, Hải Quân và Công Binh QĐI sẽ phối hợp thiết lập cầu phao để các cánh quân vượt sông nhanh chóng và dễ dàng. SĐ1 BB do Tướng Điềm chỉ huy sẽ rút theo trục Quốc Lộ 1 và sẽ tập trung về điểm vượt sông, song song với cánh quân TQLC.” (5 trang 538).
– “Sáng sớm ngày 25 tháng 3, LĐ147/TQLC báo cáo đã hoàn tất việc tập trung bên này bờ biển, cách Thuận An 9 cây số về phía Đông Nam (5 trang 539). Khoảng 10.30 giờ, qua tần số không lực, LĐ147/ TQLC nhận được lệnh của QĐ1 TP hãy chuẩn bị tại chỗ để tàu vào bốc, kế hoạch di chuyển về cửa Tư Hiền bị hủy bỏ vì không thể thiết lập cầu phao, do tình trạng an ninh và thủy triều bất lợi.” (5 trang 540).
Đ/Tá Nguyễn Thành trí, Tư Lệnh Lực Lượng Tây Bắc ra lệnh rút lúc 18 giờ ngày 24/3. Tới sáng sớm ngày 25/3, chỉ trong vòng hơn một đêm LĐ147/ TQLC đã di chuyển từ tuyến sông Bồ (TĐ5) và sẵn sàng tại điểm tập trung, phía Nam cửa Thuận An 9 km, tiếp tục đi chuyển về cửa Tư Hiền để vào Đà Nẵng. Đây là một cuộc hành quân lui binh rất khó khăn nhưng LĐ147 đã hoàn tất đúng với lệnh của QĐI TP. Tuy nhiên đến 10.30 giờ thì kế hoạch thay đổi, vì không bắc được cầu phao qua cửa Tư Hiền* nên LĐ147TQLC dừng quân tại chỗ để tàu Hải Quân vào bốc.
(* Cửa Thuận An và Tư Hiền rộng như một con sông, nối liền biển với các đầm trong đất liền. Lực lượng phòng thủ và vận chuyển tại cửa Thuận An là trách nhiệm của Duyên Đoàn 12 và tại cửa Tư Hiền là Duyên Đoàn 13, thuộc BTL Hải Quân vùng I Duyên Hải)
Rút quân bằng đường bờ biển từ Huế vào Đà Nẵng qua cửa Tư Hiền thì yếu tố quyết định là phải có cầu phao tại đây, hay tối thiểu phải là các tàu há mồm để chuyện quân từ bờ này sang bờ kia. Tướng tiền phương đã ra lệnh cho HQ và CB thi hành, vậy mà chỉ trong một đêm đã báo cáo kết quả là không thực hiện được. Thượng cấp ra lệnh lập cầu khi chưa cho thám sát địa thế, phương tiện chưa sẵn sàng, chưa nghiên cứu thủy triều, hay là thuộc cấp (HQ & CB) không tuân lệnh hành quân? Điểm gây chết quân ta là ở chỗ trách nhiệm này đây.
Bãi biển từ cửa Thuận An đến cửa Tư Hiền là một hòn đảo cát, Đông Tây Nam Bắc là nước, đã ra đến đây rồi thì đường rút quân vào ĐN chỉ có duy nhất vượt qua cầu phao tại cửa Tư Hiền. Nhưng bắc cầu phao đâu phải vẽ trên giấy? Kết quả là thế đấy!
Nhưng thôi, không có cầu phao thì QĐI TP ra lệnh dừng quân tại chỗ để tàu HQ vào đón. Thật là tuyệt diệu vừa nhanh chóng, an toàn, vì dưới tay Quân Đoàn là cả một lực lượng Hải Quân hùng hậu đầy đủ tầu thuyền của Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải. Ông biết mọi đặc tính của vùng biển này như trên bàn tay. Nhưng rồi chuyện gì xẩy ra? Xin nghe Đ/Tá Tư Lệnh lực lượng Tây-Bắc nói:
“Khoảng 1300 giờ,(ngày 25/3), một hải vận hạm (LSM) đến bãi bốc, nhưng lại đậu cách xa bờ 200m, làm sao binh sĩ lội ra được trong tình trạng sóng to gió lớn lại còn phải đem theo thương binh và tử sĩ? Nếu có vài chiếc LCM để chuyển quân từ bờ ra tàu lớn thì mọi việc đã có thể giải quyết tốt đẹp, vì loại tàu LCM có thể vào sát bờ hơn. Thấy không thể giúp gì được nên chiếc LSM di chuyển đi nơi khác sau khi hứa sẽ gọi tàu LCU đến để bốc quân.“ (NTKQ trang 540).
Từ khi ra lệnh dừng quân cho đến khi tàu HQ đến thì phải mất gần 3 tiếng đồng hồ (1030-1300)? Đến rồi lại bỏ đi! Thiếu Tá Phạm Cang TĐT/TĐ7/TQLC nói về trường hợp tàu HQ vào đón (kể trên) như sau:
“Tàu đậu cách bờ 200m lại thêm sóng to gió lớn là một trở ngại vô cùng khó khăn. Từng toán 20 TQLC nắm tay nhau lội ra tàu nhưng bị sóng đánh dạt vào bờ trông thật thê thảm! Các đơn vị cố gắng nhiều lần nhưng đến 5 giờ chiều thì không một quân nhân nào ra đến tàu được. Đ/Tá LĐT gọi các tiểu đoàn trưởng đến họp (3, 4, 5, 7, TĐ2 PB) và ra lệnh phòng thủ tại chỗ để chờ xuống tàu theo kế hoạch Alfa”. (4 trang 489)
Ngồi chờ tàu vào đón từ 10 giờ sáng đến 5 giờ chiều, tàu đến rồi tàu lại đi vì sai kế hoạch, trong khi địch quân thì có 7 tiếng đồng hồ, quá dư thời gian để bám sát đuổi theo. Khi trận đánh xảy ra, địch đã núp sẵn trên các cao điểm, hướng đủ mọi loại súng vào quân ta. Thiếu Tá Nguyễn Trí Nam -TĐP/TĐ.4 và Đại Úy Tô Thanh Chiêu -ĐĐT/ĐĐ.3 tử thương vào lúc này. Kế hoạch Alfa như thế nào và đã được thực hiện ra sao? Th/Tá Cang viết tiếp:
“Tối hôm đó (25/3) LĐ đóng quân đợi thi hành kế hoạch Alfa tức là xuống tàu Hải Quân vào lúc 12 giờ đêm, theo thứ tự BCH/LĐ, TĐ 2PB rồi tới các TĐ 4, 3, 5, và 7. Thế rồi 12 giờ đêm đã tới, 1 giờ đã qua rồi 3 giờ sáng, các con tàu vẫn không vào bờ! Xa xa ngoài khơi, ánh đèn các con tàu vẫn còn đó, nhưng mọi vật hình như bất động! Đến 8 giờ sáng ngày hôm sau (26/3) mới có một chiếc LCM vào đón thương binh và BCH/LĐ.”(4 trang 490).
Hành quân lui binh khó khăn gấp trăm lần hành quân tấn công, vậy mà LĐ147/ TQLC với các Tiểu Đoàn 3, 4, 5, 7 và TĐ2 PB đã thi hành đúng theo lệnh, dừng quân trên đảo cát để tàu HQ vào đón, nhưng chờ gần một ngày một đêm (10.30 sáng ngày 25/3 đến 8 giờ sáng ngày 26/3) vẫn không có con tàu nào, chúng vẫn bất động trước mặt. Nhưng địch không “bất động” mà chúng đã thần tốc bám theo, mỗi khắc giá đáng ngàn vàng thì gần 24 giờ đồng hồ “ta đứng, địch đuổi” chuyện gì sẽ xẩy ra? Địch đã dư thừa thời gian đuổi theo và tăng cường quân số quyết tấn công LĐ 147, nên khi chiếc LCM vào đón thương binh là chúng tấn công bằng hỏa tiễn và 12.7, Đ/Tá LĐT bị thương. Th/Tá Phạm Cang chỉ huy LĐ thay thế Đ/Tá Nguyễn Thế Lương. Nếu đêm 25/3, kế hoạch Alfa được thi hành, địch chưa đuổi kịp thì không xảy ra đại họa. Đã quá trễ khi địch đã sẵn sàng hướng súng vào tàu, vào quân ta như những tấm bia trên thềm bắn. Th/Tá Phạm Cang XLTV/LĐ viết:
“Nếu đêm qua kế hoạch Alfa được thi hành thì ít nhất một nửa lữ đoàn có thể thoát khỏi khu vực này để lên tàu. Nhưng không rõ vì lý do gì không thực hiện được. Khoảng 10 giờ sáng HQ cho biết sẽ có LCM vào đón. Tôi ra lệnh cho TĐ4 và 3 xuống tàu theo như đã định, nhưng khi LCM vừa cập bến thì quân nhân các đơn vị bạn cùng dân chúng cũng nhanh chân tranh nhau xuống tàu gây nên cảnh hỗn loạn. Vì số lượng người quá đông nên tàu mắc cạn. Vị chỉ huy tàu yêu cầu ai không phải TQLC thì xuống bớt tàu mới có thể ra khơi được. Nhưng ai là người chịu xuống khi biết rằng đây là cái phao cuối cùng. Tuyệt vọng! Tự sát và VC tác xạ vào gây thêm cảnh chết chóc cho những ngươi xung quanh.” (4 trang 491).
Lời của Th/Tá Phạm Cang trên đây cũng như Tr/Úy Cao Xuân Huy trong “Tháng Ba Gẫy Súng” đã nói giống nhau về con tàu vào đón quân trễ 24 giờ so với lệnh hành quân của QĐI TP (10 giờ 30 ngày 25/3 đến10 giờ ngày 26/3) khiến nó trở thành cái quan tài sắt chứa bao nhiêu xác người. Đó là hậu quả mà người dân thôn An Dương, Thuận An, Thừa Thiên Huế vừa cải táng nấm mồ tập thể của 132 tử sĩ VNCH, tuy không xác định được danh tánh nhưng phần lớn là TQLC. Còn bao nhiêu lần 132 xác nữa vẫn còn nằm rải rác khắp đó đây dưới cát hoặc thủy triều kéo ra biển khơi?
Từ 10 giờ sáng, con tàu đến trễ 24 tiếng đã mắc cạn biến thành “con tàu ma” thì chẳng còn “ma” nào vào đón LĐ.147 nữa. Họ phải làm gì đây? Trong cơn nắng Hè giữa bãi cát, cả lữ đoàn đang chết khát giữa biển nước mênh mông. Đến 2 giờ chiều Tướng Lâm Quang Thi bay trực thăng ngoài biển khơi gọi máy hỏi quân số dưới đất còn bao nhiêu, Th/Tá Cang trả lời:
– “Ngoài 5 Tiểu Đoàn TQLC, còn có các đơn vị bạn đi theo, tổng số khoảng 3000”.
Vị tướng tiền phương hứa sẽ có tàu lớn (?) vào đón và rồi ông bay đi. Đến 4 giờ chiều, tức 2 giờ sau lời ông Tướng hứa thì Th/Tá Phạm Cang, XLTX/LĐ, nhận được lệnh từ TLP/ TQLC rằng không còn tàu nào nữa!
Kể từ 4 giờ chiều ngày 26/3, cả LĐ147/ TQLC coi như đã bị đưa ra pháp trường cát Thuận An. Trước mặt là biển Đông, sau lưng là đầm Thanh Lam, đầm Hà Trung, phía Bắc là cửa Thuận An và phá Tam Giang, Nam là cửa Tư Hiền, giữa bãi cát mênh mông không nơi che dấu thì có thể làm gì được đây?
Đã 6 giờ chiều, những người lính TQLC phải quyết định thật nhanh, Th/Tá Phạm Cang cho họp các tiểu đoàn trưởng để đi đến một quyết định:
-“Tiếp tục đánh và đi về phía Nam”.
Đi về cửa Tư Hiền dù biết rằng không có cầu phao, nhưng hy vọng vào cái cầu bằng “bọt nước” tức là hy vọng vào Duyên Đoàn 13 thuộc BTL/HQ vùng I Duyên Hải còn trấn giữ ở đây. Nhưng tất cả đúng là “bọt nước”, không tầu, không cầu, không bạn, hết đạn, hết lương thực, hết nước, chỉ còn súng địch thì không tử trận cũng tự sát, và bị bắt! Còn ai thoát được?
Trong một bài viết của vị Tướng Tư Lệnh Tiền Phương (TL/TP), ông đã nói rằng “đa số TQLC đã về tới Đà Nẵng”. Xin thưa, chỉ duy nhất một LCM vào đón thương binh lúc 8 giờ sáng ngày 26/3, nhưng bị VC bắn nên vội rút ra! Bác Sĩ Phạm Vũ Bằng là người được lệnh ra đón thương binh đã kể lại trong bài viết “Những Người Lính Bị Bỏ Rơi” nói rõ con số, bài này đã gửi tới cựu Trung Tướng Lâm Quang Thi TL/TP, có đoạn như sau:
– “Vào lúc 2 giờ chiều ngày 26/3, thì một chiếc LCM từ từ cập bến Đà Nẵng, khi bửng tàu mở ra, tôi rất mừng vì thấy màu áo rằn ri quen thuộc, đi đầu là mấy anh em khiêng xác của 3 tử sĩ, xác họ được gói kỹ trong những chiếc poncho, một trong 3 xác này là Thiếu Tá Nguyễn Trí Nam -TĐP/TĐ.4/TQLC, sau đó là Đại Tá Nguyễn Thế Lương -LĐT/LĐ 147. Ông bị thương ở chân, mặc dù được các quân y tá dìu xuống cầu tàu nhưng ông di chuyển rất khó khăn và đau đớn. Theo sau LĐT là bác sĩ Rậu, bác sĩ Khoa, và toán y tá, cùng khoảng 100 thương binh. Cuối cùng là khoảng hai trăm quân nhân thuộc các tiểu đoàn TQLC hiện đang bị kẹt lại tại bãi biển Thuận An. Tôi nhanh chóng phân loại các thương binh rồi ra lệnh mang họ lên đoàn xe tải thương để về căn cứ Non Nước.”
Trên đây là ghi lại thật tóm tắt diễn biến xảy ra trên pháp trường cát Thuận An. Còn câu hỏi của nhà văn Huy Phương rằng nếu có sự chỉ huy của giới chức “có thẩm quyền” thì tình thế có thay đổi không? Vì tế nhị ông đã không hỏi đích danh “thẩm quyền” là ai, nhưng tôi có thể khẳng định “thảm họa” Thuận An không do cấp chỉ huy TQLC. Lữ đoàn trưởng bị thương đã có người thay thế và các Tiểu Đoàn Trưởng 3, 4, 5, 7, TĐ2 PB vẫn luôn sát cánh cùng thuộc cấp. Xin nghe tâm sự của Cao Xuân Huy về tiểu đoàn trưởng Đinh Long Thành của mình:
– “Làm tiểu đoàn trưởng được mấy ngày thì chạy, chết mất tiểu đoàn phó*, chết mất một đại đội trưởng*, banh luôn một đại đội, một đại đội cũng đang lênh đênh trên biển ngoài sự kiểm soát của ông.. Vậy mà ông vẫn chạy ngược chạy xuôi, cố gắng tập trung, gom góp những thằng mang bảng tên màu đỏ Tiểu Đoàn 4 để hướng dẫn, để biết tin tức, để khích lệ tinh thần. Ông đã không lợi dụng tình trạng tan rã của tiểu đoàn để bỏ trốn một mình. Phải chi quân đội chỉ có tinh những cấp chỉ huy như Thiếu Tá Cang, Thiếu Tá Thành”. (Tháng 3 Gẫy Súng, trg 93)
Không chỉ có tiểu đoàn trưởng, mà tiểu đoàn phó cũng thế. Phạm Cang nói về TĐP Lê Quang Liễn (có em ruột đi theo anh nhưng bị tử thương) như thế này:
– “Khi một tàu vào gần bờ để bốc thương binh tử sĩ, Th/Tá Liễn ôm xác người em trai bơi ra tàu vừa kịp lúc tàu kéo “bửng” lên nên cả hai anh em Liễn, người sống và người chết nằm gọn trong tàu. Vừa khi tàu lui ra thì Liễn nhẩy xuống biển, bơi lại vào bờ để tiếp tục chiến đấu cùng đồng đội và rồi bị bắt cùng đồng đội.”
Gặp Liễn tôi hỏi động cơ nào đã khiến anh hành động như thế thì Liễn nói:
– “Không có gì ghê gớm lắm đâu anh, đơn giản là các Tiểu Đoàn Trưởng Phạm Cang, Tiền, Sử, Thành còn trên bờ, lính tôi còn trên bờ, tôi phải trở lại để sống chết với anh em. Nếu bây giờ gặp hoàn cảnh như thế, tôi vẫn làm như thế”.
Những cán bộ nồng cốt của LĐ147/ TQLC là như thế đó nhưng không thể làm gì hơn, họ chỉ là Bộ Binh (nói chung) không có quyền điều động tàu thủy và tàu bay. Ngay cả Đại Tá TLP cũng phải than trời:
“Kêu cứu tàu vào bốc nhưng mọi trả lời đều tuyệt vọng.” (5, trang 541)
Nên nhớ rằng LĐ147/ TQLC trực thuộc quyền điều động của Tư Lệnh QĐI TP, nằm ngoài thẩm quyển điều động của TL/ TQLC. Khi biết LĐ147 đang bị sa lầy, TL/ TQLC đành phải ra mật lệnh cứu nguy. Đ/Úy Nguyễn Quang Đan, chánh văn phòng của Thiếu Tướng TL/SĐ TQLC, gửi cho tôi một e-mail nguyên văn như sau:
“Thưa niên trưởng: …Một buổi sáng tháng 3/75, tôi đọc lệnh hành quân từ Tướng Thi gửi xuống, tôi trình ngay lên Thiếu Tướng Tư Lệnh và xin ông đọc. Sau đó Thiếu Tướng Tư Lệnh đi liên lạc với Đại Tá Trí tại TTHQ/ SĐ. Ngày hôm sau, tôi lấy trực thăng bay ra Thuận An đưa tận tay lá thư của Thiếu Tướng cho Đ/Tá Lương, LĐT/ LĐ147/ TQLC kèm theo lời dặn của TT/TL/SĐ TQLC:
-“Tìm ra quốc lộ 1 mà đi”.
Nhưng tiếc thay, đã quá trễ để Đ/Tá Lương đổi hướng ra QL1. Lệnh rút theo bờ biển và tàu vào đón là ưu điểm với điều kiện ắt có tàu và đủ điều kiện bắc cầu phao. Nếu không tàu, không cầu thì lui binh theo đường bộ, dọc theo QL1 dù cho có gặp nhiều khó khăn, dẫu có gặp địch kháng cự, cũng không đến nỗi như đã bị dồn vào cửa tử Thuận An, vào thế bí như cái nhìn của Tướng TQLC và nhiều cấp chỉ huy khác nữa.
Tình thế chắc chắn sẽ khá hơn, tốt hơn nếu không muốn nói là không xẩy ra “pháp trường cát” nếu như TL/QĐI TP ra lệnh được cho HQ cho tàu vào đón TQLC, lệnh cho KQ đưa máy bay lên yểm trợ hỏa lực ngăn chặn địch quân, cho trực thăng tải thương tiếp tế. Nhưng vì sao lại không có cái gì cả? Chuyện gì xẩy ra giữa Tướng TL/TP với Tướng TL/SĐI KQ, với Phó Đề Đốc TLHQ Vùng I Duyên Hải, và cả với Tướng TL/QĐI? Đây chính là những giới chức có thẩm quyền quyết định để KHÔNG xảy ra pháp trường cát.
Trong lệnh rút quân của QĐI TP cho SĐ.1BB và LĐ.147/ TQLC có nhấn mạnh:
“Kế hoạch hỏa lực ngăn chặn phải được áp dụng tối đa trong khi các đơn vị rút quân.”
Đây là một điểm son trong lệnh hành quân của Tướng TL/QĐI/ TP, nhất là hành quân lui binh. Lui binh nên PB cũng lui, chỉ còn KQ và HQ là hữu hiệu nhất, mà cả hai thành phần này chưa hề sứt mẻ. Nhưng “Ou` est Robert đánh đu?” Họ đi đâu cả rồi?
Đà Nẵng có sân bay lớn, SĐI KQ có nhiều trực thăng, thẩm quyền nào điều động họ đi đâu cho đến nỗi cần trực thăng để tiếp tế đạn, nước uống, thực phẩm cho lính ở bãi cát Thuận An mà không có. Đại Úy Đan, chánh văn phòng và Tiểu Cần, âm thoại viên của TL/TQLC đã phải dùng C&C của Tư Lệnh để tiếp tế vàì thùng lương khô xuống cho anh em. Tiểu Cần đã ghi lại trong bài “Tháng Ba Buồn Hiu”:
– “Một số anh em thuộc TĐ/THD đang chất những thùng gạo sấy lên trực thăng C&C. Tôi phụ một tay để cố sắp xếp sao cho càng nhiều càng tốt, nhưng khoang tàu chỉ có sức chứa 10 thùng là tối đa. Vậy với chỉ một chiếc như thế này thì chở không được bao nhiêu, và phải bao nhiêu chuyến trong lúc hơn 3000 người đang “bụng không, bãi cát trống?”
Bay dọc theo bờ biển lên hướng Bắc, khi gần đến vị trí LĐ.147 thì phi công hỏi Đại Úy Đan kế hoạch tiếp tế những thùng gạo xấy này thì anh Đan cho lệnh đáp xuống bãi cát, anh em dưới đất phụ vào để giải tỏa rất nhanh cho trực thăng cất cánh làm chuyến khác. Qua chuyến thứ hai, theo tính toán của anh Đan và phi công thì đáp và cất cánh tốn nhiều thời gian nên các anh cho trực thăng bình phi cách mặt đất chừng 10m rồi chúng tôi xô các thùng gạo sấy xuống. Làm cách này rất nhanh, nhưng sau đó thì được biết một vài anh em bị thương vì thùng gạo rơi trúng người!
Cao Xuân Huy đã ghi lại trường hợp tiết tế này trong Tháng Ba Gẫy Súng:
– “Một chiếc trực thăng từ phía biển bay vào, quần trên đầu chúng tôi rồi ném chừng một chục bao cát đựng gạo xấy và thịt hộp. Một sự hỗn loạn xảy ra…Có một bao rơi trúng đầu làm bất tỉnh một người lính..” (T3GS, trang 75)
Hải Quân thì có đủ mọi tàu lớn nhỏ và các cấp thừa hành cũng sẵn sàng hy sinh cộng khổ cùng TQLC, nhưng họ có nhận được lệnh hay không, lệnh ra có đúng lúc đúng chỗ hay không? Đón quân trên bờ mà cho tàu lớn đậu xa bờ 200m thì đón ai? Đón các “thằng chỏng*” chăng? Trong khi nếu điều động đúng lúc, đúng chỗ, đúng loại là tàu “há mồm” thì hoàn tất kế hoạch chính xác nhanh chóng an toàn và thành công. (*Thằng chỏng tức người chết trôi.)
HQ và QV Vùng I Duyên Hải có tàu há mồm không? Th/Tá Phạm Cang viết:
“Khoảng 10 sáng 25/3, trên tần số Không-Lục, tôi nhận ra tiếng người bạn cùng khóa, Thiếu Tá Trần Văn Thao, chỉ huy đoàn tàu quân vận (5 chiếc LCM) từ Đà Nẵng ra Thuận An để đón BĐQ, nhưng không thể nào liên lạc được. Anh hỏi tôi có thấy anh em mũ nâu không? Nhìn quanh tôi chỉ thấy vài anh thôi, tôi cho Thao biết. Thao nói với Cang:
– “Tôi sẽ đưa các bạn vào Đà Nẵng, chuẩn bị và đánh dấu bãi bốc” (4 trg 487).
Đúng lúc đó thì Cang nhận lệnh di chuyển về phía Nam đề gặp Long Mỹ, tức Đại Tá Nguyến Thế Lương LĐT/LĐ.147, để vào ĐN bằng tàu 801, nên Cang cám ơn Thao, còn Thao mang 5 tàu LCM đi đâu thì không ai biết, trong khi đó thì LĐ.147 ngồi chờ mãi đến 13 giờ mới có LSM đến, lại đậu xa bờ, không cứu được ai. TĐ.7 đã mất dịp được LCM của Th/Tá Thao cứu. Điều này chứng tỏ lệnh cho tàu của HQ vào đón TQLC là một mớ “bòng bong”, bòng bong đến nỗi không ai hiểu nổi WWWWW?
Còn câu hỏi về hoạt động của TQLC vào những ngày cuối của cuộc chiến thì tôi xin trả lời thật vắn tắt như sau:
Lúc 7 giờ sáng ngày 29/3/75, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng cùng với Đại Tá Nguyễn Thành Trí, TLP/TQLC, và quân nhân các cấp bơi ra tàu HQ tại bãi biển thuộc căn cứ (sân bay) Non Nước, Đà Nẵng. Về đến Vũng Tàu thì đóng quân trong căn cứ cũ của quân đội Úc sát ngay bãi biển sau Vũng Tàu, đồng thời TL/TQLC lại kiêm Quân Trấn Trưởng Vũng Tàu, kiểm soát mọi tàu thuyền. Phải nói thẳng rằng không có một đơn vị nào lại có điều kiện thuận lợi để “ra đi” như TQLC, nếu muốn.
Nhưng, trong khi giới chức cao cấp tại Saigon nhao nhao tìm trốn thì TQLC lại tiếp tục lên đường chiến đấu, đánh từ Long Khánh, Long Thành, Long Bình và cứ điểm tử thủ cuối cùng là Căn Cứ Sóng Thần Thủ Đức và rồi phải gẫy súng theo lệnh TT! Từ Tư Lệnh Phó, các Lữ Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, Trưởng Phòng, CHT/TTHL, các Đại Đội Trưởng đều vào tù. Các Tr/Tá Nguyễn Văn Nhiều, Nguyễn Đằng Tống, Huỳnh Văn Lượm, Th/Tá Trần Văn Hợp v.v.. đã “tử nạn” trong tù.
Thưa quý độc giả.
Cực chẳng đã tôi mới phải cố gắng ghi lại ngắn gọn diễn tiến biến cố “Thuận An” để trả lời cho những vị có chồng, con, anh, em, “mất tích” tại đây vào những ngày cuối tháng 3/75. Mỗi lần nghĩ đến là đầu tôi bốc khói khi nghĩ đến những người nằm trong những nấm mồ, như nấm mồ 132 bộ xương mà đồng bào thôn An Dương, Thuận An đã cải táng.
Dẫu biết rằng “thời thế thế thời phải thế”, không xoay đổi được vận nước, nhưng nếu như quý thượng cấp có trách nhiệm điều quân khiển tướng làm việc như những người lính chúng tôi, cùng lính chúng tôi chiến đấu, dẫu có thua, thì đâu xẩy ra những nấm mồ tập thể 132 bộ xương và còn bao nhiêu nữa đang nằm trong cát, dưới đáy biển Thuận An, và khắp mọi miền đất nước!
Thưa quý vị có thân nhân nằm lại Thuận An cũng như tôi có anh em nằm lại đó mà chưa tìm ra tung tích thì hãy hãnh diện thay vì thương tiếc. Anh em họ sống chiến đấu bên nhau thì khi chết cũng nằm bên nhau, chung một nấm mồ tập thể ngay tại nơi họ đã chiến đấu. Chắc những anh linh đó cũng chẳng muốn xa lìa đồng đội để về nằm riêng lẻ một mình. Xin nhớ đến các anh linh đã hy sinh cho chúng ta được sống, một lời cầu nguyện chung.
Nếu ai còn nhớ đến các anh linh tử sĩ thì hãy nhớ đến họ bằng câu kinh tiếng kệ, cây nhang, bó hoa, tùy lòng đóng góp cho chưong trình TPB của Hội HO. Hãy tin tưởng rằng không ai trong chúng ta, con dân VNCH, dám tìm danh lợi trên xác chết, trên các vết thương TB. Các anh sống khôn khi cầm súng chiến đấu thì thác cũng thiêng. Xin các anh phù hộ cho những người có tấm lòng, dù ở hải ngoại hay tại thôn An Dương, Thuận An, Huế.
CapToVan K.19