Lòng ta chôn một khối tình,
Tình trong giây phút mà thành thiên thu.
Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu,
Mà người gieo thảm như hầu không hay.
Đó là 4 câu thơ rất nổi tiếng trong bài Tình tuyệt vọng của thi sĩ người Pháp tên Félix Arvers do Khái Hưng phỏng dịch.
Khái Hưng tên thật là Trần Khánh Giư. Bút hiệu Khái Hưng của ông được lắp ghép lại từ các chữ cái của tên Khánh Giư.
Khái Hưng sinh năm 1896, xuất thân từ một gia đình quan lại ở xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Dương, nay thuộc Hải Phòng. Cha ông giữ chức Tuần phủ, và cha vợ ông là Lê Văn Đinh giữ chức Tổng đốc Bắc Ninh.
Khái Hưng theo học trường Albert Sarraut. Sau khi đỗ tú tài I, vì không muốn làm công chức, ông về Ninh Giang mở đại lý bán dầu hỏa. Sau đó lên Hà Nội dạy ở trường tư thục Thăng Long. Trong khoảng thời gian 1930 đến 1932, nhà văn Nhất Linh từ Pháp về nước và cũng dạy tại trường này. Chính ở ngôi trường này, Khái Hưng kết bạn với Nhất Linh và trở thành một cặp tác giả nổi tiếng qua các truyện ngắn đăng trên nhiều tờ báo thời đó. Tuy Khái Hưng hơn Nhất Linh 9 tuổi nhưng là người bước vào văn đàn sau Nhất Linh nên còn được gọi là Nhị Linh.
Sau đó Khái Hưng tham gia nhóm Tự Lực Văn Đoàn do Nhất Linh thành lập. Văn đoàn này xuất hiện công khai từ 1932, đến đầu năm 1933 thì tuyên bố chính thức thành lập với 3 thành viên trụ cột là Nhất Linh, Khái Hưng và Hoàng Đạo.
Sau đó Tự Lực Văn Đoàn ra tờ báo Phong Hóa và khi tờ này bị thực dân Pháp đóng cửa thì tờ Ngày Nay ra đời để thay thế. Cùng với tờ báo, Tự Lực Văn Đoàn cũng có nhà xuất bản Đời Nay để in ấn các tác phẩm.
Là một trong những cây viết trụ cột của nhóm, tiểu thuyết đầu tay của Khái Hưng là cuốn Hồn bướm mơ tiên (1933), và cũng là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Khái Hưng là Thanh Đức (1943) và cũng là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của nhóm Tự Lực Văn Đoàn.
Khái Hưng cũng viết chung với Nhất Linh hai tiểu thuyết là Gánh hàng hoa và Đời mưa gió và ra đời chung tập truyện ngắn Anh phải sống cùng năm 1934.
Giống như các cuốn tiểu thuyết khác của Tự Lực Văn Đoàn khác, tác phẩm của Khái Hưng thường đề cao tình yêu tự do, chống lại các lễ giáo phong kiến, ít nhiều mang tính cải cách xã hội. Khái Hưng cũng viết một số vở kịch ngắn. Trong những năm 1935 đến 1940, Khái Hưng là nhà văn được nhiều thanh niên thành thị ái mộ nhất.
Trong thời gian Đệ nhị Thế chiến, giống như Nhất Linh – Nguyễn Tường Tam, Khái Hưng cũng tham gia hoạt động chính trị khi tham gia Đại Việt Dân Chính Đảng, một đảng phái thân Nhật, vì thế ông bị nhà cầm quyền thực dân Pháp bắt giam. Đến năm 1945, sau ngày Nhật đảo chính Pháp, Khái Hưng được trả tự do. Ông cùng Hoàng Đạo, Nguyễn Tường Bách cho ra tờ Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới và viết một loạt bài báo, truyện ngắn, kịch ngắn trên các tờ báo của Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Theo lời kể của ông Nguyễn Tường Triệu, con nuôi của Khái Hưng, thì vào ngày 22/1/1947, Khái Hưng bị Việt Minh bắt giam tại Liên khu 3 (Lạc Quần, Trực Ninh) và sau đó bị xử tử tại bến đò Cựa Gà, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Khái Hưng là một trong những người bị thanh toán trong chiến dịch loại bỏ các đảng phái khác của đảng cộng sản VN trong thời gian kháng chiến chống Pháp.
* * *
Sau năm 1954, cả miền Bắc hầu như không ai dám nhắc đến cái tên Tự Lực Văn Đoàn, chứ nói chi đến nhà văn nổi tiếng là Khái Hưng. Thế nhưng tại miền Nam, dưới thời đệ nhất và đệ nhị cộng hòa, các tác phẩm được tái bản của ông luôn bán rất chạy, thậm chí được dùng làm sách giảng dạy trong môn Việt văn. Và trong sách giáo khoa ở bậc trung học đệ nhất cấp cũng không thiếu vắng những truyện ngắn đầy xúc động của Khái Hưng, một trong những nhà văn đã đóng góp vào tiến trình phong phú hóa tiếng Việt trong giai đoạn chuyển mình của đất nước.
Chắc chắn những ai theo học dưới mái trường của Việt Nam Cộng Hòa đều phải biết đến, và không sao quên được truyện ngắn có tựa đề Anh phải sống của nhà văn Khái Hưng, diễn tả quyết định đầy thương tâm của người vợ khi buông tay cho dòng nước lũ cuốn trôi với lời nhắn nhủ người chồng phải sống để nuôi hai đứa con thơ dại, thay vì chọn chết chung với vợ.
Người ta tin rằng, với văn tài của ông, nếu không bị cộng sản thủ tiêu, và nếu di cư được vào miền Nam sau năm 1954, nhà văn Khái Hưng sẽ có thêm những cuốn tiểu thuyết xuất sắc không kém gì cuốn Hồn Bướm Mơ Tiên hay Tiêu Sơn tráng sĩ.
Chính vì thế, việc thủ tiêu nhà văn Khái Hưng là một trong những tội ác mà “trời không dung, đất không tha” của đảng cộng sản VN. Và cho dù người cộng sản nỗ lực vùi dập suốt 70 năm qua, cái tên Tự lực Văn Đoàn nói chung, và Khái Hưng nói riêng, vẫn mãi mãi được nhiều người Việt nhắc nhở đến. Lý do là vì nhà văn Khái Hưng không chỉ nổi tiếng trên văn đàn VN trước thời tiền chiến, mà còn lừng lững đi vào lịch sử cận đại qua việc dấn thân tranh đấu để giành lại nền tự chủ của một dân tộc vốn tự hào có “Bốn ngàn năm văn hiến”.
VIỆT THÁI