CON TÀU ‘ĐẢO ÁNH SÁNG’! – ILE DE LUMIÈRE

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

,,,những chiếc tàu vớt người giưã biển khơi
của 2 thập niên 70 và  80 . MaiChi
*   

Ile de Lumière

Chiếc Tàu đã Cứu Hàng Chục Ngàn Thuyền Nhân Việt Nam!

Từ Thức

Nhân dịp các hội đoàn VN ở Đức xây tượng để tri ân ông Rupert Neudeck, người đã cứu trên 10 ngàn thuyền nhân với chiếc tầu Cap Anamur, cũng nên nhớ tới một chiếc tàu khác, Île de Lumière. Một chiếc tàu Pháp đã cứu hàng chục ngàn boat people khác.

Cái bắt tay lịch sử

Ile de Lumière (Đảo Ánh Sáng) cũng tạo ra cái bắt tay lịch sử của hai trí thức, triết gia hàng đầu của Pháp: một của phe tả, Jean Paul Sartre, một của phe hữu, Raymond Aron. Và làm lung lay, nếu không tan vỡ, giấc mộng thiên đường Xã Hội Chủ Nghĩa, thế giới đại đồng của cả một lớp trí thức không tưởng.

Ile de Lumière ra đời do sáng kiến của Bernard Kouchner, được gọi là French Doctor, vì đã sáng lập Médecins Sans Frontières, tổ chức Bác sĩ Không Biên Giới, đưa các y sĩ Pháp đi giúp đỡ nạn nhân chiến tranh hay thiên tai trên khắp thế giới.

Bernard Kouchner

Trí thức Pháp thời đó có một ranh giới không ai muốn, hay có can đảm, vượt qua: tả và hữu

Sartre và Aron chống nhau kịch liệt. Sartre thiên Cộng, đã từng nói “những người chống Cộng là những con chó” (Tout anticommuniste est un chien). Và không lỡ một cơ hội đả kích, miệt thị Aron.

Aron là triết gia, bình luận gia chính trị hiếm hoi đã viết sách, báo không ngừng nghỉ, để vạch trần bộ mặt thực của Cộng Sản, thực chất của chiến tranh VN, và hiểm họa độc tài toàn trị đe dọa thế giới.

Đó là một thái độ can đảm hiếm có ở một nước, một thời điểm, thiên tả đồng nghĩa với trí thức. Những người chống Cộng không dám bày tỏ ý kiến của mình, sợ bị coi là phản động (réactionnaire), chưa nói tới chống Cộng kiên trì, với những lập luận sắc bén như Raymond Aron hay Jean François Revel. Câu nói quen thuộc của trí thức thời đó: “Thà lầm lẫn với Sartre còn hơn có lý với Aron” (Il vaut mieux avoir tort avec Sartre que raison avec Aron).

Đó là cái phi lý của tinh thần mù quáng vì ý thức hệ. Sartre được ngưỡng mộ, Aron bị đả kích, chế nhạo, mặc dù với thời gian, người ta thấy, về chính trị, Sartre lầm từ đầu tới cuối, trong khi Aron có lý trên mọi phương diện. Sartre đã mua chuộc những lầm lẫn của mình bằng một thái độ đáng phục: khi tuổi đã cao, gác bỏ tự ái, đã cùng với Aron gõ cửa chính quyền, kêu gọi cứu giúp khẩn cấp các thuyền nhân Vietnam.

 

Từ Hải Hồng tới Ile de Lumière

Một ngày gần cuối năm 1979, chuyện khó tin nhưng có thực đã xẩy ra: hai ông lãnh tụ trí thức không đội trời chung, Satre và Aron, ngồi lại với nhau, lên tiếng ủng hô dự án Île de Lumière, kêu gọi dân Pháp mở rộng bàn tay tiếp đón thuyền nhân, nạn nhân của cái mà trước đó những trí thức như Sartre nghĩ là một cuộc giải phóng. Khi quân Khmer Đỏ tiến vào Pnom Penh, tờ báo trí thức thiên tả Le Monde viết: dân chúng chen lấn hai bên đường đón rước.

Thảm trạng của boat people trên chiếc thuyền Hải Hồng trên màn ảnh truyền hình đã làm họ tỉnh ngủ.

Hình ảnh lạ hơn nữa là Sartre cùng với Aron vào điện Elysée, yêu cầu tổng thống
Giscard d’Estaing đón nhận những thuyền nhân trên lãnh thổ Pháp.

Sartre và Aron tại dinh Tổng thống Pháp. Sartre bên trái,
triết gia Gluckmann ở giữa, Aron, bên phải

Sartre là một trí thức anarchiste, không nhìn nhận nhà cầm quyền, hay những cơ cấu của xã hội trưởng giả, đã từng từ chối giải Nobel Văn chương. Nước Pháp còn là nơi tiếng nói của những trí thức lớn có ảnh hưởng đáng kể. Việc Sartre cùng với Aron vào dinh Tổng thống kêu gọi giúp boat people gây mộ tiếng vang lớn trong dư luận.

Tổng thống Giscard d’Estaing chấp thuận, dân chúng vui lòng đón tiếp và tận tình giúp đỡ trên 128. 000 thuyền nhân, chỉ trong những năm đầu, trong đó nhiều người đã được tàu Ile de Lumière cứu vớt ngoài khơi.

Nên nhớ lúc đó kinh tế Pháp đang kiệt quệ. Chính phủ Pháp đã quyết định ngưng nhận di dân. Việc đón tiếp, giúp đỡ, cấp giấy cư trú và giấy phép hành nghề dễ dàng cho hàng trăm ngàn boat people đi ngược lại chích sách nhà nước đã được dân Pháp ủng hộ. Hầu như không có một phản ứng tiêu cực nào, tại một xứ chia làm hai; cái gì phe tả cho là tốt, phe hữu cho là xấu. Hay ngược lại.

Là sáng kiến của Bernard Kouchner, dự án “Một Con Tàu cho Việt Nam” được sự ủng hộ tích cực của các trí thức tả phái nổi danh như triết gia Michel Foucault, ca sĩ Yves Montand, tài tử Simone Signoret, trước đó chống Mỹ, chống chiến tranh Vietnam.

Hình Sartre ngồi họp báo với Aron sau khi gặp Tổng thống Pháp chạy trên trang nhất tất cả các tờ báo lớn nhỏ. Ngồi giữa là André Gluckmann, triết gia thiên tả, Maoiste (người tôn thờ Mao), sau vụ này trở thành chống Cộng. Ngày nay, tất cả đều đã qua đời, Sartre, Foucault, Aron, Gluckmann , Signoret, Montand. Bernard Kouchner về hưu. Sau khi tàu Ile de Lumière ngưng hoạt động, Kouchner rời Médecins Sans Frontières, sáng lập và điều hành tổ chức Médecins Du Monde (Y Sĩ Thế Giới), trước khi trở thành Tổng trưởng Ngoại Giao dưới thời Sarkozy.

Nhà thương nổi

Ile de Lumière là một chiếc tàu cũ, 1500 tonnes, 90m chiều dài, được sửa cấp tốc, chạy tới đảo Poulo Bidong, ngoài khơi Mã Lai, khởi đầu dùng làm nhà thương nổi, với 100 giường, chữa trị cho 20,000 thuyền nhân trên đảo.

Thuyền trưởng François Herbelin, 29 tuổi, nói đó là những kỷ niệm sâu đậm nhất trên đời ông. “
Tôi rất cảm phục những người Việt rất bình tĩnh, có tổ chức, có tư cách (digne), quyết tâm ra khỏi đại nạn.
Khi mới tới, họ kiệt lực, nhưng hồi phục rất nhanh, nghĩ tới tương lai”.

Bên trái: thuyền trưởng Herbelin, bên phải: Kouchner

Chín tháng sau, Ile de Lumière bắt đầu sứ mạng mới: ra khơi cứu vớt những thuyền nhân phấn đấu trên biển cả,
giữa cái sống và cái chết, giữa mưa bão và hải tặc.

Hàng triệu người đã liều mạng vượt biển tìm tự do, với những phương tiện thô sơ gây kinh ngạc cho người Tây phương. Hàng trăm ngàn người bỏ mạng trên biển cả. 

Ile de Lumière đã cứu hàng chục ngàn người, chở về Poulo Bidong chờ ngày được nhận đi định cư ở Hoa Kỳ, Canada hay Âu Châu.

Sau 14 tháng ngược xuôi, Ile de Lumière được thay thế bởi một chiếc tầu mới, Ile de Lumière II. Herbelin thành hôn với một phụ nữ thuyền nhân Việt Nam, trở thành thuyền trưởng một tàu thương mại. Làn sóng vượt biển bớt đi từ 1986, khi VN bắt đầu cởi trói, ít nhất về kinh tế.

Devoir d’ingérence

Ile de Lumière đánh dấu một phong trào tương trợ đáng cảm phục ở Pháp, và sau đó ở các nước Tây Phương. Bernard Kouchner nhân đó đưa ra chủ thuyết “Devoir d’ingérence” (Bổn phận phải can thiệp), theo đó các nước dân chủ Tây phương có bổn phận phải can thiệp, để cứu các nạn nhân, tại những nơi nhân quyền bị chà đạp. Sau đó, các nước Tây phương đã nhân danh nguyên tắc này để đổ bộ can thiệp ở Kosovo.

Ile de Lumière cũng đánh dấu sự thức tỉnh của trí thức thiên tả Pháp. Trước đó, từ 1975 tới 1979, Khmer Đỏ thảnh thơi tàn sát ở Cambodge, không ai phản ứng gì. Người ta bịt tai, bịt mắt, bịt miệng để khỏi nghe, khỏi thấy, khỏi nói tới những sự thực phũ phàng.

Người ta không quên câu nói nổi tiếng của Sartre, khi giải thích tại sao ông ta không đề cập đến Goulag và những chà đạp nhân quyền ở Nga Xô Viết: Il ne faut pas désespérer Billancourt. Không nên làm Billancourt tuyệt vọng. Boulogne Billancourt là một ngoại ô của Paris, nơi có trụ sở của hãng Renault, tượng trưng cho thợ thuyền Pháp. Không đả động gì tới những tệ hại ở Nga để khỏi làm tuyệt vọng giới thợ thuyền, đang mơ thiên đường XHCN như ông già trong thơ Tố Hữu, ngồi đan rổ mơ nước Nga.

Raymond Aron, tác giả cuốn L’Opium Des Intélectuels (Thuốc phiên của trí thức) viết: những trí thức thiên tả là những nhà cách mạng phòng khách, căm ghét xã hội đang sống, một xã hội cho họ một đời sống sung túc và đủ mọi quyền tự do, trong đó có quyền tự do ngôn luận.

Sau làn sóng boat people, sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ, phong trào thiên tả đi xuống, đảng Cộng Sản Pháp trước đó là một trong hai chính đảng lớn nhất, làm mưa làm gió ở Pháp, ngày nay trở thành một đảng bỏ túi, với trên 1% phiếu bầu. 

(Paris, Septembre 2017)

Thi Vũ  – Võ Văn Ái

ĐẢO ÁNH SÁNG

Isle of Light: A Look Back at the Boat People and the European Left

Nhìn lại phong trào Người Vượt Biển và giới Tả khuynh Châu Âu
 

Lời giới thiệu : Tạp chí World Affairs (Thế giới Vụ) ra đời từ thế kỷ XIX, năm 1837, hiện là tạp chí của giới trí thức và chính trị gia Hoa Kỳ. Khách mua báo giấy dài hạn, ngoài số độc giả bình thường còn là Toà Bạch Ốc và Quốc hội Hoa Kỳ dành cho các Viên chức, Thượng Nghị sĩ và Dân biểu. Chưa kể 12 nghìn độc giả mua bản điện tử Email, 100 nghìn người đọc qua Facebook, và 40 nghìn người theo dõi qua Twitter của World Affairs.

Bài viết “Đảo Ánh Sáng, Nhìn lại phong trào Người Vượt Biển và giới Tả khuynh Châu Âu”- Isle of Light: A Look Back at the Boat People and the European Left, đăng trên số tháng Ba và Tư năm 2014 của  World Affairs, được ông James S. Denton, Chủ nhiệm phát hành, giới thiệu trong Lá Thư Người Biên tập như sau:

“Thêm vào số bài về những diễn biến quốc tế, chúng ta có một tiểu luận như món quà thưởng ban thêm của nhà văn Việt Nam Võ Văn Ái đưa chúng ta về lại kinh đô Paris năm 1978, khi tin tức xuất hiện chuyện chiếc tàu của khoảng hai trăm năm mươi người tị nạn Việt Nam chết đói và mất nước bị mắc cạn trên bờ biển Mã Lai mà chẳng có quốc gia nào đón nhận. Họ trốn khỏi triều đại khủng bố của Cộng sản Bắc Việt ngự trị lên Miền Nam trước đó ba năm, sau cuộc rút quân nhục nhã của Hoa Kỳ”

“Thời ấy, nửa triệu người tị nạn chết chìm trên biển khi tìm cách trốn khỏi ngục tù gulag của Hà Nội vừa thiết lập, và đã giết nửa triệu người khác trong quãng thời gian 1975 đến 1985. Nhưng chủ đề của Võ Văn Ái là một tia sáng, bị lịch sử bỏ quên, chiếu rực vào tấn thảm kịch. Vào lúc những người tị nạn vô vọng trong dòng nước chết, một nhóm trí thức Pháp có gốc rễ tả khuynh tung chiến dịch vận động quốc tế để đi vớt và tái định cư hàng nghìn những “thuyền nhân” này, một từ ngữ được phổ biến. Họ vận động giới tả khuynh Pháp và Châu Âu, không những tham gia nỗ lực nhân đạo này, mà còn xác nhận và tố cáo sự tàn bạo của những kẻ mà trước đây họ hậu thuẫn mạnh mẽ. Điều suy nghĩ can đảm thứ hai này đã gây tác động — không riêng trong nghĩa cứu sống người, mà trong nghĩa khẳng định tư cách và ứng xử của người trí thức”.

Những chú thích trong bài viết, bản dịch Việt ngữ hôm nay, nhằm cho độc giả người Việt biết thêm các nhân vật quốc tế, vốn không có trong bài đăng trên World Affairs.

Một ngày tháng 11 năm 1978, đang ngồi trong quán Cà phê bên bờ tả ngạn sông Seine, bỗng nghe tin loan 2564 người vượt biển cập bờ Mã Lai trên con tàu han gỉ Hải Hồng. Họ đã trốn khỏi Việt Nam trong niềm tuyệt vọng đi tìm tự do và tị nạn ở nước ngoài. Sau mười sáu ngày lênh đênh trên Biển Đông, vùi dập trong bão tố, khi thì nóng cháy nung người, không thức ăn nước uống, họ cập bờ Nam Dương rồi Mã Lai, nơi nào cũng bị lính gác biển xua đuổi. Họ không còn đất sống, và tàu không thể đi xa hơn. Kẹt lối không người cứu, đói cồn cào và cơ thể mất nước, họ đang chết trước mắt chúng ta khi giăng tấm biển viết bằng tiếng Anh bên hông tàu : “LHQ ơi ! Hãy cứu vớt chúng tôi.”.

Họ không phải là những người đầu tiên làm cuộc hải trình vô vọng thoát khỏi Việt Nam. Từ năm 1975, khi Hà Nội “giải phóng” Miền Nam và chấm dứt cuộc chiến dai dẳng, hơn một triệu người liều chết trên những chiếc thuyền đổ nát để thoát xa cuộc khủng bố. Nửa số người trong họ đã bỏ thân — vì chết đuối, vào bụng cá mập, hay bị hải tặc hãm giết trong vịnh Thái Lan. Lúc ấy, truyền thông quốc tế chẳng chú ý bao lăm chuyến hải hành hoảng hốt này, ai ai cũng chỉ muốn phủi tay với vấn đề Việt Nam. Nhưng con tàu Hải Hồng lại hình tượng lên tấn thảm kịch nhân sinh nơi phòng khách mỗi nhà. Uyển ngữ “thuyền nhân” trở thành chuyện đầu môi.

Lẽ ra những người Việt Nam này đã phải thoát đi trong những ngày cuồng động khi Hoa Kỳ rút quân. Nhưng họ đã ở lại. Nhiều người chống chính thể quân đội của Tướng Thiệu ở miền Nam, đặt niềm tin trong hy vọng họ có thể góp tay tái thiết và làm lại đất nước. Nói cho cùng, thì chiến tranh đã chấm dứt, cộng sản cũng là người Việt Nam thôi. Hà Nội đã ký kết Hoà ước Paris hứa hẹn kiềm chế mọi cuộc trả thù. Người cộng sản có thể đối đãi hung ác không khoan nhượng với kẻ thù, nhưng chắc hẵn sẽ có cái nhìn khác với anh chị em đồng chủng ?

Thế nhưng, những ai mắc mình vào ảo tượng này, những ai còn tin rằng có chỗ đứng cho mình trên đất nước thống nhất dưới mái nhà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam theo đường lối cai trị của Hà Nội, thì chẳng có sai lầm nào sai lầm hơn. Tức khắc nhà cầm quyền Cộng sản phân loại dân chúng Miền Nam thành ba thành phần : bọn ngụỵ quân phản động, bọn nguỵ quyền phản động, và nhân dân phản động. Nói tóm, toàn dân miền Nam đều “phản động”. Những tháng kế tiếp cuộc cưỡng chiếm, một mạng lưới rộng lớn “trại cải tạo” phủ trùm khắp lãnh thổ miền Nam, mà kỳ thật chỉ là những trại tập trung lao động khổ sai, giống như hệ thống Lao cải bên Tàu”.

“Khởi sự lùa đi những sĩ quan rồi binh lính Việt Nam Cộng hoà, tiếp đến là các nhà văn, nghệ sĩ, giáo sư đại học, nhà báo, nhà hoạt động công đoàn, nhà giáo, sinh viên, nông gia, tất cả mọi thành phần xã hội đoàn lớp kéo nhau vào “trại cải tạo”. Thoạt đầu họ được lệnh mang áo quần và lương thực đủ dùng cho hai tuần lễ. Nhưng biết bao người chẳng trở về. Có những kẻ mút mùa hai mươi năm trong những trại này, hay được trả tự do khi sức khoẻ kiệt cùng, và nhắm mắt khi tới nhà.

Dù chẳng có bản thống kê nào được công bố, nhưng Hà Nội đã thú nhận có hai triệu rưởi người bị giam giữ trong các trại cải tạo từ năm 1975 đến 1985. Khoảng một trăm năm mươi nghìn người bị xử tử hình, với hàng trăm nghìn người chết vì đói, kiệt sức, hay đau ốm không thuốc men trong hệ thống tù ngục Gulag Việt Nam. Cùng thời gian, hàng trăm nghìn dân chúng bị đưa đi Kinh tế mới làm vật trái độn dọc biên giới Việt Trung và Kampuchia. Ai chống đối sẽ bị bỏ tù vì tội phá rối an ninh quốc gia.

Trong quán cà phê một buổi tối năm 1978 ấy, các bạn Việt và tôi đều nghĩ rằng con tàu Hải Hồng không chở đi những người tị nạn kinh tế, mà là những người đi tìm tự do thoát khỏi chế độ độc tài toàn trị, và đây là chuyến hải trình không tiền khoáng hậu. Trải qua lịch sử bốn nghìn năm, vào những giai đoạn bi thảm nhất vì nạn đói hay chiến tranh, người Việt chúng tôi chưa bao giờ rời bỏ mảnh đất chôn nhau cắt rốn của cha ông. Thế mà nay Người Vượt Biển đã bỏ phiếu bằng đôi chân đổi lấy sự sống.

Trong nhóm bạn chúng tôi thời ấy có chị Claudie và anh Jacques Broyelle, những nhà Hán học và cựu Mao-ít mới trở về từ Trung quốc, với nỗi thất vọng tràn trề về chế độ Bắc Kinh; Alain Geismar, cựu lãnh tụ sinh viên nổi dậy năm 1968 từng làm lung lay chính phủ De Gaulle tại Pháp; và André Glucksmann, nhà văn được xem như khuôn mặt tân triết gia của thời đại. Những người bạn nung nấu trong nhiệt tình lý tưởng, tất cả mang nặng quá khứ tả khuynh, nhưng chẳng ai còn ảo tượng về đời sống con người dưới chế độ Cộng sản. Chúng tôi họp nhau và quyết định phải làm một cái gì cho lớp Người Vượt Biển.

Thập niên 1970, Paris là bến đổ ẩn náu cho các nhà ly khai Liên xô và Đông Âu. Đầu năm 1976, tôi xuất bản tạp chí Quê Mẹ bằng tiếng Việt, một thứ samizdat cổ võ cho phong trào dân chủ và nhân quyền, các nhà ly khai này là kẻ hậu thuẫn đầu tiên cho chúng tôi. Nữ thi sĩ Nga Natalya Gorbanevskaya, nhà toán học Leonid Plyushch, người xứ Ukraine, và Vladimir Bukovsky tham gia cuộc vận động của chúng tôi mà chẳng cần chúng tôi mời gọi. Nhà văn Lỗ Mã Ni, Paul Goma, viết trên tạp chí Quê Mẹ số Quốc Kháng 30 tháng Tư năm 1978 rằng : “Ngay cả những người phu quét đường ở thủ đô Bucharest còn thấu tỏ hơn các chính trị gia Tây phương về những chi đang xẩy ra tại Việt Nam, và họ có chánh kiến. Chỉ trong vòng bốn năm mà Cộng sản Việt Nam trả thù và tàn phá hơn ba mươi năm chiến tranh”.

Trong khi các nhà ly khai khắn khít bảo bọc mục tiêu chiến đấu của chúng tôi, thì việc thuyết phục công chúng Tây phương vô cùng khó khăn, đặc biệt trong giới tả khuynh. Thời chiến tranh Việt Nam, hàng nghìn người đổ xuống các đường phố ở Paris, Berlin, Washington, Tokyo… và nhiều nơi khác để tố cáo xâm lược Mỹ vào Việt Nam, hô gào chấm dứt sự chém giết. Thế nhưng ngày nay, cùng những người xuống đường biểu tình mấy năm xưa ấy, lại im lặng thin thít khi hàng nghìn người Việt Nam chết âm thầm trong các trại cải tạo hay chết đuối trên Biển Đông. Giới phản chiến tả khuynh chẳng sao chấp nhận chuyện các “anh hùng liệt sĩ” chiến đấu cho tự do thời trước, nay trở thành kẻ bạo ngược, và những kẻ “tay sai của đế quốc Mỹ” đang hoá thành nạn dân.

Đáp ứng cuộc vận động cho Người Vượt Biển của chúng tôi, đông đảo trí thức Pháp toàn tâm và tự nguyện hậu thuẫn, không những cứu sống hàng nghìn người lâm nạn, mà còn phá vỡ lối nhìn rập khuôn tác động sâu sắc quan điểm giới tả khuynh Châu Âu và Pháp.

Cuộc họp đầu tiên vào tháng 11 năm 1978 tại Paris, chúng tôi tập trung việc xây dựng phong trào nhắm mục tiêu cứu sống Người Vượt Biển. Tối hôm sau chúng tôi gặp sử gia Ilios Yannakakis trong một căn hộ ở đại lộ Saint Michel, chuyển đề án thành sự thực. Ban đầu chúng tôi quyết định ra tuyên cáo khẩn về vụ Hải Hồng để lấy tối đa chữ ký hậu thuẫn. Nhưng tôi thúc đẩy các bạn phải tiến xa hơn vụ Hải Hồng, bởi vì Hải Hồng không là sự cố riêng biệt nhất thời. Đang có hàng nghìn trường hợp như thế trên Biển Đông, và người Vượt biển lâm nạn mỗi ngày. Lúc ấy, nhà văn Bernard-Henri Levy đề nghị làm cuộc biểu tình lớn tấn công Toà Đại sứ Việt Cộng tại Paris. Chợt một ý kiến bật ra — tại sao không đưa tàu ra Biển Đông vớt Người Vượt Biển ? Thế là một Uỷ ban thành lập ngay, cử nhà văn nữ Claudie Broyelle làm chủ tịch, dự án “Một Chiếc Tàu Cho Việt Nam” nổi lên trên mặt nước nhân tình.

Ngày 17 tháng 11 năm ấy, 1978, chúng gửi đi lời kêu gọi đến các cơ quan báo chí truyền thông :

SOS – Một Chiếc Tàu Cho Việt Nam

2564 người tị nạn trên con tàu Hài Hồng. Họ vừa rời khỏi Việt Nam trước bao hiểm nguy tính mạng. Chúng ta phải giúp đỡ họ tìm đất sống tiếp đón. Phải tức khắc cứu họ ra khỏi cảnh lênh đênh trôi nổi. Chính phủ Pháp vừa tuyên bố đón tiếp họ, ta hãy tin lời đó đi. Và hãy cùng nhau tới Kuala-Lumpur đón những nạn nhân trên tàu Hài Hồng. Tuy nhiên, không riêng gì nước Pháp phải lo chuyện này. Và con tàu Hải Hồng không là con tàu độc nhất.

Mỗi lần có những chuyến vượt biển chênh vênh trên bão táp giữa Thái Bình dương, hàng nghìn người Việt Nam đang đi tìm lẽ sống. Một nửa bị chết chìm, bị cưỡng bức, bị bọn hải tặc cướp giết. .. Chúng ta hãy tìm cho ra những quốc gia đón tiếp họ tại Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Á. Và hãy làm hơn nữa : Hãy tới tận nơi cứu sống họ. Một chiếc tàu thường trực hoạt động trên Biển Đông để tìm và vớt họ — những người Việt Nam hy sinh thân mạng rời nước ra đi.

Không riêng gì các chính quyền phải lo lắng, dù nhiều nước đã tích cực cứu trợ. Đây là trách vụ mà chúng ta phải lo toan cứu cấp tức thì. Nhu cầu cấp thiết : Một chiếc tàu, một đoàn thuỷ thủ và tiền bạc. Đó chính là chiếc phao cứu mạng, mẩu đất nương tựa phò nguy. Để sau đó đưa tới các xứ sở tiếp thu.

Chúng tôi ký tên dưới đây  ngày hôm nay, xin đem thân quy hợp những cơ hội và phương tiện cần thiết để thể hiện cuộc cứu sống cấp kỳ này.

Paris, ngày 17 tháng 11 năm 1978
 

Vào lúc Uỷ ban “Một Chiếc Tàu Cho Việt Nam” chính thức ra đời ngày 27 tháng 11 năm 1978, chúng tôi thu nhận được 160 chữ ký của các nhân vật nổi danh hậu thuẫn chiến dịch. Danh sách bao gồm các siêu sao điện ảnh, nghệ sĩ, nhà văn, nhạc sĩ, nhà báo, nhà hoạt động công đoàn, và chính giới đủ mọi khuynh hướng — đọc lên như cẩm nang Who’s Who các nhà văn hoá Paris: Yves Montand, Brigitte Bardot, Simone Signoret, Simone de Beauvoir, Mstislav Rostropovich, Eugene Ionesco, Lionel Jospin, Michel Rocard, Jean Lacouture (nhà văn viết tiểu sử Hồ Chí Minh), Michel Foucault, Claude Mauriac, Olivier Todd, Jean François Revel, Bernard Kouchner…

Lần đầu tiên, kể từ năm 1945, hai triết gia đại thụ của Pháp, nhưng thù nghịch không đội trời chung, người phóng khoáng Raymond Aron và Jean-Paul Sartre, có thời biện hộ cho Staline — gặp nhau nơi lời kêu gọi cứu sống những nạn dân của chế độ độc tài toàn trị Hà Nội. Vài tháng sau, trong cuộc họp báo do Uỷ ban Con Tàu tổ chức, hai người ngồi cạnh bên nhau — lần đầu tiên trên ba mươi năm trời họ mới cùng nhau ngồi chung trong một căn phòng ở Paris.

Sartre, kẻ địch thủ cuồng hung chống Mỹ can thiệp vào Việt Nam, và hậu thuẫn cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam do Cộng sản giật dây, đã tuyên bố rằng vì “nghĩa vụ đạo đức” và “nhân quyền cấp bách phải cứu sống những con người lâm nạn”, dù rằng họ không bạn hữu với chúng ta. Lời tuyên bố của Sartre mang tác động khổng lồ. Với tiếng tăm uy tín của Sartre, người dám từ khước Giải Nobel Văn chương, được làm thước đo cho một lời phát biểu thời thượng trong giới tả khuynh Paris thời bấy giờ : “Thà sai lầm với Sartre còn hơn là có lý với Aron”. Thế là “Con Tàu Cho Việt Nam” mớm cho mọi người chuyện khả thể, là chúng ta đều có lý với cả hai người.

Mối khẩn nguy hiện hình trong thực tế. Lúc chúng tôi họp nhau vào tháng 11 năm 1978, mỗi giờ có 55 người vượt biển cập bờ biển Mã Lai, số lượng này ngày càng tăng. Theo Cao uỷ Tị nạn LHQ, đã có một triệu rưởi người Vượt Biển rời Việt Nam thời gian ấy, nhưng một nửa chết trên đại dương. Các trại tiếp cư ở Mã Lai, Phi Luật Tân, Nam Dương, và Hồng Kông đầy ắp như muốn vỡ ra. Bỗng nhiên, ông Phó Tổng thống Mã Lai, Mahatir Mohamad, tuyên bố không chấp nhận người Vượt biển, và xuống lệnh đuổi bảy mươi sáu nghìn thuyền nhân ra biển. Một sắc luật ban hành cho phép bắn vào bất cứ ai quay lại vào bờ. Những ai tự phá huỷ thuyền của mình trong niềm tuyệt vọng mong được tị nạn đều bị lâm lụy.

Chống lại bối cảnh ấy, chúng tôi quyết gia tăng nỗ lực đưa con tàu đi vớt bằng bất cứ giá nào. Hồi đó Olivier Todd làm Chủ bút tuần báo Express, đã ráo riết vận động giới truyền thông. Hầu hết các báo chí lớn của Pháp đều cho đăng miễn phí lời kêu gọi của chúng tôi, kể cả tuần báo bình dân Télé 7 Jours, có số lượng phát hành bảy triệu bản mỗi tuần. Tiền đóng góp bắt đầu gửi tới, cùng với những hứa hẹn cho nhà ở, công ăn việc làm, áo quần, thực phẩm, đủ thứ không thiếu thứ nào. Mổi buổi sáng toà soạn Quê Mẹ ở Gennevilliers, ngoại ô bắc Paris, nhận được năm trăm bức thư hậu thuẫn như thế.

Do thị xã Gennevilliers nằm dưới sự cai quản của đảng Cộng sản Pháp, trong vòng “đai đỏ” bao quanh thành phố Paris, ông thị trưởng không mấy vui có một cơ sở như chúng tôi, nên nhiều lần hăm doạ tống xuất cơ sở Quê Mẹ khỏi thị xã. Song với tình thế lúc bấy giờ, ông ta đành cúi đầu trước sự liên đới hậu thuẫn lời kêu gọi vang ra rộng rãi của chúng tôi.

Phải nói một trong những người đầu tiên ủng hộ chiến dịch của chúng tôi là Irving Brown, Trưởng phòng Châu âu của Công đoàn Hoa Kỳ AFL-CIO. Chúng tôi tiếp xúc ông một năm trước đó, 1977, khi chúng tôi tổ chức cuộc họp báo quốc tế đầu tiên tại Paris để công bố hệ thống tù cải tạo tại Việt Nam với bản Chúc thư đầu tay của các tù nhân chính trị Việt Nam do Đoàn Văn Toại, một trong những lãnh tụ sinh viên đấu tranh, vừa thoát khỏi Việt Nam mang tới. Đó đã là lần đầu tiên tiếng nói của giới tù nhân chống kháng thuộc miền Nam cũ tố cáo những ghê tởm độc địa của hệ thống trại cải tạo. Brown thấy ngay ý nghĩa của bản Chúc thư, và tức khắc ra tay giúp đỡ.

Không những ký tên hậu thuẫn chúng tôi, ông còn lấy thêm chữ ký của Chủ tịch Công đoàn AFL-CIO, George Meany, và Paul Hall, Chủ tịch Liên đoàn Thuỷ thủ Hoa Kỳ, đang có mặt tại Paris. Trước đây tôi chưa hề quen biết giới thuỷ thủ, nhưng Hall ứng vào mắt tôi hình ảnh một thuỷ thủ lão luyện. Mái tóc bạc, cử chỉ nghiêm nghị, cứng rắn, chắc hẳn ông phải ở cấp chỉ huy. Trong mắt ông, chúng tôi là bọn tài tử. Ông ngắt lời tôi với vẻ khó chịu : “Các anh nói tàu — ship, chứ đâu phải thuyền — boat, phải không”. Nhưng rồi ông cũng chào đón mục tiêu chúng tôi nhắm. Sau buổi nói chuyện, tôi mừng rỡ gọi điện cho các bạn trong Uỷ ban Con Tàu thông báo tin bất ngờ : “Chúng ta chưa thể có một con tàu, nhưng Công đoàn AFL-CIO hứa giúp chúng ta một thuỷ thủ đoàn điều hành tàu không lấy lương”.

Irving Brown đề nghị phát huy chiến dịch bằng một cuộc họp báo quốc tế tại Paris về phong trào Người Vượt Biển. Nhấc vài cú điện thoại, Brown đã nhận được lời hứa của những nhân vật đầy biểu tượng như Leo Cherne, Chủ tịch Uỷ ban Cứu trợ Quốc tế, và nhà hoạt động dân sự Bayard Rustin tham gia họp báo. Tiếc thay cuộc họp báo chẳng bao giờ xẩy ra. Nguyên do vì có tranh chấp ý kiến trong nội bộ Uỷ ban. Bernard Kouchner và vài người không ưa Công đoàn AFL-CIO nhúng tay, e ngại sự dấn thân mạnh mẽ chống Cộng làm dao động phong trào. Nhóm người này nại cớ “Con Tàu Cho Việt Nam” phải thuần tuý phi chính trị.

Không thể là một con tàu cứu người khỏi chế độ Cộng sản, mà là “chiếc xe cứu thương” trên biển, một thứ bệnh viện nổi bỏ neo bồng bềnh trên mép biển Đông Nam Á. Với chúng tôi, hay những bạn như Alain Geismar, thì vị trí chính trị là chính yếu. Người Vượt Biển hy sinh thân xác mang lại thông điệp cho thế giới về bản chất chế độ Cộng sản. Nghĩa vụ của chúng tôi không những phải cứu họ, mà còn phải vọng âm tiếng nói họ. Mãi lâu sau, bị công luận tác động, Kouchner mới chịu thay đổi quan điểm. Nhưng Irving Brown nhận thức ra sự bất hoà nên bỏ dự tính ban đầu.

Mặc dù tiền được gửi tới, chúng tôi phải chi trả hai mươi nghìn quan Pháp (khoảng hai nghìn Mỹ kim) mỗi ngày cho việc ăn uống và cung cấp y tế, nhưng ngân qũy chưa đủ cho Con Tàu lên đường. Đang cơn bối rối, một sự kiện làm đảo lộn hoàn cảnh. Đài Truyền hình Hoà Lan đến toà soạn Quê Mẹ xin phỏng vấn tôi. Ông ký giả thuộc đảng Xã hội, tâm tư ông giống như đa số người Hoà Lan ủng hộ cho phong trào Hoà bình trong cuộc chiến Việt Nam.

Tôi đang giải thích chiến dịch cứu Người Vượt Biển, thì đột nhiên ông ta hỏi : “Vì sao ông cứu những người miền Nam này ? Bọn này nối giáo cho chế độ quân phiệt tham nhũng, chúng là bọn ma cô, đầu cơ trục lợi, rất đáng để cho chúng lâm nạn ngày nay. Vì sao ông — vì sao chúng tôi, phải cứu giúp họ ?”.

Tôi nhẹ nhàng đáp : “Nếu ông đang đi cạnh những con lạch ở thành phố Amsterdam và thấy có người đang chết chìm trong nước, phản ứng ông lúc ấy ra sao ? Ông ngừng lại và lên tiếng hỏi “Người chết chìm kia khuynh tả hay khuynh hữu ?” — hay ông nhảy ngay xuống nước cứu người ấy ?”.

Cuộc phỏng vấn trước lễ Giáng Sinh năm 1978, đem về chiếu tại Hoà Lan mấy lần. Chỉ trong một tuần lễ nhân dân Hoà Lan gửi tặng 8 triệu quan Pháp (tương đương một triệu Mỹ kim thời ấy) đáp ứng lời kêu gọi của chúng tôi (tôi nhớ mãi khi Truyền hình Hoà Lan gọi sang thông báo, tôi đã bàng hoảng hỏi “Mấy con zeros sau số 8 ?”). Một sự tăng cường tài chính khích lệ tuyệt vời, đưa chiến dịch vào quỹ đạo quốc tế. (Vào thời điểm chúng tôi đưa tàu ra biển, có thêm hàng chục tàu khác cứu trợ trên Biển Đông do những uỷ ban nối gót ra đời tại Na Uy, Đức, Ý Đại Lợi, vân vân).

Tiền có đó, nhưng vấn nạn khôn giải khác hiện ra — kiếm không ra tàu cho thuê. Chúng tôi cần thuê loại tàu cắm cờ Pháp để đoan chắc có thể cứu người Vượt biển nhập cảnh Pháp. Tất cả tàu cho thuê ở Pháp nằm dưới sự bảo trợ tập trung của một Công đoàn. Bất hạnh cho chúng tôi, Công đoàn này nằm trong tay Đảng Cộng sản Pháp, Confédération Générale du Travail (CGT, Tổng Liên đoàn Lao động).

Thời gian ấy Đảng Cộng sản rất mạnh — một phần tư cử tri Pháp bỏ phiếu cho phe Cộng sản tại Pháp, và Tổng Liên đoàn Lao động rất thế lực, một thứ quốc gia trong quốc gia, có khả năng đình công làm tê liệt toàn quốc trong chớp nhoáng. Khi Tổng Liên đoàn Lao động biết rằng chúng tôi thuê tàu đi vớt Người Vượt Biển Việt Nam, họ liền phá bĩnh các nỗ lực điều đình thuê mướn. Tuần này sang tuần khác kéo lê, chiến dịch trên báo chí Pháp khựng lại. Tuần báo cực hữu Minute chạy hàng tít lớn “Con Tàu Ma”, nhật báo Cộng sản Pháp L’Humanité (Nhân loại) tung những bài mạ lỵ chiến dịch con tàu.

Bỗng nhiên từ trời xanh hiện ra sự cứu thoát. Nửa khuya tiếng điện thoại của một nữ độc giả tạp chí Quê Mẹ gọi tôi từ Nouméa, thủ phủ xứ New Caledonia, quần đảo nằm trên Thái bình dương giữa Úc châu và Fiji. Chồng bà là người Pháp, có con tàu dài tám mươi lăm thước cho thuê. Tàu thượng cờ Pháp. Bà kể cho chồng nghe chuyện Việt Nam, các trại cải tạo, những khổ đau nguy biến của người vượt biển đi tìm tự do. Ông liền đồng tình giúp đỡ. Chiếc tàu mang tên kỳ diệu — Île de Lumière — Đảo Ánh sáng. Dường như định mệnh đặt để. Chiếc tàu như hòn đảo ánh sáng nổi trên đại dương đi vào vũng tối tuyệt vọng của Người Vượt biển.

Tàu Đảo Ánh Sáng nhổ neo vào tháng Tư năm 1979 với đoàn thiện nguyện gồm những y sĩ và y tá. Tàu vào đảo Pulau Bidong ở Mã Lai cung cấp thuốc men và chữa bệnh cho khoảng ba mươi sáu nghìn thuyền nhân sống chen chúc trên dải đất chỉ có thể chứa hai nghìn người. Tháng sáu năm ấy, chính quyền Mã Lai xuống lệnh đuổi người vượt biển ra khơi, Đảo Ánh Sáng ra khơi vớt người, cứu sống hàng nghìn kẻ lâm nạn. Chúng tôi được chính phủ Pháp hứa cho nhập cư vào Pháp tị nạn tất cả những ai được tàu vớt.

Những tháng tiếp đấy, lượng người vượt biển đến trời Âu kể lại thảm cảnh họ cho báo chí truyền thông Âu Mỹ. Lời kể xoá nhoà hình ảnh và thành kiến gán lên họ như những tướng tá, chính trị gia tham nhũng hay tội phạm chiến tranh : những kẻ đã rời nước trước khi Saigon thất thủ, ra đi với hai túi đầy vàng. Không. Họ là những dân thường, mà thảm nạn rơi lên đầu họ qua từng câu chuyện làm mủi lòng dân Pháp.

Các thầy giáo nói lên nỗi lăng nhục phải đi bán hủ tiếu cho con cái cán bộ giàu sang để nuôi thân. Tăng sĩ Phật giáo, Linh mục Thiên chúa giáo, Tin Lành, chức sắc hay tín đồ Hoà Hào, Cao Đài bị bắt tù vì thực hành tín ngưỡng đạo mình. Những bà vợ của tù nhân cải tạo bươn chãi nuôi con trong khốn cùng, chắt chiu những món quà nhỏ đi thăm nuôi chồng. Nỗi khốn cùng của những nhà văn bị đóng vai kiểm duyệt nơi văn phòng, chụp mũ “tác giả phản động quốc tế” cho những nhà văn như Pearl S. Buck hay Victor Hugo, hoặc bị bắt giam vì trích dẫn những tác giả kia trong tác phẩm mình.

Cảnh trạng các trại cải tạo vô cùng khủng khiếp. Những ai cứng đầu “học tập” không chuyên sẽ bị biệt giam trong thùng sắt, hay “connex”, ban ngày nóng như lò lửa, đêm về lạnh thấu xương, cốt cho họ phải thú khai tội lỗi mình không phạm. Tất cả tù cải tạo đều bị đói, lằn ranh giữa sống còn và chết đói mảnh như tơ. “Những chi động đậy đều chứa protein”, họ nói như thế và tranh nhau một con gián, con nhện, con chuột nhắt…

Các chuyện kể thương tâm như thế tác động công luận mà ít bài diễn văn chính trị nào đạt tới. Chính Người Vượt Biển đã thay đổi lối suy nghĩ của giới tả khuynh Châu Âu, và phá vỡ xung lượng của các đảng Cộng sản Pháp, Ý, cùng các nước Châu Âu khác. (Riêng tại Pháp, cử tri bầu cho Đảng Công sản rơi từ 25% xuống còn 6, 7% thôi),

Chiến dịch “Một Chiếc Tàu Cho Việt Nam” là cuộc mạo hiểm kỳ dị cho tất cả chúng tôi. Có chăng trong tôi là một điều tiếc nuối. Jean-Paul Sartre đề nghị làm một cuộc hội thoại. Ông đã tỏ ra khó khăn phải dẹp bỏ tình cảm ủng hộ cách mạng, và vô cùng bối rối đối với chế độ ở Hà Nội, mà ông đánh giá cao cuộc chiến đấu anh dũng cho nền độc lập, nay bỗng trở thành những tên đao phủ cho nhân dân họ. Vì sao như thế ? Là Phật tử, tôi từng bị bắt, bị tra tấn năm mười một tuổi vì tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp, tôi đã quá biết rõ về Cộng sản Việt Nam trước khi tôi rời nước ra đi để vận động cho một giải pháp thứ ba không-cộng-sản trong thời chiến tranh Việt Nam, cuối cùng phải lưu vong ở Paris.

Thực tình tôi muốn được thảo luận về vấn nạn cộng sản và “cách mạng” với con người khác thường này. Buồn thay, Sartre đến tham dự cuộc họp báo của chúng tôi năm 1979 là lần ông xuất hiện cuối cùng trước công chúng. Ông gần như mù hẳn, và qua đời ngày 15.4.1980 vì chứng phù phổi.

 Thi Vũ – Võ Văn Ái

04.2014

 

Như trường hợp xẩy ra rất sớm cho thi hào Vũ Hoàng Chương, và trường hợp Nhà văn Hồ Hữu Tường bị bệnh ở trại Hàm Tân, sắp chết thì được cho đưa về nhà. Nhưng chỉ còn khoảng 100 mét quanh qua góc đường Trần Quang Khải là đến nhà, thì Hồ Hữu Tường tắt thở trên xe.

Lời tuyên bố với báo chí của Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch năm 1985 nhân 10 năm chiến thắng (chiếm Saigon).

Xem Repression in the Socialist Republic of Vietnam: Executions and Population Relocationby Jacqueline DesbaratsThe Vietnam debate edited by John Norton Moore, 1990 and “Vietnam 1975-­1982: The Cruel Peace”, Desbarats and Jackson, 8 Wash. Q. 4 (Fall 1985). Cơ sở Quê Mẹ đã cộng tác với bà Jacquelines Debarats và nhóm nghiên cứu tại Đại học Berkeley, Hoa Kỳ, về số liệu điều tra tù nhân Trại Cải tạo thời ấy.

Trên báo Saigon Giải phóng ngày 2.6.1975 ông Lê Đức Thọ viết rằng : “Chúng ta phải đưa chế độ cũ vào hồ sơ. Chúng ta không thể xoá đi món nợ máu đối với đế quốc Mỹ và bọn tay sai. Nhân dân ta phải vạch trần và xác định những tội ác của chế độ cũ, để càng thấy rõ xấu xa của chúng, ta càng quyết tâm… quét sạch những tàn dư để xây dựng đời sống mới tốt đẹp. Chúng ta phải tiếp tục chiến đấu chống bọn thù địch trong thành phố, đồng thời xây dựng đời sống tốt đẹp”.

André Glucksmann xúc động vụ tàu Hải Hồng, vì gia đình người Do Thái của anh sống sót sau vụ Đức Quốc xã tàn sát dân Do Thái, được  tàu SS Exodus chở đi năm 1947, nhưng đã bị các quốc gia từ khước, nên cuối cùng bị đưa về Đức để chấm dứt sinh mạng trong các trại tập trưng.

Khi Hồng quân Xô viết đưa quân xâm lược Tiệp Khắc năm 1968, ngày 25.8.1068 chị Natalya Gorbanevskaya đẩy chiếc nôi con mới sinh 3 tháng cùng với bốn người bạn biểu tình phản đối trên Công trường Đỏ mênh mông ở Mạc Tư Khoa.

Nhà toán học ly khai nổi danh xứ Ukraine nhờ áp lực của công luận quốc tế đã được cứu thoát khỏi Nhà thương điên Xô Viết đưa sang Pháp.  Năm 1981, khi Nhà in Quê Mẹ bị phá sản do vận động cho con tàu Đảo Ánh Sáng ra khơi vớt người vượt biển, và bị ba bên bốn bề đánh phá, Plyush kêu gọi các bạn ly khai Liên Xô và Đông Âu thành lập “Hội Những Người Bạn Của Quê Mẹ” để cứu sống Cơ sở đấu tranh Quê Mẹ, đăng lòi kêu gọi trên báo chí Pháp và tthe New York Review of Books (xem sách “Nguoi Tri Thức Hành Động và Dẫn đường” của Võ Văn Ái, NXB Quê Mẹ, Paris 2010, trang 279).

Vladimir Boukovsky nhà văn ly khai Liên Xô nổi danh, nhờ áp lực của công luận thế giới được trả tự do năm 1976 trao đổi với một tù nhân chính trị Chili, sau 12 năm giam trong nhà tù và nhà thương điên. Hiện là Giáo sư Đại học Cambridge Anh quốc.

Leo Cherne nhà nhân bản lớn, Chủ tịch Uỷ ban Cứu Cấp Quốc tế thành lập để cứu sống những nạn nhân Đức Quốc Xã ở Châu Âu. Sau này, Uỷ ban cứu cấp và giúp đỡ định cư cho những người tị nạn trong thế giới. Ông đã cứu giúp đông đảo các nạn nhân tại Cuba và Cam Bốt.

Bayard Rustin, người Mỹ da màu, lãnh đạo phong trào dân sự Hoa Kỳ, và là người tổ chức cuộc biểu tình khổng lồ “Tiến về Hoa Thịnh Đốn” năm 1963 nơi Mục sư Martin Luther King thốt bài diễn văn nổi tiếng “Tôi có một giấc mơ – I have a dream”. Ông cũng không ngừng lên tiếng ủng hộ Việt Nam trong thời chiến.

 Các bài liên hệ:

 

Bài 1 : “Người trí thức Hoa Kỳ và Tù ngục Việt Nam” Eugène Ionesco, Kịch tác gia Hàn Lâm viện Pháp  

Bài 2 : “Tự do của bạn là tự do của chúng tôi”, Nữ thi sĩ Nga Natalya Gorbanevskaya

Bài 3 : “Chúng tôi… những Kẻ Đau Xương”, nhà văn Lỗ Mã Ni Paul Goma  

Bài 4 : “Đập vỡ những hình thái nô lệ mới”, nhà văn Pháp Pierre Daix  

                                                             

http://www.gio-o.com/ThiVu.html
 

 

cuu nguoi vuot bien

 

Buồm cao ghi dấu can trường

 

 

 


 

Nơi đây hương khói ngàn thu
Thuyền nhân tạm nghỉ trong mồ trùng dương
Buồm cao ghi dấu can trường
Trống thiêng gọi kẻ bốn phương tìm về

Ngày đầu năm 2005, nhân dịp về Nam California, gia đình tôi có gặp quý giáo sư Lưu Trung Khảo và Trần Huy Bích ở Viện Việt Học. Thầy Huy Bích có tặng một tài liệu mà đối với tôi nó quý giá vô cùng. Đó là bài thơ tiếng Nôm ghi trên Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân được xây ở đảo Bidong thuộc Malaysia. Người Mã Lai và thuyền nhân Việt Nam gọi đảo này là Pulau Bidong; Pulau là đảo, Bidong là tên của hòn đảo ấy.

Vài nét về đảo Bidong

Đảo Bidong có đường kính khoảng 2 cây số, diện tích khoảng 260ha, nhưng khoảnh đất bằng phẳng sát bờ biển phía nam mới là nơi thuyền nhân Việt Nam tập trung tạm trú. Phần còn lại là đồi núi, cây rừng hoang, và đá núi lởm chởm, đổ từ trên đỉnh cao xuống tận bờ biển. Trên đỉnh núi cao và dọc theo triền núi, có rất nhiều cây sao nhưng không lớn lắm. Gần bờ biển thì có nhiều cây dừa. Đây là đảo hoang, không có người ở. Chính phủ Mã Lai đã dành làm nơi tạm trú cho thuyền nhân Việt Nam với sự bảo bọc của Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc.

Thuyền tôi dài 11 thước với 33 người gồm ông già bà cả, thanh niên, phụ nữ và cả con nít mới sanh. Thuyền lênh đênh trên biển Thái Bình Dương được 3 ngày thì gặp một chiếc tàu thật lớn đang thăm dò đáy biển, mang cờ nước Anh. Họ không vớt chúng tôi nhưng có tiếp tế thực phẩm và nước ngọt.

Thuyền trưởng cho biết trong hai ngày nữa sẽ có bão lớn, và đề nghị chúng tôi nên đổi hướng để vào bờ gấp. Chúng tôi nghe lời, không đi về hướng Singapore và nhắm vào bờ gần nhất. Gần hai ngày sau, thuyền chúng tôi ủi vào bờ biển Terengganu, cũng vừa lúc cơn bão đến sau lưng. Mười ngày sau được đưa sang Bidong.

Mới đến thì thấy đảo hoang sơ, với những cây dừa cao vút. Trên đồi cao còn có nhiều khu rừng rậm rạp. Vài ba tháng sau, số thuyền nhân lên tới 40,000 người. Nhìn lên đồi đã thấy có nơi bị trọc vì thuyền nhân đốn cây để làm nhà và làm củi để nấu nướng.

Nước ngọt và thực phẩm thì được Cao Ủy Ty Nạn Liên Hiệp Quốc cung cấp qua trung gian Hội Trăng Lưỡi Liềm Đỏ và chính phủ Mã Lai. Mã Lai là quốc gia có đa số dân theo Hồi Giáo nên không có Hội Hồng Thập Tự, mà có Hội Trăng Lưỡi Liềm Đỏ, hoạt động giống như Hội Hồng Thập Tự. Gặp những ngày biển động, thuyền nhân không được tiếp tế thì khốn khổ. Có nhiều nỗi khổ không thể diễn tả hết trên những trang giấy này. Nhưng, đặc biệt là mọi người tha hồ hít thở  không khí tự do.

Với một cái búa chẻ củi, người ta đã đốn cây rừng, xẻ dọc làm hai, vạt hai bên thành hai miếng ván dùng để đóng bàn ghế, đóng  giường ngủ. Có ván, có nhựa cây rừng, họ có thể đóng thuyền để bơi ra khơi câu cá. Sau này, những chiếc thuyền mong manh này bơi xa hơn để mua những nhu yếu phẩm từ các tàu đánh cá của người bản xứ.
Họ đem về bán lại cho thuyền nhân trên đảo Bidong.

Từ một hòn đảo không người ở, không thú rừng, chỉ vài tháng sau Bidong đã có chợ chồm hổm, có quán cóc café. Việc đóng thuyền, bơi ra khơi, buôn bán,… tất cả là những thứ bị cấm, do luật của chính phủ Mã Lai đề ra. Nhưng người ta cũng cứ lén lút đóng thuyền rồi ra khơi đi khai phá. Chiếc thuyền này bị tịch thu thì chiếc khác lại hạ thủy ra khơi. Sức vươn dậy của con người Việt Nam được thể hiện rất rõ ở đây.

Bao nhiêu trí thức của miền Nam, ai vượt được trùng dương thì hầu như gặp nhau ở đây. Người ta tin rằng, nếu không gặp nhau ở đây thì chắc là đang ở tù cộng sản hay đã được thủy táng trong lòng đại dương. Người ta mau chóng đội ngũ hóa. Họ dựng lên trường học dạy tiếng Anh, tiếng Pháp. Phòng thông tin, toán trật tự, toán cấp cứu,… cũng được thành lập nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu càng ngày càng nhiều. Các Hướng Đạo Sinh Việt Nam theo tiếng gọi đàn cũng đã làm thành từng đoàn, từng đội.

Một miếng đất vào khoảng phân nửa cây số vuông (khoảng phân nửa khuôn viên Tòa Thánh Tây Ninh) mà có đến 40 ngàn người sinh sống trên đó. Họ xây chùa, xây nhà thờ, nhà nguyện. Họ đúc tượng và dựng đài tưởng niệm. Các bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ và cả những sinh viên y, nha, dược hầu như gặp nhau ở Bidong. Nhạc sĩ, ca sĩ, văn sĩ, thi sĩ, kỹ sư, chuyên viên đủ các ngành nghề,… không biết bao nhiêu mà kể.

Thời điểm này là cuối thập niên 70, đầu thập niên 80, làn sóng người tỵ nạn lánh nạn cộng sản đang lên cao. Không biết bao nhiêu người gửi thân trong lòng biển. Đây cũng là thời điểm Hội Y Sĩ Không Biên Giới thành lập những bệnh viện nổi, đặt trên những con tàu và nhanh chóng ra khơi để cứu vớt thuyền nhân. Một trong những chiếc tàu đó là L’île de lumière (Đảo Ánh Sáng).

Sau khi vớt thuyền nhân ở biển Đông, tàu này neo ngoài khơi đảo Bidong để làm bệnh viện chữa trị những ca đặc biệt. Sau đó, tất cả các dụng cụ y khoa đã để lại Bidong và cũng là lúc Bidong có đủ nguyên liệu và thiết bị để xây dựng bệnh viện trên đảo Bidong. Đó là bệnh viện Sick Bay; là kết quả của trí tuệ thuyền nhân Việt Nam; những kiến trúc sư, kỹ sư, chuyên viên đủ loại. Tất cả những ai đã tốt nghiệp y, nha, dược khoa hay chỉ là sinh viên đang theo học các ngành này, đều xung phong phục vụ ở Sick Bay.

Trở Lại Câu Chuyện
Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam

 

Trong hình, chúng ta có thể nhìn thấy chiếc trống đồng ở trung tâm, bao quanh bởi bốn cánh buồm cao ngạo nghễ. Tượng đài tọa lạc một đỉnh đồi ở phía nam đảo Bidong, với khoảng không gian rộng nhìn ra biển Đông. Bài thơ chữ Nôm được khắc trên một trong bốn cánh buồm này.

Thầy Huy Bích kể lại là có một người tìm đến Thầy nhờ đọc bài thơ chữ Nôm. Bài thơ này đã được khắc trên Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân ở đảo Bidong mà họ ngờ ngợ không biết có chữ nào không đúng chăng? Thầy Trần Huy Bích là vị giáo sư am tường chữ Hán và chữ Nôm, nghe sự việc cũng muốn đọc để hiểu tâm tư thuyền nhân Việt Nam ở Bidong. Thầy đọc rồi mới thấy có chữ không có trong tự điển, nhưng cũng có thể đoán được. Thầy hỏi ai là tác giả và tìm gặp để trao đổi mong tìm ra nguyên do tại sao chữ ấy được dùng. Một cụ trên 80 tuổi nói rằng lâu quá cụ không còn nhớ đó là chữ gì.

Lúc trên đảo Bidong, ban xây dựng Đài Tưởng Niệm muốn có một bài thơ tiếng Nôm khắc trên đài. Người ta cậy nhờ cụ. Có chữ cụ nhớ rất rõ, có chữ cụ không nhớ nhưng nhờ có căn bản chữ Nôm, cụ đã chế biến vài chữ. Đến nay, cụ không còn nhớ chính xác bài thơ chữ quốc ngữ, nhưng cũng đồng ý với thầy Huy Bích để cuối cùng có được bài thơ, như thế này:

Nơi đây hương khói ngàn thu
Thuyền nhân tạm nghỉ trong mồ trùng dương
Buồm cao ghi dấu can trường
Trống thiêng gọi kẻ bốn phương tìm về

Theo Thầy Trần Huy Bích thì ở Việt Nam, chữ Nôm không thống nhất cho tất cả các địa phương. Nhiều khi phát âm giống nhau, nhưng chữ viết có thể khác. Ngày nay, bộ chữ Nôm đã dần dần được khôi phục trong bộ chữ Unicode; tuy chưa hoàn hảo nhưng cũng đủ để ghi lại một số những tài liệu lịch sử viết bằng chữ Nôm dưới dạng digital.

Hôm ấy, Thầy có kể rất nhiều chi tiết chung quanh bài thơ này nhưng vì tâm trí cứ lãng đãng những kỷ niệm Bidong nên tôi đã quên đi một phần. Kính mong thầy Huy Bích sẽ không quản ngại mà kể cho hết cả chúng ta cùng nghe lại câu chuyện về bài thơ này.

Xin thân ái chia xẻ cùng quý thầy và anh chị em, nhất là quý vị từng tạm cư tại Pulau Bidong.

Kính mến,
Sơn Hà
Oct.2005

Bài biên khảo này được trích từ Lớp học Hán Việt hanviet@yahoogroups.com (đã đóng) 2002-2003
Thầy Trò ở lại trò chuyện tói 2009. Lớp Hán Việt này được hướng dẫn bởi 7 vị Giáo sư thuộc Hội Ái Hữu Cựu Giáo Chức Việt Nam Hải Ngoại:

Giáo sư Trần Huy Bích,
Cố Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích,
Cố Giáo sư Lê Văn Đặng,
Giáo sư Phạm Văn Hải,
Cố Giáo sư Lưu Trung Khảo,
Cố Giáo sư Đàm Trung Pháp,
Gs Giáo sư Nguyên Văn Sâm

 

cuu nguoi vuot bien

 Bài Hát Bước Chân Việt Nam của nhạc sĩ Trúc Hồ
trình bày hợp ca, Asia Productions

 

KÍNH NHỜ CHUYỂN TIN CHO VIỆT NAM    Hồn Ca Trên Biển Đông

Kính dâng lên hương hồn hơn nửa triệu đồng bào đã tử nạn trên biển Đông, mong vượt thoát chế độ cộng sản VN, mưu tìm Tự Do sau cơn Quốc Nạn 30 tháng Tư Đen 1975.(Lưu niệm chuyến đi viếng thăm mộ bia Thuyền Nhân tại các đảo Galang và Pinang, NamDương, cùng phái đoàn Văn Khố Thuyền Nhân và cácBạn từ cácquốc gia trên thế giới; trong lúc CSVN đang yêu cầu chính quyền Nam Dương đóng cửa các khu di tich Thuyền Nhân trên các đảo. Điều này cho thấy ngày nào còn CSVN, ngay cả những người đã chết trên các đảo hoang vu, lìa xa Tổ Quốc, cũng không được yên nghỉ ngàn thu…)

 Võ Đại Tôn

 Hồn Ca Trên Biển Đông

1.Hồn ai đó?
Chập chờn trên khói sóng
Dòng máu tươi theo nước chẳng hòa tan.
Hồn ai đó?
Vạn tinh cầu chao bóng
Đảo ghềnh xa còn vọng tiếng kêu than.
Hãy về đây – trên sóng nước dâng tràn
Chung tiếng khóc nghẹn đau cùng Dân Tộc.

Hồn ai đó?
Đã lìa xa Tổ Quốc
Vẫn còn ôm sông núi xuống mồ hoang.
Tiếng oan khiên từ đáy vực còn vang
Hay chìm đắm giữa khơi ngàn sóng dữ?
Mảnh thuyền tan, bập bềnh trôi viễn xứ
Biết về đâu? Hồn phiêu bạt nơi đâu?
Thân cá Hồi tan tác đã chìm sâu
Không tìm thấy lối quay về chốn cũ!

Giữa trùng khơi vang tiếng cười dã thú
Hải tặc giằng co thân xác – kinh hoàng.
Tiếng Mẹ kêu, dòng máu chảy đầy khoang
Tay vời níu đàn con run khiếp sợ.
Biển lạnh chiều hoang, trần gian nín thở,
Vòng tai ương kiếp nạn đến vô cùng.

Hồn ai đó?
Bờ Tự Do bốn hướng, cõi mông lung
Tìm đâu thấy – giữa muôn trùng đen thẳm?
Tiếng kêu “Trời!” trước phút giây chìm đắm
Biến tan vào giông bão, thét trùng dương.
Vực mồ sâu thịt rã máu còn vương
San hô trắng hay là xương ai trắng?
Dòng tóc đen bám ghềnh xa hoang vắng
Thành rong rêu sẫm tím một màu tang.

Hồn ai đó?
Chiếc thuyền Không Gian
Trôi về Vô Tận.
Bánh xe Thời Gian chuyển ngàn uất hận
Chập chờn mấy cõi U Minh.
Lịch Sử nghìn thu trang giấy rợn mình
Ghi chép lại phút kinh hoàng Vượt Biển!

 

2.

Hồn ai đó?
Đảo hoang sơ, ai về đây khấn nguyện
Mộ bia tàn, ai thắp nén hương dâng?
Nơi Ba-Đình vui chuốc rượu Vô Thần
Cười nghiêng ngả mừng reo hò chiến thắng!
Đồng ruộng phơi bày xương trắng
Oan khiên máu lệ thành sông.
Bao thây vùi trong sóng nước biển Đông
Còn sót lại mấy hoang tàn di tích?

Hồn ai đó?
Đảo xa xôi mộ phần cô tịch
Giấc ngủ chẳng bình an.
Họ còn theo, cố phá đập tan (*CSVN)
Để tô hồng chế độ:
“Chủ nghĩa huy hoàng, không ai chối bỏ
Không có người vượt thoát để tồn sinh!!!”
Nhưng bia đời như nắng rọi bình minh
Luôn soi rõ từng vết sâu tội ác
Của loài dã tâm với ngôn từ khoác lác
Đang tôn thờ chủ thuyết lai căng.

Hồn ai đó?
Từ bao cõi vĩnh hằng
Xin về đây chứng kiến.
Tấm lòng chúng tôi, trọn đời Tâm Nguyện
Chí bền gan, xin vẹn Nghĩa Tình.
Dù ngăn cách Tử Sinh
Giữa hai bờ Nhật Nguyệt.
Dù có ai phá tan mộ huyệt
Đến nghìn sau hồn mãi còn đây.
Nhìn trùng khơi sóng nước dâng đầy
Gửi mơ về cố quốc.
Hồn vẫn sống trong lòng Dân Tộc
Vì hai chữ Tự Do.

Chiều GALANG bão tố sóng to
Hay tĩnh lặng trăng rơi thềm đá.
Sáng PINANG nắng xuyên rừng lá
Hay đêm vờn tiếng hát nhân ngư.
Hồn mãi còn đây, dù bia mộ hoang phục vụ
Không tên tuổi – sá gì tên với tuổi!
Dù xác thân đã hòa chung cát bụi
Biển Đông còn – HỒN MÃI SỐNG THIÊN THU!

 Võ Đại Tôn (Hoàng Phong Linh)
Viết tại đảo Pinang ngày 14.10.2009

Sent by DONG TRAN,
VĂN KHỐ THUYỀN NHÂN VIỆT NAM,
Archive of Vietnamese Boat People
Web: www.vktnvn.com

 

“Trở về bến tự do” của
Văn Khố Thuyền Nhân VN

Thanh Quang, phóng viên RFA

2012-06-20

Văn Khố Thuyền Nhân VN vừa hoàn tất chuyến “trở về bến Tự Do” được tổ chức từ trung tuần tháng 5 vừa rồi cho tới những ngày đầu tháng 6 này.

AFP photo

Một trẻ em Việt Nam được đưa lên một xà lan tại đảo Galang để hồi hương vào ngày 02/9/1996.

Trùng tu mộ phần thuyền nhân

Mục đích thăm lại những trại tỵ nạn xưa cũng như trùng tu mộ phần thuyền nhân tại Indonesia và Malaysia, và đặc biệt tìm thấy một nghĩa trang nữa của thuyền nhân trên đảo Bidong ở Malaysia. Thanh Quang tìm hiểu chuyến đi này, và được ông Trần Đông, Giám đốc Văn Khố Thuyền Nhân VN trụ sở chính tại Úc, trước hết cho biết về chuyến đi Indonesia:

Ông Trần Đông: Mục tiêu của chuyến đi về Indonesia gồm 2 điểm: Thứ nhất là để tìm hiểu xem công trình trùng tu thí điểm 50 ngôi mộ thuyền nhân ở vùng Kuku đã được thực hiện như thế nào. Và mục tiêu thứ hai là cũng để xác định tất cả ngôi mộ ở tại khu trại tỵ nạn cũ là Kuku và Air Raya cùng một vài nơi khác, xem những ngôi mộ nào cần phải được trùng tu và những mộ nào không phải trùng tu. Những ngôi mộ nào cần trùng tu thì chúng tôi đánh dấu để lập thành một danh sách trùng tu sau này.

Thanh Quang: Thưa ông, thành quả trong chuyến đi vừa nói có được như ý không, hay có trục trặc nào ? Tóm lại kết quả cụ thể của chuyến đi Indonesia này ra sao?

Ông Trần Đông: Đúng là việc trùng tu thí điểm mộ phần thuyền nhân như vừa nói rất quan trọng tại một nước, nhất là ở nơi hẻo lánh như vùng Anambas hay là Natuna, Kuku, Air Raya. Bảng vẽ mẫu chúng tôi đã gởi cho họ, nhưng qua thực hiện họ làm không đúng kích thước như trong bảng vẽ của mình. Tấm đá hoa cương để ghi tên thuyền nhân, khi đặt lên thì nó lại không phù hợp, tức tấm đá hoa cương này hơi lớn hơn khổ bê-tông cốt sắt mà họ làm phía dưới. Chúng tôi có chỉ cho họ thấy như vậy và yêu cầu sửa lại. Và họ đồng ý.

Sau khi họ sửa lại và chụp hình cho mình thấy, thì mình sẽ đồng ý hay không đồng ý. Nếu như mọi chuyện diễn ra tốt đẹp thì mình sẽ cho biết là hài lòng với công việc làm của họ. Và số mộ phần còn lại, chúng ta cũng sẽ cho họ biết là chừng nào sẽ tiến hành. Trong chuyến đi vừa qua, chúng tôi cũng đã cùng với họ xác định consố mộ cần thiết phải trùng tu thêm nữa, ít nhất cũng gần 100 ngôi mộ.

Thanh Quang: Chúng tôi được biết VKTN cũng có tổ chức chuyến đi Malaysia. Xin ông cho biết chuyến đi này? Chúng tôi được biết chuyến đi chủ yếu cắm trại 2 ngày 2 đêm tại đảo Bidong ?

Ông Trần Đông: Đúng như vậy. Chúng tôi cũng có phối hợp với công ty du lịch ở bang Terengganu của Malaysia để tổ chức 2 ngày 2 đêm cuộc cắm trại đầu tiên trên đảo Bidong. Đảo Bidong hiện giờ có cầu Jetty làm bằng bê-tông cốt sắt xi-măng rất rộng lớn. Trong 2 ngày 2 đêm ấy, chúng tôi ngủ tại đó. Trên đầu cầu, họ đã làm cái sân lót gạch rất sạch sẽ, dựng tổng cộng 10 cái lều để mỗi lều 2 người có thể nghỉ, ngủ, với tấm trải phía dưới, mền đắp. Đồng thời họ cũng chuyển ra một đội ngũ 5-6 người phục vụ, để nấu ăn và giữ an ninh cho chúng tôi trong những ngày sinh hoạt ở tại trại.

Thanh Quang: Như vậy kết quả của 2 ngày 2 đêm cắm trại tại Bidong ra sao ? Được biết có người nói rằng họ sợ ma? Có hiện tượng tâm linh nào xảy ra ở Bidong không ?

Ông Trần Đông: Mục đích chính của chúng tôi trong việc tổ chức cắm trại tại Bidong để xem mình tổ chức cắm trại ở nơi xa đất liền có những vấn đề nào thuận lợi, bất lợi để có thể cải sửa cho mục tiêu cắm trại ở Bidong trong tương lai. Trước đây có những chuyến đi, nhất là vào năm 2003, có những hiện tượng mà trong đĩa DVD về Bidong năm 2003 chúng tôi có làm. Và tại Nam California, thì một số người sửa tên đĩa DVD đó là “Bidong có ma hay không ?” và bán ngoài tiệm DVD.

Rõ ràng là trong năm 2003 có những hiện tượng tâm linh kỳ lạ xảy ra, thí dụ như những người trong đoàn bỗng nghe tiếng nói ồn ào ở chỗ không người…Nhưng với những chuyến đi về sau, thì càng ngày những dấu hiệu như vậy càng bớt dần. Và những chuyến đi gần đây thì hoàn toàn không có gì cả.

Trong chuyến đi mới đây nhất, có một số bà con nói là không dám đi vì sợ ma. Cũng có người nói coi chừng vào ban đêm, ma nó về kéo mấy ông xuống biển hết. Nhưng thực sự không có chuyện đó xảy ra. Hoàn toàn không có hiện tượng ma quái nào. Không có bất cứ người nào trong đoàn nói là thấy hay cảm nhận bất cứ một hiện tượng nào cả trong 2 ngày 2 đêm cắm trại ở Bidong.

 

Một thuyền nhân VN ở Philippines phản đối lệnh hồi hương vào ngày 16/3/1995. Ảnh minh họa. AFP photo

Thanh Quang: Như vậy kết quả cắm trại ở Biđông là như thế nào?

Ông Trần Đông: Thành quả chủ yếu của 2 ngày 2 đêm cắm trại tại Bidong là, thứ nhất, chúng tôi đã xem xét kỹ lưỡng nghĩa trang khu F. Thứ nhì, lần đầu tiên chúng tôi sau 21 năm đã dọn dẹp quang đãng nghĩa trang khu E, tức khu ở cuối khu Cao Uỷ giáp với ngọn đồi, nơi có 16 ngôi mộ. Đồng thời chúng tôi cũng dọn dẹp quang đãng nghĩa trang khu C bên Đồi Tôn Giáo sau lưng Chùa Từ Bi, nhưng nằm ở lưng chừng đồi, nơi có 7 ngôi mộ. Thượng Toạ Thích Phước Tấn tham dự trong chuyến đi cũng đã cầu nguyện tại 2 nghĩa trang Khu E và Khu C vừa nói.

Điểm nổi bật nhất là chúng tôi cũng tìm ra được con đường để mà đi tới bãi biển khu G. Trên đồi khu G có một nghĩa trang. Nhưng vào buổi chiều, khi chúng tôi đi được một phần đồi thì trời sụp tối. Trong đó cây rừng rất cao. Lúc ấy cũng đã 5 giờ chiều rồi, chúng tôi ước tính đi qua bên ấy rồi trở về cũng mất 2 tiếng, một phần thấy trời tối. Nếu chúng tôi cố đi tiếp rồi trở về sẽ không an toàn bởi vì đường đi rất khó. Cho nên chúng tôi quyết định về sớm. Đến 7 giờ sáng hôm sau, chúng tôi gồm 5-6 người đã đi trở lại con đường mà ngày hôm trước bỏ dở.

Khi tới đỉnh đồi của khu G, chúng tôi tìm thấy ngay một nghĩa trang tại đó, với tổng cộng 87 ngôi mộ thuyền nhân. Bảng nghĩa trang – cũng giống như ở nghĩa trang trên đồi khu F – có ghi rõ ràng dòng chữ bằng tiếng Anh và tiếng Việt, rằng “Đây là khu nghĩa trang mai táng những thuyền nhân vô danh vào những năm 1978, 1979, 1980.

Thanh Quang: Thưa ông, đoàn thuyền nhân có nhận xét hay cảm xúc như thế nào khi tìm ra nghĩa trang khu G trên đảo Bidong ?

Ông Trần Đông: Thực ra cả đoàn ai cũng vui mừng bởi vì đây là một thành quả lớn. Nếu không có buổi cắm trại thứ nhì, tức là nếu chúng tôi về sớm hơn hoặc không có tổ chức cắm trại ở đó, thì vĩnh viễn chúng tôi không tìm được khu nghĩa trang trên đồi khu G. Mặc dù biết là nơi đó có đấy, nhưng đã 21 năm rồi, nơi đó đã trở thành rừng, rất khó tới.

Đường mòn có nhiều chỗ cây rừng, dây mây chằng chịt, chúng tôi phải khom người xuống để đi; có những chỗ rất dốc, trơn trợt, đi suýt té nhiều lần. Nhưng điều này cũng cho thấy gần như có tín hiệu của những người anh em đã nằm lại vĩnh viễn ở trên đồi khu G báo cho chúng tôi biết rằng họ đang nằm ở đó, đừng quên họ.

Bởi vì chúng tôi dự định phải hoàn tất chương trình trùng tu mộ phần thuyền nhân toàn khu vực Đông Nam Á vào năm 2015. Nếu không tìm được khu nghĩa trang trên đồi khu G này, nơi mai táng gần 100 thuyền nhân, thì chắc chắn khu nghĩa trang này sẽ không được trùng tu. Nhưng giờ, may mắn chúng ta tìm được nghĩa trang các thuyền nhân này sau 21 năm bị bỏ quên. Và việc trùng tu, chúng tôi hoạch định bắt đầu vào năm tới cho các nghĩa trang ở tại khu C, khu E, khu F và khu G ở tại Bidong.

Thanh Quang: Cảm ơn ông Trần Đông.

  Ra đuờng lắm kẻ còn dòn hơn ta.

Trong nhà nhất mẹ nhì con
Ra đuờng lắm kẻ còn dòn hơn ta.

Nguyễn Vân Tùng

Trên đây là câu ca dao nếu tôi nhớ không lầm thì tôi đã học ngày vào học lớp Đệ Thất (lớp 6) thì phải. Đồng ý là câu ca dao của Cha Ông để lại. Nhưng trong bậc tiểu học thì làm sao đã có đủ trí thức hiểu đuợc sự thấm thía của câu ca dao này. Có học lên Trung học, nhờ sự dẫn giải của thày cô và sự hiểu biết có phần rộng lớn hơn qua sự ghi nhớ trong đầu của tuổi học trò để rồi ra ngoài đời lăn lộn, đua chen với xã hội lúc đó hồi tuởng lại bấy giờ mới thấy hai câu ca dao này thật thâm thúy.

Đa số những bậc Cha Ông của chúng ta (với tuổi đời hôm nay đã ngoại ngũ tuần hết rồi) đều còn mang nặng đầu óc phong kiến của thực dân Pháp, nên với số vận hên trời ban cho qua sự chạy chọt về tiền bạc (đa số) mới có đuợc chút danh vọng ngoài đời nên đã tự vỗ ngực xung tên TA LÀ GIỎI, TA LÀ NHẤT. NGOÀI TA RA KHÔNG MỘT AI HƠN TA CẢ.

Chữ TA ở đây nó biểu tuợng cho chữ TÔI, và chính vì vậy, chữ TÔI qúa lớn nên đã coi thuờng mọi nguời để rồi đẻ ra ngu xuẩn đến nỗi không biết là chính mình đã sai lầm lớn lao gây ra thù oán, đả phá, công kích lẫn nhau ngoài xã hội. Chữ TÔI này nó đã làm lu mờ lý trí con nguời từ đó nó đưa đẩy dân tộc VN vào bao thế kỷ chiến tranh tang tóc, làm nô lệ cho ngoại bang cũng vẫn cho mình là nhất.

Sau ngày 30-4-1975. Hàng chục triệu nguời đã bỏ nuớc ra đi vì không chấp nhận chế độ phi nhân bản của csVN, nhưng chỉ có trên duới 4 triệu nguời đến đuợc bến bờ tự do của 1 đệ tam quốc gia nào đó nương tựa. Con số còn lại đã làm mồi cho cá biển hoặc làm thức ăn cho những sinh vật sống nơi rừng hoang vu hẻo lánh.  Bài học đắng cay này vẫn chưa thấm nhuần cho những đầu óc phong kiến lạc hậu, ngu xuẩn nên vẫn tiếp tực đưa chữ TÔI ra để trấn áp nguời khác qua hình thức này hay hình thức khác.

Tục ngữ VN cũng có câu: ĐI NUỚC LÀO PHẢI ĂN MẮM NGÓE hay ĐÁO GIANG TÙY KHÚC, NHẬP GIA TÙY TỤC mà Cha Ông đã truyền dạy cho con cháu. Bọn nguời phong kiến này vì qúa ngu, vì lú mề nên đâu có hiểu những câu tục ngữ này, nên vẫn luôn đưa chữ TÔI của mình ra truớc bàn dân thiên hạ.

Hôm nay đây, với trên duới 4 triệu nguời chúng ta đã học gì của nền văn minh thế giới? Chúng ta đã thấy gì bên bến bờ tự do? Chúng ta đã hiểu đuợc 2 câu ca dao của Cha Ông: Ở NHÀ NHẤT MẸ NHÌ CON. RA ĐUỜNG LẮM KẺ CÒN DÒN HƠN TA chưa? Nếu đã hiểu, thì đừng nên mang bằng cấp ngày xưa ra để chỉ huy những bằng cấp đương thời. Đừng nên mang cấp bậc ngày xưa ra để chỉ huy những hậu duệ hiện tại.

Trong môi truờng xã hội hiện tại, hãy coi lại xem vai trò của mình và vai trò của hậu duệ. Hãy tự đặt câu hỏi: Hôm nay hậu duệ đóng vai trò gì và bản thân ta đang đóng vai trò trong xã hội này? Ai đang là Lữ Đoàn Truởng Lục Quân Hoa Kỳ? Ai đang là Hạm Đội Truởng Hải Quân Hoa Kỳ? Ai đang là Khoa Học Gia cho bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ? Ai đang là Dân Biểu, là Thuợng Nghị Si, là Thị Truởng? Ai đang là Luật sư, là Bác Si hiện hành? Nếu câu trả lời là chúng ta thì chữ TÔI thật xứng đáng. Còn nếu câu trả lời là hậu duệ thì chúng ta nên nhuờng lại cho hậu duệ chứ đừng nên vỗ ngực xưng tên thêm nữa cho thêm nhục.

Chúng ta, với cương vị là cha ông, hãy nên khuyến khích, hãy nên giải thích, hãy nên cô vấn cho hậu duệ biết rằng dầu sao họ cũng là con cháu Việt Nam. Vì vậy, UỐNG NUỚC PHẢI NHỚ NGUỒN để níu kéo họ vào con đuờng phục hưng cho xứ sở.

Chúng ta ra đi là vì chúng ta thua cuộc, và vì tuổi đời, chúng ta chẳng còn thì giờ để phục hung xứ sở. Chúng ta cũng không còn thì giờ để rửa mối hận thù đã và đang chồng chất trong đầu nữa. Giờ này, chúng ta chỉ biết trông chờ vào hậu duệ, vào con cái chúng ta.  Chính ở điểm này, chúng ta nên quăng ngay chữ TÔI vào thùng rác cho hợp vệ sinh. Đừng nên khua môi múa mõ chỉ thêm nhục vào thân.

Nhìn nguợc dòng thời gian, tôi còn nhớ rất rõ về cuộc vuợt biên của cá nhân tôi như sau:

Đúng 1:30 trưa ngày 1 tháng 5 năm 1975. Tôi đuợc con thuyền đánh cá khởi hành từ Vũng Tàu ra ngoài khơi để tìm Đệ Thất Hạm Đội nhưng không thấy. Con thuyền đã phải cho lênh đênh ngủ qua một đêm trên hải phận quốc tế. 9:00 giờ sáng ngày 2-5-75, tôi nhìn thấy 1 bóng đen rất xa, tôi liền nói với anh chủ thuyền cho thuyền chạy đến. Mỗi lúc 1 gần thấy đó là tàu Hải Quân tưởng rằng của HK. Càng tiến lại gần hơn mới thấy đó là tàu HQVN chứ không phải là của Thất Hạm Đội HK. Con thuyền cặp sát vào tàu HQVN. Vị Trung Úy Hạm Truởng HQVN liền bảo còn bao nhiêu dầu thì chuyển qua và cho buông trôi con thuyền chúng ta đi Mã Lai.

Nguời chủ thuyền tiếc con thuyền đánh cá không chịu liền đòi tách rời tàu HQVN. Tôi liền nói với vị Hạm Truởng là trên con thuyền này tôi là Đại Úy SĐ25BB và có 1 nguời nữa là Trung Si nhất SĐ5BB. Trung Úy có thể cho hai nguời chúng tôi lên đuợc không? Vị Hạm Truởng này liền bảo tôi: Vâng mời Đại Úy và anh TSI lên tàu. Trên tàu có chiếc trực thăng nằm trên đó, hỏi ra mới biết là chiếc trực thăng của Tuớng Kỳ. Đó là chiếc vận tải 505 của HQVN.

Chúng tôi đếm Mã lai, tôi vào làm thông dịch viên cho Cao Ủy giúp đồng bào. Cha mẹ ơi! Tôi có phải là y tá hay là Bác Si sản khoa đâu. Ấy thề mà tôi phải vào bên trong dịch cho 1 bà sanh đẻ. Phương tiện y khoa của Mã Lai đâu có đuợc tối tân, hơn thế nữa ngoài hòn đảo thì đâu có bệnh viện, mà chỉ là trạm xá y tế thôi đã làm cho tôi ói mửa ngay sau đó.

Ở trại tỵ nạn này hơn 1 tháng. Cá nhân tôi thì đuợc cao ủy cho biết là Mỹ đã nhận còn một số khá đồng thì phải chờ. Thấy nóng lòng qúa, một chủ tàu thứ hai nguời Phuớc Tỉnh anh ta đến nói với tôi là muốn tôi cùng đi với con thuyền đánh cá của anh đến Subic Bay để có cơ hội đuợc đi Mỹ. Thấy vậy tôi liền đồng ý. Tôi liên lạc để xin dầu, nuớc và thức ăn và chúng tôi đi.

Khởi hành từ Mã lai trên con thuyền là 38 nguời trong đó có 1 LS tên là Nguyễn Văn Thành. Ông này chỉ biết tiếng Pháp chứ 1 chữ tiếng Anh cũng không biết. Hai thày Tu là Nguyễn Văn Bình và nguời em của Thày tu này cũng chỉ biết tiếng Pháp chứ không biết tiếng Anh. Còn ngoài ra chỉ là dân đánh cá. Và tôi lãnh đủ mỗi khi đến Nam Dương, Tân Gia Ba, đến hòn đảo cuching Mã Lai và đến Phi Luật Tân.

Tiến vào vịnh Subic Bay, một chiếc bo bo HQHK trên đó có 2 nguời 1 là tài xế, hai là vị TTHQHK tiến đến con thuyền của chúng tôi. Câu đầu tiên Ông TT này hỏi: Có ai trong các nguời nói tiếng Anh không? Tôi liền trả lời: có tôi đây.

Ông ta liền hỏi: Có ai bệnh tật gì không?

Tôi đáp: Không có ai bệnh. Tuy nhiên khi con thuyền khởi hành từ Mã Lai thì chỉ có 38 nguời. Nhưng bây giờ là 41 nguời vì có 3 bà đã sanh trên biển. Xin Thiếu Tá cho gởi BS ra xem các em bé có sao không?

TT này nói: Tôi gọi vào căn cứ sẽ gởi BS ra ngay, và ông hỏi tiếp: Có ai trong các nguời là quân nhân không?

Tôi liền moi giấy tờ ra là SQQLVNCH đưa cho Ông thấy sau đó tôi nói: còn 1 TSI Của SĐ5BB nữa và tôi đã chỉ tay vào nguời TSI này cho Ông.

TTHQHK hỏi: Có ai trong các nguời có nguời bảo lành ở bên Mỹ chưa? Và có ai đã có thân nhân đi Mỹ rồi?

Tôi nói: Tôi có Đại Úy John Jack Joyce khi Ông này sang VN là cố vấn cho tôi lúc tôi còn là Trung Úy. Còn tất cả họ đều không có kể cả những thân nhân cũng không biết là có ai đã đến Mỹ chưa.

TTHQHK: Ông hãy làm cho tôi một danh sách tất cả những nguời trên con thuyền này để tôi báo cho tòa Đại Sứ HK biết. Riêng phần Ông, ngay sau khi vào căn cứ, tôi sẽ liên lạc ngay với Đại Úy John này để hỏi Ông ta. Ông cho tôi muợn giấy tờ tùy thân này của Ông đuợc không? Sáng mai tôi ra, tôi sẽ hoàn lại cho Ông.

Tôi gật đầu và Ông giã từ chúng tôi. Khi chiếc bo bo của Ông đang tháo dây thì có chiếc bo bo khác đến và trên bo bo thấy có nguời đàn bà mặc áo trắng tôi biết ngay là BS. Thế là tôi lại phải dịch cho BS này. Vừa xong BS này lại có chiếc bo bo khác nữa tiến ra. Tất cả chúng tôi đều biết chiếc này là chiếc thực phẩm và nuớc uống. Những nguời lính HQHK họ đã chuyển sang chúng tôi rất nhiều thức ăn và họ khuyên chúng tôi nên bỏ những thức ăn cũ còn lại đi vì không có máy lạnh nên ăn vào không tốt. Viên Trung Úy cũng cho hay là mỗi ngày họ mang thức ăn nóng ra nên đồ ăn còn lại thì dục đi.

Buổi chiều hôm đó, có chiếc thuyền nguời bản xứ đi ra họ nói muốn mua con thuyền cũng như họ muốn mua những đồ ăn hộp chúng tôi ăn không hết. Tôi liền nói cho anh chủ thuyền và mọi nguời biết. Nhưng tất cả bảo tôi để từ từ coi lại ngày hôm sau sẽ trả lời chứ đừng đồng ý ngay kẻo HQHK họ không cho mình đi nữa thì bỏ xừ. Tôi liền nói cho mấy nguời phi này như thế và họ vào bờ. Cứ như vậy mỗi buổi chiều nhá nhem tối họ ra mua đồ ăn rồi vào nhưng chúng tôi chưa trả lời cho họ về việc bán con thuyền cho họ.

Trở lại Ông TTHQHK. Đúng sáng hôm sau, Ông này ra và kêu có một mình tôi vào căn cứ. Hỏi ra thì Ông cho hay là Ông đa gặp Thiếu Tá John Jack Joyce và ông John này xin đuợc nói chuyện với tôi để xác định xem có đúng là tôi không đã. Tôi xuống bo bo đi vào căn cứ với ông TT này. Vào đến VP Ông liền quay điện thoại và như có hẹn với nhau, đã gặp ngay TT John trên đầu máy. Ông ta liền trao ống nghe cho tôi và tôi đã nói chuyện trực tiếp với TT Joyce.

Đuợc biết ông ta lên Thiếu Tá khi trở lại VN lần thứ 2 và đi làm cố vấn cho MACV ngoài Đà Nẵng chứ không có trở lại Vùng 3. Nói chuyện với nhau khoảng 10 phút thì Ông ta bảo tôi trao máy lại cho ông Thiếu Tá HQHK. Sau khi cúp máy, TTHQHK liền bảo tôi là như vậy chắc chắn là mày đi mỹ. Chỉ có một điều tao nói cho mày biết là trong danh sách SQ/QLVNCH chưa có tên mày là Đại Úy, mày vẫn còn là Trung Úy. Tôi liền nói: Gắn lon cho tôi thì gắn thăng cấp mặt trận chứ không phải gắn lon lên tự nhiên. Nghị định thực sự chưa về thì đã mất miền Nam. Ông ta gật đầu và đồng ý.

Khoảng 1 tuần sau đó Ông ta ra cho tôi biết là ba ngày sau, tòa Đại Ssứ HK sẽ cho 1 xe bus xuống chở tất cả về Manila. Vì vậy nếu có thể bán đuợc con thuyền thì bán đi nhưng chỉ giao thuyền khi có bo bo của HQ đến đây đưa chúng mày vào bờ và lên xe chứ không đuợc giao thuyền sớm.

Tôi cho chủ thuyền và mọi nguời hay, tất cả đều nhảy reo vui mừng. Buổi chiều hôm đó nguời Phi lại ra. Tôi với chủ thuyền đã nói chuyện và đồng ý với gía cả đôi bên. Nguời Phi bảo tôi là chiều mai cũng vào giờ này tôi ra trả tiền và mời 4 nguời trong đó có tôi, chủ thuyền, anh TSI Và nguời phụ với chủ thuyền vào bờ chơi cho biết và họ tài trợ tất cả. Đúng như lời nói, ngày hôm sau nguời phi ra trao tiền và bảo chủ thuyền đưa tiền cho vợ giữ chứ đừng đem vào bờ. Thế là 4 anh em chúng tôi vào bờ với nhất dạ đế vương mãi gần sáng mới trở lại thuyền.

Đúng y lời, 4 chiếc bo bo HQHK tiến ra cặp hai bên thuyền và chúng tôi tuần tự sang bo bo để vào bờ. Nguời mua thuyền cũng đã đến gần để nhận thuyền và chúng tôi từ gĩa con thuyền vuợt sóng này. HQHK họ giao cho chúng tôi một số đồ ăn hộp và một số nuớc uống bằng loong và nói là phải mất 8 tiếng mới tới Manila và đây là đồ ăn thức uống trên đuờng đi. Chúng tôi cám ơn và từ biệt.

Đến 9:00 tối chúng tôi mới vào Building tỵ nạn tên là Madaluyong. Nơi đây đưa đồ ăn nóng và phát cho chúng tôi mùng mền và nệm. Nơi đây đã có đâu cả trên ngàn nguời đến truớc chúng tôi.

Cách ngày hôm sao, cao ủy cũng như lãnh sự quán HK đến gặp tôi. Theo lời cao ủy và Lãnh Sự HK, qua cuộc nói chuyện với TT John. Họ đồng ý trả cho tôi mỗi tuần $100.00 và cấp thẻ cho tôi ra vào cao ủy cũng như các tòa đại sứ khác khi họ cần. Úi chu cha, lúc này cuộc đời của tôi lên hương, cả ngàn cặp mắt huớng về tôi để trông chờ sự giúp đỡ. LS Thành và hai anh em thày tu muốn đi Pháp, tôi đã liên lạc với tòa ĐS Pháp giúp họ đi.

Số còn lại trong con thuyền của tôi đi mỹ hết mặc dù không đủ điều kiện của chính phủ HK nhưng vì thương tôi và cảm tình với tôi nên lãnh sự HK đồng ý hết. Tất cả những nguời khác tôi cũng đã giúp họ ý nguyện muốn đi nuớc nào theo sở thích của họ đều đi hết và nguời gần chót là tôi đi, chỉ còn lại một số rất ít đến sau.

Đến HK, tôi đuợc vợ chồng ông bà Joyce và 2 nguời con của ông bà đón tôi tại phi truờng rồi sau đó chở tôi đi ăn. Trên đuờng đi, ông Joyce có dặn tôi 3 điều cần phải nhớ:

1./- American nothing free. Có nghia là hôm nay tao mời mày ăn tao trả tiền. Ngày mai tao mời mày ăn thì mày phải rờ túi xem có tiền không đã. Nếu không có tiền thì khuớc từ chứ mày ỷ y theo phong tục của mày tao mời thì tao trả tiền là không có đâu.

2./- Lady First. Khi mày đi đến đâu mà thấy đàn bà thì mày ưu tiên cho bà đó đi truớc chứ mày không đuợc coi rẻ đàn bà như quê hương của mày.

3./- Không đuợc giết mèo giết chó ăn thịt như quê hương của mày gọi là món ăn quốc hồn quốc túy đuợc. Mày mà giết mèo hay chó mà cs đến là họ phạt mày $500.00 và tịch thu con vật đó đem chôn chứ không phải mày đóng phạt mà đuợc ăn nó đâu.

Trong bữa ăn, ông còn dặn dò tôi khá nhiều nhưng làm sao nhớ hết đuợc đến ngày hôm nay. Khi đưa tôi về đến Aparment Ông ta dặn tôi là sáng mai Ông ta đến đưa tôi đi xin thẻ an sinh xã hội. Sau đó 2 ngày Ông ta dẫn đến bà Giám Đốc USCC và bà này đồng ý muớn tôi để lo phụ giúp 20 gia đinh sẵn có nơi thành phố này. Tôi bắt đầu làm cho USCC ngày đó và tiếp tục bảo lãnh sang mỹ tới trên duới 40 gia đinh nữa.

Ngày hôm sau, Ông Joyce lại đưa tôi đến hãng làm xe đạp con nít. Nơi đây tôi đuợc muớn liền làm thợ máy. Thấy vậy, ông Joyce liền chở tôi đi thi bằng lái xe ngay vì theo lời ông ta nói thì với tiếng Anh sẵn có của tôi chắc chắn đậu. Đúng y rằng tôi đậu và xin thi lái luôn. Tôi có hơi trở ngại về Parallel Parking nhưng ông Joyce đã nói với nguời cs cho tôi đậu luôn. Thế là tôi có bằng lái sau 5 ngày đặt chân nơi đất Mỹ. Thứ Hai tới là tôi phải đi làm và khoảng cách từ chỗ ở đến hãng cũng phải hơn 5 dặm tôi hỏi Ông Joyce về phương tiện thì

Ông ta chở tôi ngay đến hãng xe Chevrolet bảo tôi mua xe và hỏi tôi thích xe nào? Tôi liền nói là làm sao tôi có tiền? Ông ta chỉ hỏi tôi là mày thích xe nào thôi chứ ông ta không hỏi tôi là mày có tiền không? Sau khi xem xong, tôi chọn chiếc Montecalo và ông ta nói với nguời bán cho tờ chiết tính cái xe là bao nhiêu đưa cho ông ta. 

Sau khi nguời bán đưa tờ chiết tính đó cho Ông, Ông liền bảo tôi lên xe chở tôi đến ngân hàng làm thủ tục muợn tiền. Ngân hàng nói phải có tiền down là $1,500.00 thì ngân hàng mới chịu. Ông ta liền bảo ngân hàng là tao cho nó muợn tiền của tao. Thế là lập thủ tục và lấy check đi trả cho hãng xe kèm theo cái check $1,500.00 của ông ta cho tôi muợn không tiền lời và phải trả lại 5 thắng, mỗi tháng $300.00.

Nhờ vào 2 job, tôi đã paid Off cả hai món nợ trong vòng 1 năm ruỡi thay vì 3 năm. Tôi liền đến Đại Học ghi danh học ngành Computer và Accounting. Nơi đây họ bắt tôi phải thi lấy bằng trung học phổ thông (GED) nếu đậu, họ mới cho tôi học. Bằng này phải thi 5 môn và mỗi môn đóng $15.00. Tôi đóng $75.00 thi đậu đuợc 3 môn. Sau đó vào thư viện tìm kiếm cuốn lịch sử HK và cuốn Gov. trở lại đóng $30.00 để thi lại 2 môn. Lần này đậu thêm 1 môn nữa. Họ khuyên tôi đi học ESL. Tôi đồng ý và ghi tên đóng tiền học ESL. Sau khi học xong ESL, trở lại đóng $15.00 nữa để thi lại GED và lần này thì tôi đậu. Thế là cầm ngay bằng GED trở lại đại học để học.

Với hơn năm năm trời mài đũng quần nơi đại học và cái gì phải đến đã đến tôi ra truờng và Houston trực chỉ đó là ngày 12-3-1982 cũng là ngày sinh nhật của tôi.

Với hơn ba thập niên nơi thành phố này, biết bao thăng trầm đã đưa đến. Nguyễn Vân Tùng năm xưa vẫn là Nguyễn Vân Tùng năm nay chữ TÔI đã không còn trong tâm hồn mà chỉ là thành phần thu dọn vệ sinh cho sạch sẽ. Chúng tôi viết lại chuyện này để kính mong những ai còn chữ TÔI trong đầu còn qúa lớn. Xin hãy cùng tôi quăng ngay nó vào xọt rác như tôi đã ném nó vào gần 4 thập niên qua.

Hãy vì quốc gia dân tộc, hãy vì tiền đồ tổ quốc VN. Những ngày còn lại trên trái đất này hãy huớng dẫn, nâng đỡ và cổ võ cho hậu duệ. Chỉ có hậu duệ mới cứu đuợc đất nuớc VN. Chúng ta, tất cả đã về chiều, đừng vì tự ty mặc cảm, đừng vì ích kỷ tiểu nhân mà hãy nhìn nhận chúng ta không còn thì gìơ để làm nữa. Tục ngữ có câu: MUA DANH BA VẠN, BÁN DANH CHẢNG CÓ 1 XU. Nếu chúng cứ đưa chữ TÔI của mình lên, chúng ta sẽ bị ngoài đời xỉ vả mắng nhiếc. Hãy để sự thương tiếc của mọi nguời đến với chúng ta ngày sau cùng.

Mong lắm.

Nguyễn Vân Tùng.

Houston, ngày 6 tháng 3 năm 2013     
 

 

 

  Video Việt sử “Đất Nước Tôi”
Đất Nước tôi màu thắm bên bờ đại dương (Việt+English)
http://www.youtube.com/watch?v=tZ-ysBJiZMk (cc in English)
với truyền thống dân tộc Đại Việt
hào hùng đánh dẹp giặc Tàu xâm lăng
  

Quý vị có trở ngại sử dụng computer?
Xin xem hướng dẫn và các mẹo vặt
http://levanbay.atspace.com