Bài thơ đầu tiên tôi đọc trọn vẹn của nhà thơ Hoàng Phong Linh Võ Đại Tôn là bài thơ viết về Mẹ và dòng sông Thu Bồn trong mùa lũ lụt đăng trên Giai Phẩm Xuân Quảng Đà do nhà thơ Thái Tú Hạp ở California, Hoa Kỳ, chủ trương: bài thơ có tựa Nước Trôi Mồ Mẹ.
Khoảng hai mươi năm sau, một buổi chiều đầu năm, tôi được lần nữa đọc bài thơ này trong bản thảo hồi ký Tuổi Thơ và Chiến Tranh của anh, niềm xúc động vẫn còn nguyên như khi đọc lần đầu.
Nhà thơ có một tiểu sử rất dày và sinh hoạt đa diện. Mỗi người có thể gọi ông từ một góc nhìn và quan điểm nhưng với tôi ông cho phép tôi được gọi bằng anh và từ nhiều năm nay tôi vẫn gọi nhà thơ bằng anh.
Một lần vài năm trước, anh email bảo tôi viết lời giới thiệu cho hồi ký Tuổi Thơ và Chiến Tranh, một tác phẩm mà anh nói, có thể là cuối cùng. Dĩ nhiên tôi rất hân hạnh viết trong tư cách một người em cùng lớn lên trên quê hương nghèo khó Quảng Nam, và một người cũng có mẹ đang yên nghỉ bên bờ sông Thu Bồn.
Trong tác phẩm Tuổi Thơ và Chiến Tranh có bài thơ viết về mẹ hết sức xúc động.
Nhiều nhà văn, nhà thơ có khiếu văn chương, chỉ cần nhìn một bông hoa đẹp, đi thuyền qua một dòng sông, họ có thể để lại cho đời những bài văn, bài thơ tuyệt tác. Anh em chúng tôi không có được năng khiếu đó. Phía sau những dòng chữ, những câu thơ của Nước Trôi Mồ Mẹ là những đời sống thật, những nỗi đau có thật, là những mảnh xương còn sót lại trên cồn cát, là những mảnh thịt tan nát trong hố sâu và là những giọt nước mắt tiếc thương chảy suốt một đời người.
Hình ảnh dòng sông, cơn lụt và ngôi mộ nhỏ từ bài thơ anh viết, in sâu vào ý thức của tôi từ hai mươi năm trước chợt hiện ra chiều nay trên xứ người xa lạ. Hình ảnh bi thương đó không phải chỉ của riêng anh mà còn của tôi và của tất cả những đồng bào cùng số phận. Anh em chúng tôi, tuổi tác cách nhau hơn 20 năm mà cùng chịu chung một nỗi đau. Nỗi đau chỉ lớn thêm theo thời gian nhưng không có tuổi.
Hai mươi năm sau đọc lại bài thơ Nước Trôi Mồ Mẹ, tôi không còn nước mắt để khóc cho anh và cho tôi như ngày thơ ấu ở Hội An, Đà Nẵng. Chắc là không.
Chúng tôi những người con đi xa, gánh trên vai đôi gánh nặng. Đất nước, quê hương, tình thương và nỗi nhớ. Nhiều khi tôi thèm làm một con chim nhỏ, bay về đậu trên tấm bia và đọc cho mẹ nghe những bài thơ được đan kết từ mấy mươi năm trầm luân thống khổ. Nhưng không, đôi cánh chúng tôi quá nhỏ và khoảng trời thì quá xa, ước mơ cho đến nay cũng chỉ là mơ ước.
Chúng tôi chọn lựa một cách sống mà chúng tôi nghĩ là đúng nhất cho đời mình và cho đất nước nhưng chọn lựa nào mà chẳng có hy sinh.
Ngày mẹ tôi mất tôi còn quá nhỏ để ý thức một cách trọn vẹn ý nghĩa của đau thương. Giọt nước mắt tôi nếu có nhỏ xuống trên ngôi mộ vàng mới đắp bên bờ sông Thu chỉ là phản xạ tự nhiên. Tôi mới sinh ra nên còn quá nhỏ để hỏi tại sao và để hiểu tại sao.
Anh Võ Đại Tôn thì khác. Anh lớn đủ để biết cảm nhận nỗi đau thấm dần vào ý thức. Anh bất hạnh hơn tôi vì mẹ anh, người đàn bà vốn đang trọng bịnh trong người, đã phải chết trong hoàn cảnh vô cùng thảm thương, đau đớn.
Một đoạn văn trong hồi ký Tuổi Thơ và Chiến Tranh ghi lại giờ phút cuối cùng của mẹ anh:
“Không có đem theo đèn đuốc gì cả, chỉ có cầm theo hai cái cuốc. Hắn bắt mẹ tôi ngồi riêng một chỗ. Còn hai chú thì được lệnh lấy cuốc tự đào một cái hố nhỏ. Xong rồi, khi chú Mười tôi còn đang đứng bên miệng hố, chưa biết làm gì thêm, thì thình lình tên Thân chụp một cái cuốc, phang ngang lưng chú một nhát mạnh làm chú ngã chúi xuống hố, nằm sấp, đau quằn quại. Trước cảnh tượng bất ngờ như vậy, chú Tám Dương tôi chưa kịp la lên thì hắn đứng phía sau dùng chân đạp chú té xuống hố. Chú tôi vừa cố lóp ngóp bò lên vừa la xin tha mạng. Hắn đứng trên miệng hố cát, cầm cuốc phang xuống, trúng ngay vào trán của chú tôi, làm chú té bật ngửa ra, nằm đè trên lưng chú Mười. Hai người chưa chết. Rồi, hắn đến xốc mẹ tôi đứng dậy trong khi mẹ tôi đang ôm mặt khóc lớn. Hắn lạnh lùng dẫn mẹ tôi đến cạnh miệng hố, xô xuống thật mạnh, mẹ tôi rớt xuống, nằm sấp trên người chú Tám. Hắn đứng trên hố, cầm cuốc cúi xuống phang mấy nhát thật mạnh vào lưng mẹ tôi, làm cả thân hình mẹ tôi quằn cong lại. Cả ba người chưa chết, nhưng không còn sức bò dậy được nữa, nằm im trong máu, chung một hố cát cạn. Tên Thân và đồng bọn dùng cuốc xúc cát lấp hố lại rồi bỏ đi. Chôn sống!“
Và đây, bài thơ Nước Trôi Mồ Mẹ của nhà thơ Hoàng Phong Linh Võ Đại Tôn:
Con quỳ bên ni dòng sông Bên tê mồ Mẹ ! Trời ơi, nước ngập tràn đồng Từng khúc xương trôi đau lòng con trẻ. Con mang trong người thịt xương của Mẹ Chừ trông nước lụt dâng về Con còn bên ni, Mẹ mất bên tê, Sóng bao la vỗ, bốn bề Mẹ mô ? Ngày xưa Mẹ chết, con khóc mắt khô, Chừ xương Mẹ trôi, hồn con nước lụt. Nước dâng ngùn ngụt Cuốn mái tranh nghèo. Sóng cuộn mang theo Ngày vàng bên Mẹ. Con nhớ ngày xưa tiếng con thỏ thẻ Đòi đi theo Mẹ nhóm buổi chợ làng. Mẹ dắt tay con qua xóm, hoa vàng Nở tươi bờ dậu. Con kêu : – “Mẹ ơi, tưởng đàn bướm đậu” Mẹ cười, bóp chặt tay con. Con nhớ những lối đường mòn Trâu bò qua lại. Buổi chiều đơn sơ, lũy tre nằm ôm nắng quái, Con đùa với bóng cau nghiêng. Mẹ la : – “Coi chừng tối ngủ không yên, Giật mình con khóc, bà Tiên bả buồn…”. Con nhớ những mùa mưa tuôn Gió đông kéo về lạnh buốt. Trong lòng Mẹ, con nằm co rút, Mẹ chuyền hơi ấm tình thương Con mê giấc ngủ đêm trường, Mẹ vui. Con nhớ dòng sông êm xuôi Trôi về Phố Hội. Giặt áo bên con Mẹ ngồi mỗi tối, Con nhìn cá đớp trăng sao. Mỗi lần sao chuyển ngôi cao Con đưa ngực nhỏ, sao vào hồn thơ. Nhìn con, mắt Mẹ đầy mơ Con đòi Mẹ cõng, hờ ơ… Mẹ hò. Chừ con về : nước lũ, sóng to Xoáy cửa, phăng nhà, Xốc trôi mồ Mẹ ! Xương theo dòng sông ngày xưa ra bể Vì chưng lòng Mẹ : đại dương ! Mẹ sống lầm than cho con tình thương Chừ Mẹ chết đi, mồ trôi nước lụt. Con quỳ bên ni, linh hồn tê buốt Mần răng mà về bên tê chừ, Mẹ ôi ! Quê hương nước ngập tận trời Hồn con khóc suốt một đời không nguôi !…
(Nước Trôi Mồ Mẹ, Hoàng Phong Linh)
Trần Trung Đạo