Đoàn xe buýt chở tù vào đến ga Nam Định thì trời vừa tối và họ chỉ định cho chúng tôi một góc tường nhà ga làm nơi tạm thời nghỉ ngơi trước khi có lệnh lên tầu hỏa.
Chúng tôi người đứng dựa vào bức tường hay dựa vào nhau, không ai dám trải tờ báo ngồi xuống đất bởi chung quanh đó không có một chỗ nào tương đố sạch sẽ một chút, toàn những đất đen lẫn những miếng gạch vỡ và ẩm thấp.
Quả thật tôi không thể ngờ rằng cuộc đời nhiều lúc đắng cay và nghịch lý như hoàn cảnh của tôi.
Năm một chín sáu lăm, tôi là một học sinh Chu Văn An mang trong người mảnh bằng Tú Tài II với nhiều mộng ước vào đời, nhưng đúng mười năm sau đó là Định Mệnh đau thương khi miền Nam sụp đổ và tôi lại quay về đúng ngôi trường thân yêu ấy trong thân phận người tù chờ xe đến để chở vào trại tập trung “cải tạo”.
Không gì đau lòng hơn hôm nay nữa khi tôi ghé lại nhà ga Nam Định, nơi chôn nhau cắt rốn của mình trong tư thế một tù nhân chuyển trại. Cứ ngỡ rằng nếu có một ngày nào về thăm quê hương Nam Định của tôi thì đó phải là một ngày trong vinh quang.
Khi trời đã về khuya, các gian hàng trong khu nhà ga đã lên từ lâu, thứ đèn bóng tròn hắt ra một thứ ánh sáng vàng vọt yếu ớt không đủ chiếu dù chỉ là một khoảng sân ga thì chúng tôi được lệnh lên tầu.
Từng hai người một bước lên con tầu cũng cũ kỹ như cái ga Nam Định, có lẽ đã nhiều chục năm vẫn mang một bộ mặt không thay đổi đó.
Bấy giờ là vào tháng Năm năm một chín tám tám, các tù nhân chính trị chế độ cũ còn bị giam giữ tại miền Bắc chỉ còn lại đúng chín mươi người trong số hàng trăm ngàn tù nhân bị di chuyển vội vã bằng mọi phương tiện từ Nam ra Bắc mười hai năm trước. Cộng với một tù hình sự nghe nói có người chú là Thiếu Tướng VC nên được ưu đãi cho vào Nam tiếp tục thụ án.
Chúng tôi chiếm hai toa đầu tiên và các cán bộ và cán binh đi áp tải thì một toa nữa thứ ba để ngăn cách chúng tôi với dân chúng hay những người buôn bán bị dồn xuống các toa tầu phía sau.
Cứ hai người ngồi một ghế băng bằng gỗ thì khá rộng rãi nhưng nếu nhét bốn người thì không lọt nên chúng tôi ngồi thành hai cặp đối điện nhau.
Tôi để cây đàn ghi ta và giỏ mây đựng các thứ cần thiết lên trên giá gỗ cho rộng chỗ và vừa ngồi xuống chưa bao lâu thì con tầu bắt đầu chuyển bánh một cách nặng nhọc rời nhà ga.
Quả thật đây là giấc mơ bất ngờ mà bao nhiêu năm nay chúng tôi chờ đợi vì ít ra nếu không được thả ra khỏi trại thì cho về Nam cũng dễ thở hơn, cũng như án tù của mình được giảm đi một phần rồi.
Người tù và nhạc sĩ BĐQ tài hoa ấy vẫn mơ về một ngày mà đất Mẹ sẽ có lại được những nụ cười thương yêu, những khuôn mặt rạng rỡ, có lại được tình người nồng thắm trong một không gian đầm ấm của hạnh phúc ngày xưa, và tất cả những đau thương do chiến tranh và tù đầy đổ xuống quê hương tang tóc sẽ chỉ còn là dĩ vãng.
Nếu đúng vậy thì anh đã có thể trở về cái ngày xưa ấy khi còn giòng máu nóng trong người và cầm súng trên tay cùng các đồng đội đi săn lùng diệt địch.
Anh hai Hầu ngồi bên cạnh tôi đã ngủ từ lúc nào, anh thật là hiền hậu vô tư và thật là dễ ngủ dù là trong tư thế ngồi và đôi khi xe chạy qua những quãng đường không được êm lắm. Tôi rất mến anh vì tính tình đôn hậu giản dị của người miền Nam nên coi anh như người anh và ăn chung với nhau kể từ ngày thầy Tâm, thầy tôi và các vị trong Nha Tuyên Úy được thả về.
-”Mỗi lần anh nghe Đại thuyết trình về tin tức thời sự, về sự can thiệp của Mỹ và các hội đoàn cho anh em mình sớm được trả tự do thì anh lại lên tinh thần.”
Bởi vậy đó là lý do tại sao chúng tôi phải săn lùng các tin tức liên quan đến các tù nhân chính trị để biết chắc được rằng thế giới bên ngoài vẫn còn nhớ tới mình.
-”Anh ngủ gục. Không được rồi tôi chẳng có thể ngồi canh anh như thế này suốt đêm được rất nguy hiểm. Bây giờ anh nằm xuống sàn tầu đi rồi gần sáng tôi đổi chỗ cho anh lên ghế nằm chứ ngủ ngồi không xong rồi.”
Đây là đất nước mình đây ư! quê hương của mình đây ư! nhưng tại sao chúng tôi lại vẫn còn bị giam giữ và đầy đọa ngay trên quê hương mình khi cuộc chiến tranh khốc liệt, kéo dài hai thập niên với bao nhiêu triệu người chết, đã tàn rồi từ mười ba năm trước?
Cuối cùng thì giờ này tôi đang bỏ lại sau lưng cả một quãng đời tù đầy cơ cực trên xứ Bắc.
Hoặc phải tìm ít nước thấm ướt cái mùng rồi chui vào ngay khi còn ít hơi mát để tìm giấc ngủ, khổ nhất lúc đó là phải chui vào trong mùng bởi không thể ngủ bên ngoài vì từng đàn muỗi sẽ đến hỏi thăm sức khỏe ngay. Ban ngày thì lao động khổ sai ban đêm thì chống chỏi từng giờ với cái nóng ghê gớm của mùa Hè.Cái nóng ghê gớm đến nỗi mà một anh bạn thân tôi là cò Lạt đã phải than rằng chỉ cầu Trời cho một cơn mưa chứ chẳng còn cầu ngày về nữa.
Nghĩ đến gia đình tự dưng hình ảnh hai đứa con hiện lên trong trí nhớ, có lẽ giờ này chúng lớn lắm rồi vì ngày tôi ra đi thì con gái chưa đầy năm tuổi và con trai chưa đầy bốn, bây giờ…bây giờ thì chúng đã mười tám và mười bẩy tuổi rồi, chắc khi gập lại tôi không thể nhận ra con tôi nữa.
Tôi đã đi vào một giấc ngủ thật sâu lắng và êm đềm cho đến khi ánh nắng ban mai rọi chiếu vào toa tầu qua khung cửa sổ làm tôi tỉnh giấc thì trời đã sáng từ lúc nào và tầu đang đi vào địa phận miền Trung.
Miền Trung, nhất là các tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh, miền đất cằn lên sỏi đá và thiên tai bão lụt quanh năm vốn đã nghèo nay lại còn xơ xác hơn với những mái nhà tranh vách đất xiêu vẹo, những con trâu gầy gò, những con bò ốm giơ xương và những con người bừa thay trâu cầy thật là khốn khổ.
Đâu đâu cũng nhìn thấy những khuôn mặt xanh xao thiếu ăn trong những bộ quần áo lam lũ làm chúng tôi tuy trong thân phận tù đầy không khỏi bồi hồi xúc động và thương thay cho dân mình.
Mấy tay cán binh này và mấy tay Thiếu Úy nữa đi theo trên tầu, chúng tôi đếu quen mặt vì thường xuyên vào trại uống cà phê, trà lá. Họ biết chúng tôi nên đi theo canh giữ cũng dễ chịu.
Mỗi lần như thế thì tôi lại cho anh ta ít tiền để uống cà phê nhờ vậy mà tôi có nước sôi mà pha trà hay cà phê hay làm gói mì ăn sáng cho tôi và anh Hầu.
Cho nên chúng tôi suốt ba ngày đêm trên tầu cũng ăn uống tạm đủ.
Một điểm nữa đã đưa họ lại gần với chúng tôi chính là văn nghệ với các bản nhạc xưa đã làm họ say mê, những buổi văn nghệ các tối thứ Bẩy tại buồng giam mà họ ghé đến bên ngoài để cùng tham dự.
Đây cũng là một giai đoạn đáng ghi nhớ đánh dấu một thời điểm rất quan trọng là chúng tôi đã xoay chuyển được tình thế, từ lúc mới vào tù họ coi như các cặn bã rác rưởi trong xã hội và chà đạp lên nhân phẩm của người tù chính trị, cho đến ngày nay thì họ nhìn chúng tôi với con mắt nể trọng xen lẫn mến phục.
Trước ngày rời trại Nam Hà để lên xe lửa vào Nam, tay Thượng Tá trưởng trại trong một buổi nói chuyện cũng nói rằng “Chúng tôi không có khả năng để giáo dục cải tạo các anh và tôi còn bảo các cán bộ của tôi hãy vào trong trại mà thực tế học tập ở các anh nữa.”
Vừa rời khỏi miền Trung chưa bao xa để vượt qua con sông Bến Hải vào địa phận trong Nam thì thấy rõ ràng cảnh vật đổi khác nhanh chóng với nhà cửa ruộng vườn xanh tươi hơn, con người cũng bớt lam lũ hơn và khí hậu như mát dịu hẳn đi.
Con tầu đi qua ba miền tuy cùng trong một đất nước nhưng tôi cảm nhận ngay được sự khác biệt của cái nghèo, sự chịu đựng và sự khổ cực của con người sống trên xứ Bắc và tại miền Trung so với sự trù phú của miền Nam cho nên dù là phải sống trong chế độ Cộng Sản thì người miền Nam vẫn có thể bươn chải mà tồn tại được dễ dàng hơn người Bắc và người Trung.
Trời đã xế chiều và con tầu chợt dừng lại để chờ đổi đầu máy mới. Khi xe đang tạm thời dừng lại chờ vào trạm, viên Thượng Úy phụ trách chuyến di chuyển nầy tưởng rằng đã đến sân ga nên ra lệnh cho các người tù xuống xe.
Bởi vì cứ hai người thì còng tay lại với nhau cái còng số 8, và anh Hai Hầu vừa bước chân xuống sân và tôi còn đang trên các bực thang thì bất ngờ tàu chuyển bánh, trong tư thế người trên kẻ dưới và anh Hầu hoàn toàn không biết là tầu đã chuyển bánh nên kéo tôi xuống trong khi tôi đang ghì trở lại.
-”Anh Đại đưa cho tôi cây đàn!”. Trong một tích tắc động hồ như có ông bà xui khiến, tôi ném cây đàn về phía tên Thiếu Úy, tay phải buông cái giỏ ra và nhảy một cái qua hai bực thang xuống lòng sân ga trong khi toa tàu chạy vụt qua phía sau lưng.
Tôi cảm thấy hơi lạnh chạy dọc theo xương sống. Chỉ một tích tắc không nhảy xuống kịp thì hoặc anh Hầu hay tôi sẽ bị té xuống và rớt vào đường rầy xe lửa.
Chỉ tích tắc đồng hồ thôi nếu tôi không nhẩy kịp ra khỏi toa tầu thì hoặc tôi hay anh Hầu đã nằm dưới bánh xe lửa.
Tôi chỉ nhìn loáng thoáng thấy một cái sân ga vắng lặng như đang yên ngủ và vài hàng quán còn le lói ánh đèn nhưng đều đã đóng cửa.
Bởi vậy người tù lúc nào cũng phải chuẩn bị tinh thần cho những gì xấu nhất có thể xẩy tới cho mình bất kỳ lúc nào, tuy trong lòng luôn cầu nguyện những gì tốt đẹp nhất sẽ đến.
Khoảng một tiếng đồng hồ sau bỗng có hàng loạt bộ đội vào sân trại và ra lệnh cho tất cả tù nhân đem hết tư trang ra ngoài sân để khám xét. Cái điều khó chịu ấy cứ sáu tháng lại tái diễn một lần và họ lựa đúng vào những dịp tù được nghỉ lao động để khám xét mục đích là không cho chúng tôi được nhiều thời gian riêng cho mình và đưa chúng tôi vào tình thế luôn bị động.
Mục đích của khám xét là để xem tù nhân có tàng trữ những gì trái với nội quy của trại không như vật nhọn, muối, tiền mặt, kinh sách tôn giáo, “nhạc vàng”, quần áo chưa đóng dấu “cải tạo”?
Trung và các bạn trong buồng lần lượt khuân hết các ba lô hay túi xách, các thứ linh tinh và chiếc chiếu cá nhân ra ngoài sân.
Mỗi lần như vậy thì Trung nhận thấy mình lại mất đi một vài thứ, lúc thì cái muỗng bằng bạc dùng để ăn cơm, lúc thì con dao cùn dùng để cạo râu, v.v.. Còn thì những thứ thực sự có giá trị như đồng hồ, nhẫn vàng, tiền mặt thì ngay từ lúc đầu bước chân vào trại giam thì họ đã tịch thu dưới danh nghĩa là trại “quản lý” dùm cho các anh khi nào được tha về sẽ trả lại.
Và mỗi lần như vậy là đám cán binh và đám bộ đội trực trại lại khám thật kỹ từng người một, từ cái lai quần đến ve áo trên người cho đến chăn mền quần áo, từng chỗ nằm của mỗi người và vết nứt trên tường.
Trung khoanh tay đứng nhìn một cách hờ hững vì anh chẳng còn gì để chúng nó tịch thu nữa mà phải lo nghĩ, và bên cạnh anh các bạn cũng từ từ cuốn chiếc chiếu lại đem vào buồng giam.
Ngày hôm sau trên đường đi lao động vào rừng đốn gỗ cho trại Trung thấy Tuấn lộ vẻ đăm chiêu và lo lắng không yên nên anh hỏi:
-”Sao thấy cậu có vẻ lo lắng chuyện gì thì phải?”
-”Ừ! Đêm qua mình lại nằm mơ thấy bà xã của mình, bà ấy khóc quá nói là mấy năm nay đi tìm kiếm mình khắp nơi mà không gặp.”
-”Ủa! mình tưởng là cậu còn độc thân chứ? Nhưng như vậy cũng là vui rồi, không gặp được người thực ở ngoài đời thì gặp người trong mộng cũng là vui và an ủi rồi còn gì?”
-”Không phải vậy đâu! Mình vẫn còn độc thân nhưng mà bà ấy là bà xã trong mộng của mình mà thôi nhưng mà câu chuyện dài lắm để mình kể cho cậu nghe…”
Thế rồi Tuấn từ từ kể lại cho Trung nghe về cuộc đời và mối tình kỳ lạ của mình ngày còn trong quân ngũ.
Sau đó đơn vị của Tuấn được lệnh đi hành quân tảo thanh diệt địch và tạm thời trú đóng bên cạnh một giòng sông nước trong vắt với hàng dừa xanh thật là thơ mộng.
Rồi một hôm, một biến cố đã xảy ra trong một ngày định mệnh đã làm đảo lộn hết cả cuộc đời binh nghiệp của anh.
Anh bèn ra lệnh cho binh sỹ khiêng nàng lên bờ và cho lính vào trong làng hỏi thăm xem có ai biết tông tích ra sao để báo tin cho gia đình nạn nhân đem về mai táng. Anh buột miệng khen một câu:
“Người đẹp như vậy mà chết uổng quá! Giá mà còn sống lấy mình thì thật là đẹp đôi.”
Tình yêu nảy nở lúc nào không hay giữa trai tài gái sắc, hai người trao nhau nụ hôn đầu tiên trong vườn Bách Thảo và bàn tính chuyện hôn nhân. Anh rất mừng là mẹ nàng cũng tán thành và tác hợp cho đôi lứa.
Anh bèn xin đơn vị nghỉ phép nói là về thăm gia đình nhưng chính là về để tổ chức đám cưới với Mộng Điệp. Đám cưới thật là vui với đầy đủ lễ nghi đón dâu và đãi tiệc tại nhà hàng và có cả xác pháo hồng và áo cưới cho cô dâu e thẹn về nhà chồng.
Lúc đó tại thị xã nơi đơn vị Tuấn đóng quân, các cô bán hàng mỹ phẩm và quần áo phụ nữ thường rất ngạc nhiên khi thấy Trung Úy Tuấn thường đến cửa hiệu của họ và mua những quần áo kể cả đồ lót cho phụ nữ và đồ trang sức nữa. Ở cái thị xã nhỏ như vậy thì ai cũng biết chàng Trung Úy đẹp trai anh hùng này vẫn còn độc thân nhưng mỗi khi các cô hỏi chàng mua tặng cho ai thì Tuấn chỉ cười lắc đầu chứ không trả lời cô nào cả.
Bà cụ nói rằng anh đang bị ám khí rất là nặng và nếu không chữa trị kịp thời thì không thể cứu được tính mạng. Vì anh thường hay làm những điều phước thiện giúp đỡ binh lính và dân chúng cho nên cụ được lệnh là phải cứu giúp anh. Mới đầu thì Tuấn không hiểu nhưng sau thì anh chợt nhớ ra người vợ Mộng Điệp của mình và kể cho bà cụ nghe từ đầu đến cuối câu chuyện.
Bà cụ trầm ngâm một lúc và nói rằng rất may mà anh gặp được cụ và cụ có thể chữa bệnh ma ám cho anh được vì cụ cao tay hơn con ma đang ám ảnh anh suốt hơn năm qua.
Lúc này thì Tuấn mới hiểu rằng tại sao sức khỏe của anh bị sa sút và damặt thì xanh hẳn đi như người bị mất máu mà trước kia anh cứ nghĩ là vì các cuộc hành quân gian khổ. Hóa ra là cuộc tình giống như những truyện trong Liêu Trai Chí Dị mà anh đã đọc hồi xưa đã tàn phá sức khỏe của anh trông thấy.
Bà cụ bèn lấy một chén nước sắc bằng những lá rừng và làm phép trên đó, để lên một cái bàn thờ nhỏ trong nhà thắp một nén nhang xong và bảo anh uống chén nước đó. Xong rồi, cụ cho anh một cái sợi dây chuyền bện bằng những sợi chỉ ngũ sắc rất đẹp và bảo anh là luôn luôn phải đeo trên cổ không được xa rời thì cái người vợ ma kia sẽ không còn hại anh được nữa.
Và cái điều lạ lùng là kể từ ngày ấy khi anh đeo sợi dây chuyền ngũ sắc trên cổ thì anh không còn gặp lại người vợ trong mộng nữa, không những thế hình như sợi dây chuyền này cũng che chở và đem may mắn cho anh trước lằn tên mũi đạn của quân thù.
Thời gian thấm thoát trôi qua cho đến một hôm anh chợt nhớ đến vị ân nhân của mình khi hành quân gần ngôi làng cũ và ghé vào thăm bà cụ ngày trước đã cứu mạng cho anh.
Khi gặp lại thì cụ rất là vui mừng y như người mẹ gặp lại đứa con còn an lành sau những ngày tháng hành quân gian khổ.
Cụ hỏi anh có biết người phụ nữ đó là ai không và nói ngay với anh rằng chính cái người vợ trong mộng của anh đã nhập vào người đàn bà đó để làm dữ với cụ vì cụ đã làm phép cho anh không còn bị ma ám nữa.
Những năm tháng sau đó, khói lửa bốc lên khắp nơi và người Sàigòn bắt đầu làm quen với những địa danh như Tống Lê Chân, Khe Sanh, Mùa Hè Đỏ Lửa tại Quảng Trị, Đông Hà, An Lộc Tử Thủ, Đại Lộ Kinh Hoàng với pháo kích của VC và quân Bắc Việt dọc theo Quốc Lộ 1 đã tàn sát hàng chục ngàn thường dân vô tội và gia đình của họ khi di tản từ miền Trung vào miền Nam lánh nạn.
Đơn vị của Tuấn đã liên tiếp chiến thắng lẫy lừng đem lại niềm hãnh diện cho Trung Đoàn và được Trung Đoàn khao quân và tưởng thưởng nhiều huy chương cao quí của quân đội.
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa một quân đội anh hùng đã vì thế mà mất đi dần ưu thế trên chiến trường và lui dần vào thế thụ động và phòng thủ. Chiến đấu cơ không còn đủ xăng nhớt để hoàn thành những phi vụ và pháo binh cũng không còn đạn pháo để yểm trợ cho quân bạn như xưa nữa và điều gì phải đến đã đến.
Ngày 30 Tháng Tư năm 1975, Miền Nam sụp đổ và rơi vào tay Cộng Sản và Tuấn cũng như hàng triệu quân dân cán chính khác của chế độ VNCH sa chân vào chốn lao tù.
Sau những lần chuyển trại trên đất Bắc, tình cờ Tuấn gặp lại người bạn thân năm xưa cũng sư đoàn là Trung Úy Trung pháo binh. Tuấn ngừng lại một chút rồi tâm sự:” Kể từ ngày họ tịch thu sợi dây chuyền ngũ sắc của mình thì ngay ngày hôm sau lên rừng đốn củi tự dưng mình thấy buồn ngủ ríu cả mắt lại và ngồi tựa gốc cây ngủ lúc nào không hay. Chỉ một lát sau thì thấy ngay người vợ trong mộng hiện ra và nàng khóc lóc ôm lấy mình và nói rằng mấy năm nay nàng đã đi tìm mình khắp nơi mà không gặp và điều bất ngờ nàng nói rằng đã có một đứa con hai tuổi với mình và ôm con sống trong cô đơn suốt mấy năm nay.”
Trung nhìn sững bạn anh, nếu không phải là người bạn thân đích thực kể cho nghe thì chắc anh sẽ không tin là câu chuyện này là có thực của một người cõi âm đã đem lòng yêu thương một người trên dương thế là bạn của anh và đã lặn lội từ Nam ra Bắc để ôm con đi tìm chồng.
Cuộc đời vẫn luôn xoay vần và Trung những tưởng là mình sẽ chết và chôn vùi trong xó rừng miền Bắc nhưng vì quân Bắc Việt tấn công qua Campuchia và Trung Cộng đánh qua sáu tỉnh miền Bắc nên anh và những bạn tù được di chuyển từ Hoàng Liên Sơn về các trại giam khác ở miền trung du vào năm 1978.
Nhưng Trung và Tuấn sau lần chuyển trại thì bị tách ra về hai nơi khác nhau và không còn gặp lại nhau nữa.
Họ đã trở thành những người lính, những sĩ quan tài giỏi thao lược và trở thành những anh hùng lưu danh muôn thủa trong các binh chủng của QLVNCH, nối gót cha ông và nối gót tiền nhân, đi trên khắp các nẻo đường của đất nước để bảo vệ quê hương chống họa xâm lăng từ phương Bắc.
Hầu như gia đình nào cũng có con em nhập ngũ trong những năm đầu của thập niên sáu mươi tại Sài Gòn và khắp các tỉnh miền Nam.
Gia đình tôi có chín anh em không kể “con bé dại”, Mẹ tôi vẫn gọi đứa em gái vắn số của tôi như vậy khi nó mất đi mới có vài tháng tại Hải Phòng lúc đó tôi nhớ còn ở đường Cát Dài chưa dọn về Cầu Đất.
Tôi tuy sanh đẻ tại Nam Định nhưng trong ký ức không còn nhớ gì về thành phố nơi chôn nhau cắt rốn này của mình, bởi mới sanh ra thì Ba Mẹ tôi đã đi tản cư liên miên ra khỏi Nam Định vì các thành phố lớn đều là mục tiêu cho các cuộc tấn công và phá hoại của Việt Minh và giao tranh của Pháp-Nhật tại Đông Dương. Người dân lành chỉ còn biết trốn chạy lúc thì trốn Việt Minh, lúc thì trốn quân phiệt Nhật để qua vùng Pháp kiểm soát, lúc thì trốn các cuộc giao tranh giữa Pháp – Việt Minh, thật vô vàn cơ cực.
Thành phố Hải Phòng là nơi thiếu thời của tôi và ba ông anh lớn và là nơi mà tôi còn ghi lại được nhiều kỷ niệm, nhất là những năm tháng theo học tại trường Dòng Saint Joseph. Hai đứa em út thì sanh trong Nam nhưng ba em gái tôi sanh tại miền Bắc lúc đó cũng quá nhỏ nên tôi không nhớ tụi nó nhiều hay có nhiều kỷ niệm như với ba ông anh trai.
Bốn anh em trai lớn trong gia đình tôi mà Ba Mẹ đặt tên Quang, Minh, Chính, Đại, thực tế thì tính tình lại không giống nhau và có những cuộc đời cũng khác nhau dù là cùng một cha một mẹ.
Ông anh Cả thì hiền lành và đạo đức nhưng có khuynh hướng thiên về quân sự ngay từ nhỏ khi thích bầy binh bố trận với các tên lính bồng súng và các xe jeep bằng thiếc mà Ông Nội tôi đúc cho và anh cũng rất say mê họa các hình võ tướng ngày xưa như vua Quang Trung, Lê Lợi , Trần Hưng Đạo với áo mão gươm đai.
Ông thứ Hai thì tinh khôn trước tuổi và có lẽ lấy hết sự khôn lanh của ông anh đầu, có lẽ vậy mà sau này khi di cư vô Nam mới hai mươi tuổi đã lấy vợ và sống tự lập từ khi vừa xong hai cái Tú Tài ở Trung Học Võ Tánh, Nha Trang.
Ông thứ Ba thì trầm tĩnh hơn, khôn ngoan và chín chắn hơn trong bốn anh em, có vẻ như già trước tuổi mà hồi bé tôi vẫn gọi anh là “ông cụ non”. Cũng không ngờ là “ông cụ non” ấy sau này lại là thủ khoa của khóa 13 sĩ Quan Hải Quân Nha Trang.
Khi anh đậu thủ khoa thì một số người ngạc nhiên bởi lẽ trong khóa 13 có một anh là cháu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nên ai cũng nghĩ rằng anh này, vì con ông cháu cha, sẽ là thủ khoa. Nhưng xét lại điểm thì anh Ba tôi hơn anh kia đến 27 điểm, quá xa để có thể thay đổi thứ bậc được và đây cũng là một điệm son của chế độ VNCH chúng ta, khác hẳn chế độ Cộng Sản mọi việc đều do chỉ định theo giai cấp và đảng tịch chứ không do tài cán.
Còn tôi khi di cư vào Nam mới lên chín tuổi và tính vốn hiền và nhút nhát từ nhỏ nên bảo sao làm vậy là yên thân và được Ba Mẹ khen ngoan chứ không hay bị la rầy vì nghịch ngợm như ông anh thứ Hai.
Ba Mẹ tôi cứ nói là ông anh thứ Hai lanh quá nên lấy hết cái khôn ngoan của ông anh Cả rồi nhưng không ngờ khi lớn lên thì ông anh Cả lại nổi danh hơn nhiều so với ông thứ Hai dù là cả hai anh em đều là sĩ quan phục vụ cho Sư Đoàn 5 Bộ Binh đóng tại Lai Khê, Bình Dương.
Khi chúng tôi lớn lên thì vận mệnh đất nước nổi trôi lại đưa bốn anh em tôi đi theo bốn con đường khác nhau, ngay sau khi mỗi người vừa đỗ xong bằng Tú Tài toàn phần.
Anh Cả sau một thời gian vài năm đi dậy học các trường tư thục tại Sài Gòn thì tình nguyện vào trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt khóa 20 và trong thời gian thụ huấn anh có biệt hiệu là “Quang Râu” vì có bộ râu quai nón đẹp rất là con nhà võ. Anh tôi đã theo chân cậu em họ là Tạ Mạnh Huy đang theo học khóa trước là khóa 19.
Ông thứ Hai vào ngành Quân Y và thuyên chuyển về Sư đoàn 5 Bộ Binh tại Bình Dương để lo về y tế cho các thương bệnh binh hay cùng hành quân với tiểu đoàn. Một vài người lính của anh tôi về phép Sài Gòn ghé lại nhà chơi thường cười nói với Mẹ tôi là ông Trung Úy Minh, tên anh Hai tôi, bây giờ “ngon” rồi chứ lúc đầu ông ấy thấy máu là muốn xỉu à, vậy thì làm sao mà cấp cứu thương binh?
Ông thứ Ba vào khóa 13 sĩ quan Hải Quân Nha Trang và vui với những chuyến hải hành lấy biển khơi làm nhà, ít có dịp lên “Bờ”.
Có một thời gian anh tôi phục vụ trong đoàn Biệt Hải phối hợp với toán người Nhái oai hùng của HQVN để thi hành những hải vụ nguy hiểm tại vùng Phi Quân Sự làm cho Mẹ tôi nhiều khi cũng ăn ngủ không yên, nhưng làm sao được vì người trai trong thời loạn ly lúc đó thì chỉ có một chí hướng duy nhất là chống lại sự xâm lăng của đám vô thần cuồng tín Cộng Sản Bắc Việt để giữ vững miền Nam bằng mọi giá.
Anh Ba tôi những khi từ Nha Trang về phép Sài Gòn và khi ngồi ăn trong không khí ấm cúng của gia đình vừa nhấm nháp các món ăn mà Mẹ và các em gái tôi nấu, thường hay kể về người Nhái HQVN với giọng nể phục.
Vì từ khi Ba tôi mất thì Mẹ tôi đã ở vậy nuôi con lúc mà cậu em út của tôi mới lên một, và tất cả tình thương thì Mẹ đã hết dành cho chúng tôi dù là hầu như các con đều đã lớn. Ngược lại thì anh em chúng tôi cũng dồn tình yêu thương dành cho Mẹ và luôn làm vừa lòng cũng như tránh làm gì cho Mẹ phải lo nghĩ.
Các anh tôi nhất là anh Cả và anh Ba luôn hiếu thảo, mỗi tháng lãnh lương xong là anh Cả cho vài người lính về phép để ghé nhà đưa hầu như toàn bộ số lương cho Mẹ tôi. Anh Ba thì trong thời gian huấn luyện tại trường sĩ quan Hải Quân Nha Trang lãnh lương Trung sĩ một ngàn ba một tháng thì chỉ giữ lại đúng một trăm đồng bỏ túi và trừ các khoản chi phí thì gửi hết phần còn lại về cho Mẹ. Tháng nào tôi cũng đạp xe lóc cóc ra Bưu Điện Sài gòn để lãnh tiền lương anh gửi về và những dịp Tết, Trung Thu thì lại lóc cóc đạp xe ra Bưu Điện để gửi bánh trái ra Nha Trang cho anh.
Nhưng có điều tôi ít ngờ tới là cuộc đời tôi và anh Cả tôi lại có những thời gian gắn bó bên nhau trong những năm tháng lưu đầy nơi đất Bắc sau khi mất miền Nam.
Tôi lớn lên trong thành phố Sài Gòn hoa lệ. Sài Gòn là thủ đô miền Nam nhưng với tôi Sài Gòn là tất cả, là thời niên thiếu, là thời hoa niên học trò tại trường Trần Lục, Tân Định, là Chu Văn An trong Chợ Lớn, là nơi tôi đã trưởng thành trên con đườngTrương Minh Giảng thân thương với rạp hát Văn Lang gần bên, trường Lê Bảo Tịnh trước cửa, là nhà cô ruột tôi với các cậu em họ trong ngõ hẻm bên cạnh, và quá nhiều kỷ niệm.
Trước khi thi Tú Tài, tôi cũng theo anh Cả đi dậy kèm các trẻ em tư gia để kiếm thêm giúp cho Mẹ. Cho đến lúc đỗ Tú Tài toàn phần xong thì một hôm, tôi tình cờ đọc một tin trên báo Chính Luận, cái tin tức mà đã hoàn toàn thay đổi cuộc đời sinh viên của tôi.
Đó là Không Quân Hoa Kỳ trong căn cứ Tân Sơn Nhất của KQVN tại Sài Gòn đang cần tuyển nhân viên. Vì muốn giúp cho Mẹ nhiều hơn là đồng lương ít ỏi của kèm trẻ tại tư gia nên tôi tham dự thi tuyển và được tuyển dụng về Phân Đội Sáu của Đệ Thất Không Đòan, một đơn vị quân báo của không quân Hoa Kỳ.
Tôi bắt đầu bước vào ngành tình báo lúc nào không hay nhưng tôi lại cảm thấy rất thích thú với vịêc làm mới mẻ này của mình vì hai lẽ. Thứ nhất, tôi sẽ giúp cho gia đình vững vàng hơn với số lương tháng đưa về cho Mẹ nhiều hơn, vì sau khi Ba tôi mất thì Mẹ nói là còn nợ nần nhiều với chi phí cho nhà thương Grall bao nhiêu tháng trước kia. Thứ hai là tôi có dịp góp mặt trực tiếp vào công cuộc chống lại họa xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt và diệt trừ lũ Cộng phỉ VC đang ngày đêm đốt phá xóm làng giết hại dân lành.
Trước đó khi nghĩ đến ba anh trai tôi đang xông pha ngoài chiến trận mà mình thì cứ mãi trong học đường làm nhiều lúc tôi cũng không yên trong thâm tâm và mang mặc cảm tội lỗi với cuộc sống quá yên bình tại Sài Gòn.
Nhất là có lần tôi đã đến tham dự buổi khao quân của anh Cả tôi lúc đó là Trung Úy, đại đội trưởng đại đội Trinh Sát của Trung Đoàn 7, Sư Đoàn 5 BB ở Lai Khê về các chiến công lẫy lừng của đại đội Trinh Sát. Những chiến công thì nhiều nhưng nổi bật có thể kể đến trận Ấp Ba, trong đó đại đội đã quét sạch được VC ra khỏi Ấp mà đơn vị không bị một tổn thất nào trong khi tiểu đoàn bạn đã không thể vào nổi mà còn khiêng ra ngoài gần chục lính bị thương; và chuyến nhẩy trực thăng vận xuống mật khu VC phá hủy một căn cư “hậu cần” của địch.
Tôi đã thấy Trung Đoàn Trưởng lúc đó là Trung Tá Lê Nguyên Vỹ lên micro biểu dương chiến công của đại đội Trinh Sát trực thuộc trung đoàn này, gắn huy chương cho các sĩ quan binh sĩ Trinh Sát có nhiều công trận và anh tôi được Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu.
Tôi có dịp nói chuyện với các sĩ quan trẻ tuổi trong đại đội trinh sát và thấy họ thật dễ mến hiền hòa nhưng lại rất dũng cảm hoàn thành được nhiều cuộc hành quân gian khổ mà Trung Đòan giao cho.
Mỗi Trung Đoàn của Sư Đoàn 5 Bộ Binh chỉ có một đại đội Trinh Sát được trang bị với toàn những vũ khí tối tân và được xem như đơn vị tác chiến cơ động với hỏa lực mạnh nhất, thiện chiến nhất và là “con cưng” của Trung Đoàn. Đơn vị Trinh Sát này luôn trong tình trạng ứng chiến và nhận lệnh thẳng từ Ban Chỉ Huy của Trung Đoàn và thường được giao cho những nhiệm vụ khó khăn mà tiểu đoàn bạn không thể thực hiện được.
Vì thế mà anh Cả tôi ít khi thấy về phép mà mỗi tháng chỉ cho hai người lính về Sài Gòn thăm gia đình họ rồi nhân tiện đem tiền lương của anh về cho Mẹ tôi mà thôi. Riết rồi anh Cả tôi không những nổi tiếng trong Trung Đoàn là một cấp chỉ huy không sát quân mà còn là một người con rất hiếu thảo.
Mẹ tôi mỗi tháng khi thấy chiếc xe jeep quân đội ngừng trước cửa hàng, lúc đó Mẹ tôi đã chuyển qua bán quần áo trẻ em, trên đường Trương Minh Giảng thì lại phập phồng lo sợ cho đến khi hai người lính nói là ông đại đội trưởng gửi lương tháng về cho Mẹ.
Thời gian đó, tôi thấy một niềm tự hào không những về anh mình mà về cả đại đội trinh sát thiện chiến của anh, về Trung Đoàn 7 BB, về Sư Đoàn 5 BB và cả về QLVNCH nữa đang trải rộng những hành quân ngày đêm ra trên khắp bốn vùng chiến thuật trong công cuộc tiễu trừ Cộng phỉ này ra khỏi miền Nam.
Bởi thế nên tôi đã quyết định dấn thân và và lao mình vào làm việc với hơn năm năm trời cho Phân Đội Sáu của không quân HK.
Tôi bay đi về từ Sài Gòn ra Đà Nẵng thường xuyên để cùng phối hợp với các đơn vị quân báo VN của Quân Đoàn I. Những khi ở Sài Gòn thì tôi cùng Phân Đội này ghé lại làm việc tại Trung Tâm Chiêu Hồi Thị Nghè để phối hợp thêm tin tức về những hoạt động của VC trong vùng của Ba Chiến Thuật.
Trong thời gian này tuy tôi dồn hết nỗ lực vào làm việc cho Phân Đội Sáu nhưng vẫn không quên việc học vấn nên cố theo học ban Cử Nhân Anh Văn tại Đại Học Văn Khoa Sài Gòn dù gập rất nhiều khó khăn vì không thể đến trường thường xuyên.
Số tôi luôn có quí nhân phù trợ hay sao cho nên có một anh bạn thân thời học chung trường Chu Văn An là Nguyễn Đình Phương đã lấy dùm “cua” cho tôi đầy đủ và năm đó không hiểu có sao may mắn chiếu vào hay không mà tôi đậu luôn hai chứng chỉ Văn Minh VN khóa I và đậu Văn Chương Văn Minh Mỹ khóa II.
Có một kỷ niệm mà tôi không quên được là khi tôi vừa xong một chuyến công tác ra Đà Nẵng, khi bay về Sài Gòn thì ngày hôm sau phải vào vấn đáp cho chứng chỉ Văn Chương Văn Minh Mỹ.
Hai giáo sư theo như sinh viên thì thầm thì đều khó như nhau. GS Diệm thì nhớ mặt các SV thường xuyên tới lớp và GS người Mỹ thì “quay” SV tối tăm mặt mũi lại về các tiêu thuyết phải đọc trong chương trình.
Một SV lên trước tôi là người mà không hề vắng mặt thì lại bị thầy Diệm hỏi là sao tôi không thấy anh đến lớp bao giờ và bị đánh trượt oan mạng. Khi tôi có tên lên kế tiếp thì chắc mẩm là sẽ ăn một quả trứng to tướng vì tôi chẳng hề đến lớp thầy bao giờ nhưng thật lạ lùng là thầy hỏi thẳng vào cuốn tiểu thuyết The Scarlet Letter như vậy là tôi trúng tủ vì học quyển này rất kỹ.
Đến khi qua phòng bên vào vấn đáp với GS Mỹ thì chính ông này lại hỏi là tôi có thường đến lớp hay không mới lạ chứ? Tôi bèn trình bầy sự thật là vì chiến tranh đang lan rộng và tôi đang phục vụ cho Phân Đội Sáu, một đơn vị Quân Báo của Đệ Thất Không Đoàn HK, nên không thể có mặt được thường xuyên. Nhưng nếu mà GS thông cảm cho tôi 10 điểm thì tôi sẽ chắc chắn đậu chứng chỉ này và tôi hứa sẽ thu xếp thời gian để có mặt tại giảng đường nhiều hơn.
Chả hiểu ông bà phù hộ hay sao mà ông GS Mỹ này cho tôi đúng 10 điểm như yêu cầu.
Quả là học tài thi phận. Mẹ tôi có dịp lại khen tôi trước mặt các bà bạn của Mẹ hay với các chị đang giúp may vá trong nhà là tôi học giỏi vì vừa đi làm vừa đi học nữa mà được như vậy. Riêng tôi khi gập mấy cô bạn của các em gái tôi thì có vẻ hơi làm cao một tí.
Thế rồi chiến sự bùng nổ ra khắp bốn vùng chiến thuật. Sau hai lần VC mở cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 thì tôi cảm thấy người Mỹ hình như đang muốn rút bớt quân số của họ đang tham chiến tại miền Nam về nước.
Một hôm trong năm 1969, các người bạn Mỹ trong Phân Đội Sáu nói với tôi là họ đang chuẩn bị rời VN và muốn giới thiệu tôi qua Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn.
Tôi đến Tòa Đại sứ Mỹ nộp đơn để tham dự một kỳ thi và trúng tuyển vào làm cho họ nhưng cũng có duyên nghiệp với ngành tình báo hay sao, cho nên từ Tòa Đại Sứ họ chuyển chúng tôi gồm 27 nhân viên qua yểm trợ cho Phủ Tổng Thống, nhưng nhiệm sở thực tế lại là Phủ Đặc Ủy Trung ương Tình Báo (PĐUTƯTB) trực thuộc Phủ Tổng Thống.
Chính vì thế mà sau khi miền Nam sụp đổ, tôi thường hay bị giam chung với các người tù thuộc các ngành ANQĐ, CSĐB hay PĐUTƯTB, hay Quân Báo.
Thời gian lưu đầy ở ngoài Bắc có một dịp tôi được gập những người Biệt Kích nhẩy toán ra Bắc thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Các anh đều sống rất kỷ luật, vẫn tôn trọng cấp bậc quân đội, và buồng giam đều giữ sạch sẽ ngăn nắp. Khi ngồi tâm sự với nhau, các anh cũng nói tới cái niềm đau không thể diễn tả được khi nghe tìn Sài Gòn đâ mất ngày 30-4-1975.
Lần đầu tiên, nhiều anh đã không còn cầm được nước mắt vì chính trong thâm tâm các anh cũng như đồng bào miền Bắc đều trông đợi một ngày nào đó QLVNCH trong Nam sẽ ra giải phóng miền Bắc và các anh sẽ thoát cảnh tù đầy rồi trở về mái nhà xưa; nhưng tất cả đã hoàn toàn sụp đổ một cách chua cay và đen tối.
Khi nước mất thì nhà tan, ngoài anh Ba tôi được cử đi tu học một khóa HQ tại Rhode Island, HK và gia đình vợ con anh qua cơ quan D.A.O đã đi thoát được trước ngày Sài Gòn sụp đổ thì ba anh em tôi còn lại đều vào tù.
Bên gia đình cô Hanh là em út của Ba tôi với tám trai bốn gái thì bẩy con trai đã trong quân đội và năm người đi “cải tạo” sau ngày 30-4, chỉ trừ một cậu là hạ sỹ quan, và một cậu nữa giải ngũ thì tránh được cảnh ngục tù, còn cậu út thì được miễn dịch.
Nhà Mẹ tôi thì ngoài mặt đường Trương Minh Giảng, nhà cô tôi thì trong hẻm nhưng chỉ cách nhau vài trăm thước nên bốn anh em trai chúng tôi rất thân với các cậu em họ dù là vài anh lớn tuổi hơn chúng tôi nhiều. Trong những năm của thập niên sáu mươi thì hai gia đình từ từ vắng người dần bởi các anh tôi và các em họ tôi đều đã lần lượt nhập ngũ vào Thủ Đức hay Đà Lạt.
Mẹ tôi vẫn nói là cô ruột tôi rất là can đảm vì một lúc mất đến bốn người con trai sau khi miền Nam rơi vào tay Cộng Sản.
Anh Hải là anh lớn thì sau hai năm “cải tạo” đã trốn được ra khỏi trại giam ở trong Nam và trốn vào rừng nhưng mất tích và không nghe tin tức gì từ đó. Điều lạ lùng là một thời gian cả chục năm sau, có lần tôi lại nằm mơ thấy anh y như lúc anh còn sống, và anh dắt tôi vào trong một khu rừng rồi chỉ vào một gốc cây rồi nói với tôi rằng: “Đại ơi! Tôi ở chỗ này này”. Gốc cây ấy to như gốc cổ thụ và phát ra nhiều ánh sáng vàng nhạt trong khi những thân cây khác ở chung quanh thì mờ mờ trong bóng tối làm cho tôi tin rằng anh đã mất tại gốc cây này và đã hiển linh.
Khi tỉnh dậy tôi nhớ giấc mộng đó như in và thông báo cho gia đình bên cô tôi biết mà làm ma chay cho anh bởi lẽ cô tôi nhất định tin rằng anh đã trốn được qua Thái Lan dù là hơn mười năm đã trôi qua không hề có một chút tin tức nào về anh.
Anh thứ tư là Trường và thứ sáu là Linh thì mất tích và chết trên biển trên đường đi tìm Tự Do sau khi ra khỏi trại giam vài năm.
Anh Trường chết trong tình trạng rất là tội nghiệp vì khi ra tù thì anh nguyện ăn chay trường cho nên khi con thuyền lênh đênh trên biển nhiều ngày và hết lương thực, mọi người vớt được cá và sống sót nhưng anh nhất định không chịu ăn cá và nhịn đói – anh là người duy nhất thiệt mạng trên chuyến tầu đó.
Nhưng câu chuyện về anh Cường là con thứ ba của cô ruột tôi mới là câu chuyện bi thương và hùng tráng nhất của một người tù bất khuất đã có những hành động phi thường làm cho kẻ thù phải khiếp đảm.
Anh Cường, Tạ Mạnh Cường từ nhỏ đã ưa thích võ nghệ nên được cô chú tôi cho đi học võ cùng với người em là Tạ Mạnh Trường tại võ đường của Tổ Sư Lộc người sáng lập ra môn phái Vovinam ở Hà Nội.
Tôi nhớ lúc đó tôi mới năm tuổi cùng ba ông anh tôi được Ba Mẹ cho lên chơi Hà Nội ở nhà cô tôi ba tháng Hè. Anh Cường đã huấn luyện võ cho chúng tôi với thế tập đầu tiên là lộn mèo qua lưng một người khác trước khi có thể tập tự mình tung người lên trên không và lộn một vòng. Các anh thì đều tập được nhưng tôi có lẽ còn quá nhỏ và không có năng khiếu võ thuật hay sao mà lộn hoài không xong. Lúc ấy anh Cường thường nhìn tôi mỉm cười lộ chiếc răng vàng ra và cho tôi miễn tập làm cho tôi vô cùng khoái chí vì “ông thầy”không phạt mình.
Anh kể rằng Tổ Sư Lộc võ nghệ uyên thâm không biết đâu mà lường và là người mà lần đầu tiên trong đời anh thấy Tổ Sư chỉ ngồi tại bàn giấy và nghe tiếng gió mà tránh hết các đòn tấn công của học trò đứng chung quanh.
Anh Cường khi di cư vào Nam thì đã lên đẳng cấp Võ Sư và tôi đã có dịp hân hạnh được xem anh và phái đoàn Vovinam biểu diễn tài nghệ tại rạp Thống Nhất lúc đó tên là rạp Norodome tại Sài Gòn vào khoảng năm 1956. Đặc biệt của môn phái Vovinam là biểu diễn không có nệm tapis như Nhu Đạo hay các môn võ khác mà quật nhau thẳng trên sàn gỗ và dao sử dụng là con dao thiệt.
Dưới khán giả cũng có nhiều môn phái bạn ngồi xem và tôi cũng như tất cả khán giả đều vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt khi anh Cường biểu diễn cú chặt bằng cạnh bàn tay đánh rơi con dao của một võ sinh khác đóng vai kẻ cướp tấn công anh và màn anh tung người nhẩy qua một võ sinh để dùng hai chân cặp cổ quật một võ sinh khác.
õ sinh bị chặt rớt con dao thì cổ tay vẫn còn đau ê ẩm vì anh Cường biểu diễn thật, và võ sinh bị cặp cổ thì dù đã lộn người theo thế quật nhưng sau đó vẫn còn hãi sợ vì chút nữa thì bị trặc cổ.
Tôi thấy vị Võ sư trưởng môn phái Nhu Đạo và nhiều người của môn phái bạn và trong đó có chú bé con là tôi cũng đứng lên vỗ tay hoan hô mấy màn biểu diễn của anh Cường.
Vì hai nhà ở gần nhau nên tôi thường chạy qua nhà cô tôi chơi.
Có lần tôi vừa qua thì thấy cô em họ tôi đang nấp sau cánh cửa, tay cầm cái gáo bằng nhựa định hù anh mình. Khi anh Cường vừa bước chân qua cánh cửa thì cô ta đập cái gáo vào đầu anh Cường để rỡn chơi thôi nhưng phản xạ tự nhiên, anh vung tay lên chém và cái gáo bay tuốt ra sân, còn cô em họ tôi thì mất cả hồn vía ôm mặt khóc hu hu làm tôi không nhịn được cười.
Anh giòng giỏi con nhà võ vì chú ruột của anh có một gánh xiếc lưu diễn khắp miền Bắc qua nhiều tỉnh thành và từ vùng trung du lên cả mạn ngược, thời gian trước năm 1954. Đi đến đâu thì gánh xiếc này cũng đều gặt hái thành công. Gánh xịêc họ Tạ này nổi danh vì ông chú của anh là một người võ nghệ cao cường thường tay không chế ngự được con cọp và điều khiển nó theo ý mình.
Anh như vậy là nối giõi con đường võ nghệ theo chân ông chú chứ Ba của anh thì võ vẽ chẳng biết một tí gì lại rất là hiền lành và chỉ chuyên về buôn bán.
Tuy hai anh em đều theo học cùng lúc với Tổ Sư Nguyễn Lộc nhưng anh Cường tài nghệ giỏi hơn người em cho nên khi vào trong Nam một thời gian sau thì anh Cường được mời làm huấn luyện viên cho Cảnh Sát Quốc Gia tại Sài Gòn.
Tôi nhớ có một lần tụi tôi cũng năm sáu người ra quán Mai Hương góc đường Lê Lợi và Công Lý ngồi ăn kem và nhìn ông đi qua bà đi lại cho vui.
Khi ấy, quán này có một toán cao bồi hay đóng đô tại đây và quấy nhiễu các khách hàng mà chủ quán cũng không dám ho he gì vì sợ chúng phá quán. Bọn chúng đông cũng khoảng chục mạng, tay nào tay nấy ăn mặc quần áo theo kiểu chim cò đúng là dân chơi cao bồi thứ thiệt, và hôm đó không biết chúng ngứa mắt ra sao mà tính qua bàn chúng tôi cà khịa.
Anh Cường vẫn thản nhiên như không, vẫn cười nói với chúng tôi và chỉ ngoái lại bàn phía sau nói với tên đầu đảng cao bồi này anh là Huấn Luyện Viên võ thuật cho Cảnh Sát và muốn hơn thua thì đến Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát.
Nghe đến đó thì chúng lấm lét rồi từ từ dông hết làm cho tôi vừa phục anh vừa khoái chí nữa vì “ông thầy” đã cho bọn chúng một bài học nhưng không cần phải ra tay. Cũng từ đó thì đám cao bồi này dời “đô” đi nơi khác không còn thấy tại quán kem Mai Hương nữa.
Tôi hồi nhỏ ở Hải Phòng thì theo học tại trường Dòng St. Joseph, không biết có phải vì kỷ luật và giáo dục tại trường này rất chặt chẽ hay không mà tính tôi vốn nhút nhát lại càng thêm hay sợ hãi và thiếu tự tin. Chính vì thế mà hồi mới di cư vào Sài Gòn, đi đâu có anh Cường hay các em họ con cô tôi thì tôi rất là yên tâm và tụi tôi thân với nhau nhất vì toàn là con trai và mang tiếng là em họ nhưng các anh ấy đều lớn tuổi hơn tôi nhưng vẫn thân mật gọi tôi bằng “anh” theo đúng lễ giáo ngày xưa.
Bên bác Phán là chị ruột Ba tôi thì ở Hải Dương và gia đình bác lại toàn con gái hay các anh thì quá lớn không thèm chơi với bọn tôi cho nên bốn anh em chúng tôi từ Hải Phòng thường được Ba mẹ mua vé máy bay mỗi dịp Hè để đến thăm cô tôi tại Hà Nội nhiều hơn là xuống Hải Dương. Những lúc như vậy thì có cơ hội tập hợp hết cả lũ con trai với nhau hơn chục đứa và tha hồ nghịch phá bởi cô tôi rất dễ tính và lại hay chiều con cháu.
Thế rồi Hiệp Định Genève di cư vào Nam, bốn anh em trai tôi lại có dịp ở chung một thời gian với các cậu em họ trong nhà cô tôi tại Bến Chương Dương cho đến khi cô tôi dọn về Trương Minh Giảng thì chúng tôi mới tách ra nhưng vẫn giữ tình anh em rất là thân thiết.
Rồi lớn lên, mỗi người vào quân ngũ và bay đi bốn phương trời cho đến ngày mất miền Nam thì tôi, anh Cả tôi và anh Huy là con trai thứ năm của cô tôi bị đưa ra miền Bắc.
Anh Cường, Trường và anh Linh vì là Trung Úy Công Binh và văn phòng nên bị giam giữ tại Suối Máu trong miền Nam. Ít năm sau thì anh Linh và anh Trường được thả về nhưng anh Cường vẫn bị giữ lại dù anh chỉ là Công Binh Kiến Tạo xây dựng cầu đường mà thôi.
Lý do giản dị vì anh là cái gai trong mắt của bọn cán bộ trại bởi tính tình cương trực của anh hay bênh vực đồng đội nên anh bị ghép vào tội chống đối “cải tạo và lao động”.
Những khi họ đọc lệnh thi hành kỷ luật với người tù nào mà anh thấy bất công là anh đứng lên phản đối, đòi lại sự công bằng.
Sau đó họ di chuyển anh về một trại trong vùng Tống Lê Chân gần biên giới Việt-Miên và anh bị giam trong thùng “connex” sau lần bênh vực một người bạn tù.
“Connex” là một loại thùng lớn bằng tôn dầy của quân đội Mỹ trước kia dùng để chứa các kiện hàng di chuyển theo đường biển cho quân đội Hoa Kỳ trong miền Nam.
Cái nắng khủng khiếp của vùng rừng núi nhất là vào giữa trưa như hun đốt anh trong hỏa lò cộng với sự bỏ đói và bỏ khát là một hình thức tra tấn tàn bạo của trại giam mục đích để tiêu diệt ý chí và dũng khí của anh, nhưng anh vẫn không đầu hàng để được thả ra khỏi “connex” sớm hơn.
Các bạn anh bên ngoài đã khôn khéo mua chuộc được mấy tay nhà bếp nên anh đã được cho ăn khá hơn với miếng thịt hay miếng cá nằm dưới ít khoai sắn và họ đã chuyển vào cho anh được cái đinh bù loong mười phân.
Sau hai tuần lễ hành hình trong thùng “connex” anh được khiêng ra ngoài nhưng quả là họa vô đơn chí vì chỉ một thời gian ngắn sau đó thì trực trại kêu anh ra “làm việc” vì anh vẫn nhất định không chịu ký tên vào biên bản nhận “tội” như họ đã viết sẵn.
Các anh em trong buồng đều bảo anh là không nên ra, mỗi người một câu:
-”Cậu cáo ốm ở lại trong buồng thì tụi nó làm gì được?”
-”Giăng mùng lên chui vào ngủ là xong, kệ nó.”
-”Mình cảm thấy lành ít dữ nhiều đó nha, nên cẩn thận.”
Cáo ốm ở lại trong buồng thì anh không thể làm được vì như thế là tỏ ra sợ chúng nó, anh vốn là con nhà võ, hơn nữa lại là võ sư không thể để mất danh dự của môn phái, nên anh không chịu cáo ốm như vậy vả lại anh nói trước sau gì cũng phải đối mặt với họ một lần:
-”Các cậu cứ để tôi ra xem chúng giở trò gì? Mình trong tay nó mà, hôm nay không ra gập chúng thì ngày mai cũng phải gập thôi.”
Anh từ từ đi ra ngoài cổng trại chiều hôm đó trong sự lo âu của các bạn tù cũng là các sĩ quan chế độ cũ.
Khi anh ra đến nơi thì thấy tay Thượng Úy chính trị viên đã ngồi sẵn tại bàn với các cán bộ trực trại. Tên Thượng Úy mặt lạnh như tiền đưa tờ giấy cho anh ký nhận “tôi trạng”.
Anh bình tĩnh đưa lại tờ giấy:
-”Tôi không hiểu tôi mắc vào tội gì?”
Tên Thượng Úy đập bàn như hét lên:
-”Anh còn ngoan cố hả, không ký thì bỏ tù cho rũ xương ra.”
Hắn hầm hầm đứng lên và bước ra khỏi phòng trực trại.
-”Chúng tôi còn cần “làm việc” với anh chưa xong.
Tay cán bộ vừa dứt lời thì các cửa sổ được đóng kín lại chỉ chừa có cửa ra vào là còn mở và từ ngoài bất ngờ hàng chục cán binh mang theo gậy gộc và thanh sắt xông vào phòng. Lúc đó mấy tay trực trại mới chịu bước ra ngoài.
Bấy giờ anh mới hiểu rõ dã tâm của bọn chúng kêu anh ra ngoài này “làm việc” là như vậy.
Anh nhìn quanh, căn phòng khá hẹp và anh lui dần vế phía góc phòng. Nếu ở bên ngoài thì với một lũ tép riu này chỉ cần học trò của anh cũng đủ dậy cho chúng một bài học nhưng mấy năm nay lao động khổ sai và ăn uống kham khổ đã làm anh mất đi rất nhiều sức lực nên không biết sao đây.
Dù sao thì cũng phải cho chúng biết thế nào là một Võ Sư được chân truyền. Anh ngầm lấy sức vận nội công lên hai cánh tay và đôi chân thủ thế.
Hầu như đã được chỉ thị trước, bọn cán binh đều không nói một lời vung các gậy và các thanh sắt lên xông vào tấn công anh túi bụi, nhưng vì anh đã lui vào góc phòng nên chỉ hai ba đứa có thể tấn công một lúc vì chúng sợ loạn đả vào nhau.
Thế rồi anh ra chiêu nhanh như gió và chỉ một loáng trước những con mắt kinh hãi của đám cán binh, các vũ khí của chúng đều rơi gọn nhẹ xuống đất. Đứa thì ôm cổ tay nhăn nhó, đứa thì ôm chân la bài hải và lùi dần ra phía cửa. Anh tính vọt ra cửa thì đột nhiên hai họng súng đen ngòm lên đạn hướng về phía anh, thì ra chúng đã tính trước là sẽ phải dùng đến súng tiểu liên để đối phó với anh.
Anh đứng lại tại chỗ và hai tay khoanh trước ngực chờ đợi. Chúng tiến lại gần và trói hai tay anh vào thanh sắt cửa sổ và trói hai chân lại với nhau. Xong đâu đấy rồi thì bọn cán binh, vốn đã được nhồi nhét những tuyên truyền xuyên tạc mọi thứ xấu xa về các sĩ quan “Ngụy” cho nên đều nhẩy vào dùng các thanh sắt quất anh không thương tiếc.
Than ôi! Người Võ Sư hào hùng ngày nào của võ đường Vovinam, người tù anh hùng đã bảo vệ cho bao nhiêu bạn mình trước bạo quyền của trại giam “tập trung cải tạo” của chế độ Cộng Sản, người sĩ quan hiền hòa vẫn xây dựng bao nhiêu đường xá cầu cống cho dân làng miền Nam ngày trước, người tù bất khuất ấy bây giờ đã ngất xỉu đi trong cơn đau đớn tột cùng của thân xác.
Mắt anh mờ dần đi và anh thấy lấp lánh đâu đó là những giọt nước mắt của Mẹ già tóc đã bạc phơ chỉ sau mấy năm Sài Gòn đã đổi tên và rồi anh không còn biết gì nữa.
-”Ê! Cường tỉnh dậy rồi nè.”
-”Lấy ít cháo loãng thôi.”
Một anh bạn đến gần:
-”Ráng ăn ít cháo đi rồi uống thang thuốc này. Mình mới vào rừng hái ít lá cây nấu lên uống để xổ máu bầm ra.”
-”Cậu là võ sư chứ người thường thì chết rồi. Chúng dã man hèn hạ quá. Loài thú chứ không phải loài người!”
Anh bị gẫy hết hai bên xương sườn, một chân bị dập, một bên vai xương bị nát. Rất may là các vết thương trên đầu không nặng sau trận đòn thù đó.
Tình hình trong trại mấy ngày sau đó cực kỳ căng thẳng, khi các anh đi lao động chúng đều đem súng theo hườm sẵn và được lệnh sẽ bắn ngay nếu có nổi loạn.
Anh bèn bảo các bạn thân của mình chuyển lời nói với các buồng chung quanh là án binh bất động vì anh không muốn vì anh mà nhiều anh em khác phải hy sinh. Anh đã là một biểu tượng oai hùng nhất trong con mắt của những người tù đồng cảnh ngộ nên lời nói của anh đã được nghe theo và đã tránh được một cảnh tắm máu vì anh em đều sôi sục căm hờn.
Từ ngày đó anh không còn khả năng đi ra ngoài lao động, không còn những giây phút vào rừng sâu kiếm củi, nghe được tiếng chim hót ban mai hay hưởng cái hơi mát lạnh của núi rừng khi chiều buông xuống. Anh chỉ có thể khó khăn lắm mới lê từng bước một tập đi trong buồng giam.
Năm sau, các bạn anh vì là cấp Úy nên cũng từ từ được thả ra nhưng anh là cấp Úy sau cùng ra khỏi trại giam đó.
Anh mất đi lúc mới ngoài bốn mươi tuổi để lại người vợ còn trẻ và mấy đứa con còn nhỏ dại. Cô tôi vừa khô nước mắt khóc hai đứa con đi vượt biên mất tích lại mang thêm một cái tang nữa. Mẹ tôi ở gần bên cạnh cũng chỉ biết qua nhà an ủi cô tôi mà thôi vì chính Mẹ tôi trong lòng cũng ngày đêm lo sợ cho tôi và anh Cả tôi lúc đó đang bị giam lưu đầy ngoài Bắc.
Đám ma anh Cường được tổ chức đơn sơ nhưng rất đông người tham dự kể cả gia đình họ hàng và nhất là gia đình các bạn tù của anh cũng đến thắp nén nhang để tưởng niệm người anh hùng yểu tử, vị võ sư vì bảo vệ bạn tù, vì bảo vệ Chính Nghĩa mà vong thân.
Hình bóng của anh vẫn sống mãi trong tâm khảm của mọi người. Anh là một sĩ quan Công Binh Kiến Tạo tận tụy với nghề nghiệp được đơn vị thương yêu, anh sống gần gũi với dân chúng và bảo vệ họ tại những cùng thôn xóm làng mạc xa xôi.
Anh là một người chồng gương mẫu, một “ông thầy võ” mà tôi kính phục khi tôi còn thơ ấu, một võ sư mà bao nhiêu võ sinh dưới quyền nể trọng nhưng trên hết anh là một người tù bất khuất, một anh hùng bất tử.
Khi tôi được thả về, nghe tin anh mất thật là bàng hoàng và xúc động bởi tuổi thơ của tôi đã nhiều kỷ niệm gắn bó với các em họ con cô ruột tôi từ lúc còn ở Hải Phòng và Hà Nội và ngay tại Sài Gòn trong thời thanh niên. Tôi vẫn không quên được những bài học vỡ lòng về Vovinam mà anh dậy cho bốn anh em chúng tôi trên sân gác thượng của nhà cô tôi ở Hà Nội.
Chùa Linh Giác đường Lý Thái Tổ là nơi mà gia đình để ảnh của các anh con cô tôi đã mất và cũng để ảnh của anh Quang, anh Cả tôi nữa.
Tôi đã đến ngôi chùa nhỏ ấy nhiều lần để thắp nén nhang dâng lên anh Cả tôi , dâng lên các anh Hải, Trường, Linh và nhất là anh Cường với bao niềm ngậm ngùi rằng thế hệ chúng tôi đã cống hiến hết cho công cuộc bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ miền Nam chống lại Cộng Sản xâm lăng trong hai thập niên, và mất hết những năm tháng đẹp nhất của đời người trong tù.
Không biết rồi mai này con cháu mình có còn nhớ rằng ngày xưa đã có những bậc anh hùng bất tử ghi lại bao chiến công oanh liệt không kém gì tiền nhân trong quân sử của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa? Và trong lịch sử của “trại giam tập trung cải tạo” của chế độ Cộng Sản vô thần tại Việt Nam đã có những người tù bất khuất mà võ sư Vovinam Tạ Mạnh Cường là một?