Nguyễn Anh Tuấn (Political Scientist)
I.SỰ TRỖI DẬY CỦA LƯƠNG TÂM CON NGƯỜI TRƯỚC LUẬT TRỜI VÀ CÁC CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI TRÊN THẾ GIỚI .
Nhân loại ngày nay đang đứng trước những làn sóng lịch sử của TỰ DO DÂN CHỦ và làn sóng này đang lan tràn tới Tunisia, Ai Cập, rồi vào Yemen, Libya và khắp cả vùng Trung Đông. Để rồi đây, làn sóng này sẽ lan tràn vào Việt Nam, Hoa Lục, Bắc Hàn và các nước Á Châu, để xô đổ các nhà độc tài và các chế độ độc tài man rợ, ích kỷ, độc ác, tham lam, mù quáng đầy dục vọng quyền lực đã chống lại Trời đất và đạo lý của Trời, chống lại sự thật và lẽ phải, chống lai sự sống và quyền sống của con người khắp nơi- đặc biệt là tại Á Châu – nơi những chế độ độc tài lạc hậu và phản tiến hóa này đã hiện diện trên dòng sinh mệnh của con người và dòng sử mệnh của Đông phương từ hơn 2000 năm qua, đã hành hạ và hiếp đáp bao thế hệ con người cho đến nay vẫn chưa chịu buông tha cho họ.
Và qua bao ngàn năm, con người đã gục đầu câm nín trong uất nghẹn, trong đau khổ tủi nhục và đắng cay không bút nào tả xiết. Dâm chí và đa dục của những chế độ quân chủ chuyên chế và tầng lớp phong kiến của nho quan hủ bại đồng lõa với nhau đã làm cho đạo lý của Trời và văn minh, văn hóa của xã hội con người không còn ý nghĩa gì cả. Và quan trọng hơn, con người được Đấng Tạo Hóa tạo dựng nên đúng như hình ảnh của Người, và con người đều là con cái của Đấng Tạo Hóa; vì thế, con người được quyền làm chủ tất cả các loài cá trong biển cả, tất cả loài chim chóc trên trời, làm chủ muôn sinh vật dưới mặt đất, và làm chủ luôn cả cỏ cây hoa trái, cũng như những gia sản quý báu trong lòng đất- khi tất cả con người đang còn sống dưới trần gian này.
Thánh Kinh dạy rằng, tất cả con người đều bình đẳng trước Thiên Chúa và bình đẳng trước Luật Siêu Nhiên của Trời và Luật Thiên Nhiên. Nghĩa là vua quan, trên dưới, giàu nghèo, sang hèn đều phải theo luật của Trời Đất mà sống và xây nên xã hội và cộng đồng cho con người để con người cùng sống thanh bình, an lạc bên nhau. TẤT CẢ ĐỀU BÌNH ĐẲNG, TẤT CẢ ĐỀU LÀ NHỮNG CON NGƯỜI TỰ DO. Con người nếu có gì khác nhau- đó chính là sự khác biệt về chức năng của mỗi người mà thôi.
Vì thế, chế độ Tự Do Dân Chủ hiện nay trên toàn thế giới rất thuận lòng Trời và hợp với lòng người . Cũng như nền văn minh dân chủ mà các nhà lập quốc Hoa Kỳ đã khai sinh ra để đem dâng hiến cho tất cả nhân loại từ mấy thế kỷ qua, cũng rất hợp với sự thật và lẽ phải vì nó tôn trọng sự sống, quyền Tự Do và quyền tìm kiếm hạnh phúc của con người. Tuy nhiên, trên thực tế của lịch sử văn minh văn hóa và trên thực tế của lịch sử chinh trị thế giới từ bao ngàn năm qua- nhất là tại Đông Phương- những con người Tự Do đã bị tước đoạt Tự Do, những con người được quyền chia sẻ Quyền Làm Chủ trái đất này và muôn sinh vật trên đó đã bị tước đoạt Quyền Làm Chủ của họ. Đó là quyền mà Đấng Tạo Hóa đã ban cho tất cả con cái của mình. Cuối cùng, những con người bình đẳng trước Thiên Chúa và luật của Trời đất cũng bị tước đoạt luôn quyền bình đẳng của họ khi họ sống trong các chế độ độc tài man rợ. Trong lúc Đấng Tạo Hóa sinh ra con người muốn ban cho con người Tự Do, muốn cho tất cả con cái nhìn nhận nhau là anh em của nhau- vì tất cả chỉ có chung một NGƯỜI CHA- và muốn họ đều bình đẳng với nhau. Con người là sinh vật xã hội (social being) nên con người phải có đạo đức và công lý để chia sẻ quyền LÀM CHỦ tất cả của cải trên mặt đất này để cùng sống thanh bình, an lạc và hạnh phúc bên nhau. Phải chăng lý tưởng TỰ DO DÂN CHỦ đã được Đấng Tạo Hóa muốn con người xây dựng nên ngay từ thời Khởi nguyên?
ĐÓ LÀ THEO LUẬT TỰ NHIÊN CỦA TRỜI ĐẤT
Vì thế khi các chế độ độc tài tước đoạt quyền TỰ DO , tạo ra những xã hội bất bình đẳng và tước đoạt quyền LÀM CHỦ của dân thì họ là những kẻ phản nghịch với đạo lý của Trời và vi phạm Luật Thiên Nhiên của Tạo Hóa. Và những con người độc tài đó cũng đã phản bội chống lại anh em của họ. Khi ấy họ vừa là tội đồ của Trời đất vừa là tội đồ của thế giới con người- vì luật của Trời đất đã nói rõ trong thời Cựu Ước và Tân Ước
– Ngươi không được giết người.
– Ngươi không được làm chứng dối
– Ngươi không được gian dâm với vợ chồng người
– …..
– Ngươi phải yêu anh em như chính mình
Đây là LUẬT ĐẠO ĐỨC của Trời cao mà tất cả các chính giáo của nhân loại đều có chủ trương như thế – Phật giáo có Ngũ Giới và Thập Thiện, Cao Đài giáo có Ngũ Giới Cấm và Tứ Điều Quy- quan trọng nhất của Ngũ Giới là CẤM SÁT SANH. Bên cạnh đó, Phật Giáo Hòa Hảo còn có TỨ ÂN HIẾU NGHĨA để khuyên con người sống theo Luật Trời và Đạo làm người . Vì lẽ đó, mà các dòng đạo học Đông phương thường nói : “ Thuận với lòng Trời thì sống, nghịch với lòng Trời thì chết ”
Xưa Jean Jacques Rousseau thường than thở: “ Con người sinh ra trong Tự Do, nhưng con người bị xiềng xích khắp nơi “. Giờ đây con người Việt Nam thời đại tự thấy thêm là: “ Con người sinh ra đều bình đẳng tại sao con người lại sống triền miên trong xã hội bất bình đẳng ?” và đau đớn hơn “ Con người đều có quyền chia sẻ quyền làm chủ muôn vật trên trái đất, tại sao những con người độc tài lại đành tâm biến anh chị em của họ làm tôi mọi thấp hèn của nhau ?”
Trước những bi kịch nhân sinh não nề triền miên ấy, tiếng nói của khát vọng Tự Do, Bình Đẳng và Dân Chủ vang rền khắp năm châu bốn bể, và vang dội vào lương tâm và linh hồn của các quốc gia nghèo nàn và lạc hậu trong Thế Giới Đệ III, và dội vào trái tim và lương tri của muôn triệu con người đang sống quằn quại dưới xiềng xích gông cùm của độc tài chuyên chế, đang sống trong trầm luân tủi nhục, trong đói nghèo xơ xác và lạc hậu – trong đó có gần chín mươi triệu con người Việt Nam, hơn một tỉ người tại Hoa Lục và Bắc Hàn.
Càng đau khổ vì đói nghèo và bị áp chế thì khát vọng Tự Do Dân Chủ và Bình Đẳng càng dâng tràn trong những trái tim buồn bã và đắng cay của con người. Càng thất vọng ê chề vì quyền sống, quyền tự do bị tước đoạt thì những đóa hoa Tự Do Dân Chủ càng nở rộ trong trái tim con người, và điều đáng nói hơn cả là đứng trước những tham vọng và dục vọng vô độ của con người, đứng trước bạo lực mù quáng và súng đạn lạnh lùng độc ác của những nhà độc tài – con người đã không còn biết sợ hãi gì nữa, và vì thế máu của những kẻ đau khổ đã đổ ra lênh láng trên đường phố của Cario, Tunisia và Libya.
Mục đích muôn đời của các chế độ độc tài là tạo ra sự sợ hãi kinh hoàng triền miên trong đời sống xã hội con người . Khi con người đứng trước bạo lực, nhà Cách Mạng Hoa Kỳ Patric Henry đã từng dõng dạc cất lên tiếng nói đầy thách đố: “Hãy cho tôi Tự Do hay cho tôi cái chết” ( Give me liberty or give me death). Khi ấy bạo lực của cường quyền sẽ bắt đầu run sợ trước khát vọng Tự Do Dân Chủ chân chính vô bờ của con người.
Máu, nước mắt và mồ hôi đã đổ ra đầm đìa và bao thân người đã ngã xuống khắp nơi vì khát vọng Tự Do Dân Chủ và Bình Đẳng. Từ đó cho thấy mấy chữ Tự Do Dân Chủ không thể là thứ Tự Do buông thả, bừa bãi và vô trách nhiệm. Và hai chữ Dân Chủ ấy cũng không thể đánh mất khả năng tự chủ, tự kiểm soát của mỗi người. Vì phần đông chưa có được ý thức về giá trị cao quý của Tự Do Dân Chủ- nên khi con người xô đổ được các căn nhà độc tài, xã hội thường rơi vào hỗn loạn và vô chính phủ thật nguy hiểm cho con người và đe dọa trật tự và ổn định trong xã hội .
Căn nhà cũ của các chể độc tài là căn nhà mà mọi người chán ghét, ghê tởm và xa lánh. Vi thế, con người sẵn sàng đổ máu để phá hủy căn nhà đó bằng mọi giá, kể cả bằng mạng sống cao quý của chính mình. Khi căn nhà cũ sụp đổ, vì thiếu sửa soạn và chuẩn bị, thiếu ý thức Cách Mạng Tự Do Dân Chủ và một cái nhìn dự phóng tương lai cho căn nhà mới. Nên phần đông nạn nhân của các chế độ độc tài, khi đứng trước đống gạch ngói tan hoang của căn nhà độc tài mà không biết- hay chưa biết- phải xây căn nhà mới ra sao, nhất là kiến trúc một căn nhà mang tên Tự Do Dân Chủ mà mọi người đang ôm ấp, ước mơ, kiếm tìm và tranh đấu bằng tất cả máu, nước mắt và mồ hôi…
Làm sao để xây dựng đây, nếu con người chưa ý thức giá trị nền tảng của LUẬT ĐẠO ĐỨC VÀ LUẬT THIÊN NHIÊN trong Trời đất?
II-SỰ KẾ THỪA VÀ TIẾP NỐI VĂN MINH DÂN CHỦ CÒN DANG DỞ
Cách mạng là lột xác, là cải cách, cải tổ, và là thay đổi và chuyển hóa con người cũ trước khi thay đổi xã hội. Cách mạng phải được hướng dẫn và soi sáng bằng ngọn đèn ý thức cách mạng Tự Do Dân Chủ. Khởi đầu của cuộc cách mạng là tiến trình phá hủy, không chỉ căn nhà độc tài, mà là bản chất u ám, bệnh hoạn và mù quáng của những người đã xây nên những căn nhà độc tài hắc ám đó. Bản chất của con người ra sao thì xã hội như thế. Nếu con người ích kỷ, tham lam, độc ác, tàn bạo và dối trá thì họ sẽ xây nên xã hội giống như thế. Đó là Luật Nhân Quả. Và nếu con người muốn xây nên một xã hội có trật tự và ổn định, hòa bình và giàu có, thịnh vượng để con người sống trong hạnh phúc và thanh bình, an lạc bên nhau thì bản chất tham lam, ích kỷ, hẹp hòi, thành kiến, độc ác, dối trá phải được thay đổi và chuyển hóa, để xã hội có những con người không còn tham lam, không còn ích kỷ và không còn dối trá cũng như không còn vô minh nữa. Từ đó, họ trở thành những con người tự do, bình đẳng, đạo đức, nhân từ, can đảm biết yêu thương con người và yêu công lý.
Đây là ý thức ĐẦU TIÊN và TRÊN HẾT của cách mạng Tự Do Dân Chủ.
Cái mà mọi người gọi là Cách Mạng Hoa Lài đang diễn ra tại Tunisia, Ai Cập, Yemen và Libya đang trở thành ngọn lửa thiêng trong trái tim ưu phiền của muôn triệu con người. Cuộc cách mạng này quá quan trọng và cần thiết nhưng đó chỉ là một cuộc cách mạng đột biến- ở đó, con người vừa khởi đầu cách mạng bằng một tiến trình phá hủy, nhưng phá hủy mới chỉ nhắm vào những cơ cấu của xã hội hay cá nhân của những nhà độc tài, nghĩa là chỉ mới đụng chạm hời hợt bề mặt của những căn bệnh xã hội. Và tiến trình phá hủy ấy vẫn phải tiếp tục, tiếp tục PHÁ HỦY LIÊN TỤC, TRIỆT ĐỂ VÀ TOÀN DIỆN. Đó là tiến trình lột xác của những con người cũ để trở thành những con người mới của Tự Do Dân Chủ. Họ như một con rắn thay da để có một lớp da trẻ trung, tươi mát, mơn mởn như một thiếu nữ dậy thì hay như đóa hoa vừa chớm nở rực rỡ vào một buổi sáng tinh mơ trong vườn đầy cỏ non xanh mướt.
Con người ngày nay phải sáng suốt và khôn ngoan nhận ra rằng, tất cả mọi cuộc cách mạng ồn ào đó đã xảy ra từ mấy thế kỷ nay, đều chỉ động chạm hời hợt đến những căn bệnh trầm kha của con người mà thôi. Ngọn lửa cách mạng và nhiệt tình của cách mạng đã nổi lửa đốt cháy hừng hực tất cả mọi thứ, nhưng các nhà cách mạng đã quên nổi lửa đốt cháy chính bản chất hắc ám vô minh đầy lầm lạc của con người. Đặc biệt là cuộc cách mạng Pháp vào năm 1789 và cách mạng Cộng sản vào năm 1917. Cả hai cuộc cách mạng đó đã làm đổ máu con người quá nhiều. Bạo lực và hận thù của cách mạng đã phá hủy tan hoang trật tự xã hội cũ và làm đổ máu quá nhiều người vô tội không cần thiết. Rồi sau đó, các nhà cách mạng đứng bơ phờ, ngơ ngác trên đống gạch ngói điêu tàn của xã hội. Trật tự xã hội cũ đã sụp đổ và các nhà cách mạng không biết làm thế nào để xây dựng nên trật tự mới, đành đứng nhìn xã hội rơi vào hỗn loạn và vô chính phủ- hay khác hơn như Cộng sản đã làm, là xây nên một thứ trật tự mới hoàn toàn dựa vào hận thù và bom đạn, để tạo nên một xã hội chỉ có sự sợ hãi, đói khát, đau khổ, đổ vỡ trong nhẫn nhục, câm nín và oán hờn.
Vì thế, các cuộc cách mạng ấy dù đã vang dội khắp năm châu bốn bể, nhưng cách mạng đã thất bại và hoàn toàn bất lực trước bản chất u ám, vô minh đầy lầm lạc của con người.
Thay đổi và chuyển hóa bản chất con người thì khó khăn vô cùng, nhưng xã hội không bao giờ và sẽ không bao giờ thay đổi, nếu bản chất con người không được thay đổi, chuyển hóa. Đây là sự thay đổi trên nền tảng cần phải có, cần được đặt ra và cân nhắc cẩn thận. Đúng như Krisnamurti đã dạy: chúng ta ra sao thì thế giới như thế. Thế giới mà con người xây dựng nên và con người chỉ là một. Cộng sản là những con người đi cổ xúy hận thù giai cấp bằng bạo lực cách mạng và dối trá. Trong thế giới đó con người đã có quá nhiều đau khổ, đổ vỡ và họ đã xây ra một xã hội đúng như thế, sự thật này quá hiển nhiên và đơn giản. Con người gieo nhân nào thì gặt quả ấy. Vì thế, sau tiến trình phá hủy là bước khởi đầu đầy nhiệt tình sôi bỏng của cách mạng. Khát vọng Tự Do Dân Chủ đang dâng tràn trước những chiến thắng bất ngờ đầy vẻ vang của đám đông, thường làm cho con người đánh rơi ý thức cách mạng, ý thức về Tự Do Dân Chủ và ý thức về những giá trị thiết yếu để biến lý tưởng Tự Do Dân Chủ thành cuộc sống đích thực, tốt đẹp và hạnh phúc cho mỗi người và cho toàn thể xã hội.
Phải chăng bài học lịch sử về cách mạng Cộng sản quá cần thiết- bởi vì, đúng như tổng thống Nixon và tất cả chúng ta đều đã biết, những người Cộng sản Việt Nam đã chiến thắng trong chiến tranh Việt Nam và họ đã đem hòa bình lại cho Miền Nam Việt Nam và các nước ở Đông Dương- nhưng đó là- NỀN HÒA BÌNH TRONG NHỮNG NẤM MỒ – với bao triệu sinh linh đã gục chết thảm thiết trong nền hòa bình đó. Cách mạng Cộng sản hô hào giải phóng và họ đã tròng vào cổ ba nước Đông Dương bao xiềng xích nô lệ hãi hùng. Họ đã hứa xây nên một xã hội không còn cảnh người bóc lột người, và họ đã bóc lột tận xương tủy mọi người. Họ đã hứa và kêu gọi xây dựng thế giới đại đồng, và họ đã tạo nên một xã hội chỉ có xung đột và hận thù triền miên. Họ đã hứa với những người nghèo nàn và đói khát rằng sản xuất sẽ tràn ngập để con người sống hạnh phúc ấm no, và họ đã đẩy tất cả vào những cảnh đói khát ghê rợn chưa từng thấy. Họ đề cao đạo đức cách mạng và họ đã xây nên những chính quyền vô luân và bạc ác, tinh ma để hành hạ con người. Họ cổ xúy và kêu gọi toàn thế giới giúp họ tìm lại nền hòa bình cho Việt Nam và họ đã phát động chiến tranh và hận thù giai cấp triền miên trong lòng dân tộc khổ đau của họ khi chiến tranh đã hoàn toàn im tiếng súng.
Ngày nay, họ vẫn còn đó hay nhiều người trong họ đã vĩnh viễn nằm xuống với cỏ cây. Họ lưu lại gì trong lòng con người, va lưu lại gì trong lịch sử con người? Đó là những hậu quả lich sử của Cách Mạng Cộng Sản để lại, đó là một xã hội rất bệnh hoạn, bệ rạc, đổ vỡ và mù quáng, vì phần đông ngọn đèn lương tâm và trí tuệ của Quốc Gia đã lịm tắt hay mù mờ như những ánh lửa chập chờn trong đêm tối. Những con người của minh triết, những con người can đảm phi thường như những kiếm sĩ ở đất Phù Tang, những con người bao dung độ lượng, những con người đức độ, những con người đi xây dựng và bảo vệ công lý, cũng như dân sinh của cả một dân tộc đã bỏ xã hội ấy ra đi, hay đã bị vùi dập tơi bời trong mưa bão của CÁCH MẠNG VÔ SẢN. Tại sao lại phí phạm tài nguyên nhân lực một cách mù quáng như thế?
Xã hội Việt Nam bây giờ là một đống rác của lich sử- một đống rác quá thối tha, quá ghê tởm và nó cũng quá nhiều ung nhọt gây bệnh tật cho xã hội con người. Vì thế, những con người của thời đại phải là những biểu tượng của Tự Do Dân Chủ, họ không thể không ý thức được thực trạng căn bệnh trầm kha của xã hội ấy. Bởi cách mạng Cộng sản đã tự nhận họ là những kẻ vô thần, nên xã hội mà họ xây dựng nên là một xã hội liệt cảm, vô hồn, vô đạo và bệnh hoạn. Cũng bởi vì tất cả những giá trị TINH THẦN làm nên một xã hội sáng suốt, lành mạnh, trong sáng đầy sinh khí đã hoàn toàn sụp đổ và băng hoại tận nền tảng, thì xã hội làm gì còn sự sống chân thật và hạnh phúc nữa? Các nhà Cách Mạng Tự Do Dân Chủ làm cách mạng để lật đổ các nhà độc tài đừng quên đống rác lịch sử mà các nhà độc tài sẽ để lại cho xã hội, nhất là tại các quốc gia Cộng sản như Việt Nam, Hoa Lục và Bắc Hàn thì đống rác lịch sử ấy thật khủng khiếp.
Trong tiến trình phá hủy, những con người của Tự Do Dân Chủ phải có khả năng dọn sạch đống rác lịch sử- một đống rác đã làm băng hoại hoàn toàn mọi nền tảng giá trị thiết yếu của tôn giáo, đạo đức và văn hóa của một xã hội hạnh phúc của con người. Đây mới thực sự là Ý NGHĨA SÂU THẲM CỦA CÁCH MẠNG TÂM LINH và TINH THẦN mà Moses, Đức Phật, Socrates, Plato, Aristotle, Cicero, Chúa Jesus, Luther, Calvin, Olive Cromwell, các triết gia của thời Ánh Sáng như Hegel, Kant, Pascal, Jean Jacques Rousseau, Montesquier, cả nhà lập quốc Hoa Kỳ hay Gandhi và Krisnamurti … đều đã kế thừa và tiếp nối liên tục suốt 3500 năm nay. Hiện nay cuộc cách mạng đó vẫn đang dang dở ( unfinished revolution).
Và phải chăng người dân Việt cũng đã được Trời chọn để cùng nhau kế thừa và tiếp nối cuộc cách mạng còn đang dang dở này?
Tất cả những nhân vật lịch sử siêu việt của văn minh nhân loại trên đều là những nhà cách mạng đúng nghĩa nhất, sâu thẳm nhất, minh triết nhất, nhân từ, độ lượng và bao dung nhất, đức độ nhất, đáng tôn kính nhất. Họ yêu thương và trìu mến con người nhất. Đó là những nhà cách mạng đã từ Trời mà xuống để sống giữa xã hội con người, để giúp nhân loại xây dựng và bảo vệ đạo đức và công lý cho xã hội con người từ bao ngàn năm qua. Những con người bằng xương,bằng thịt này đã đến để gieo xuống trái tim nhân loại những hạt giống kỳ diệu nhất của CÁCH MẠNG TÂM THỨC, CÁCH MẠNG TINH THẦN và CÁCH MẠNG TÂM LINH của tất cả nhân loại. Tất cả đều dạy rằng, con người phải thay đổi và chuyển hóa TÂM HỒN, TRÍ TUỆ, và BẢN CHẤT của mọi người trước khi muốn nhìn thấy xã hội thực sự thay đổi tốt đẹp. CHUYỂN HÓA và THAY ĐỔI theo QUI LUẬT CỦA TỰ NHIÊN để con người có thể TIẾN HÓA và THĂNG HOA đời sống của họ.
Các nhà Cách Mạng Tự Do Dân Chủ (revolutionaries of democratic revolution of liberal democracy ) của thời hậu CS phải thấy rõ sự phá sản toàn diện về những giá trị tinh thần của con người khắp nơi từ mấy thế kỷ qua. Và chính vi thế, đã làm cho con người không còn đủ sức mạnh và võ khí để chống đỡ, ngăn chặn và vượt qua những thử thách kinh hoàng, khi phải đối đầu và tương tranh với sức mạnh đầy bạo lực, của những lực lượng nắm quyền lực chính trị bá đạo và vô thần tại các Quốc Gia Đệ III nghèo khó và lạc hậu. Vì đã đánh mất sức mạnh tinh thần và quyền năng của đạo đức, nên con người mới trở thành nạn nhân bi thảm của cường quyền và bạo lực chính trị bá đạo.
Bên cạnh sự thất bại của hai cuộc cách mạng Pháp và cách mạng cộng sản, nhân loại còn thấy cuộc cách mạng của nước Anh (1642), cách mang Hoa Kỳ (1776), cách mạng của Nhật (1945), và cuộc cách mạng của Ấn Độ (1947) đều đã thành công vĩ đại. Bốn cuộc Cách Mạng Tự Do Dân Chủ ấy đã trải qua hai giai đoạn: giai đoạn phá hủy và giai đoạn xây dựng Quốc Gia.
Sau khi Nhật đầu hàng năm 1945, tướng Mac Arthur đã đến để giúp đỡ và hướng dẫn Nhật Bản làm cuộc Cách Mạng Dân Chủ Đáy Tầng. Và sau khi Ấn Độ giành được độc lâp từ tay đế quốc Anh, thì cuộc Cách Mạng Dân Chủ cũng diễn ra tại đây. Cả hai quốc gia này đều đã bảo vệ và phát huy ba GIÁ TRỊ TINH THẦN nền tảng của Quốc Gia để đi vào cuộc Cách Mang Dân Chủ xây dựng Quốc Gia. Ba giá trị đó như sau:
– Giá trị TÔN GIÁO
– Giá trị ĐẠO ĐỨC
– Giá trị VĂN HÓA
Tôn giáo là linh hồn và ánh sáng của văn hóa. Tôn giáo đưa đến giá trị đạo đức và tinh thần cho văn hóa. Nhờ văn hóa, tôn giáo đã ĐEM ĐẠO VÀO ĐỜI. Đem đạo vào đời là đem đạo đức vào đời, đem tình thương, đem tự do và bình đẳng, cũng như đem công lý vào đời để xây dựng trật tự pháp lý, trật tự chính trị và trật tự xã hội. Hai cuộc cách mạng tại Anh và Mỹ cũng đều là cuộc Cách Mạng Dân Chủ Đáy Tầng- đó là hai cuộc cách mạng cũng đem đạo vào đời, bởi vì hai cuộc cách mạng này đều bước theo ánh sáng dẫn đường của Moses, của Chúa Jesus cũng như của Luther và Calvin để khai triển và phát huy tối đa ba giá trị nền tảng là giá trị tôn giáo, giá trị đạo đức và giá trị văn hóa.
Đây là cuộc cách mạng mà chúng ta sẽ kế thừa và nối tiếp tại Việt Nam, Hoa Lục và Á Châu để xây dựng trật tự, ổn định và hòa bình, thịnh vượng cho cả vùng Đông Nam Á.
III CHÍN MỤC TIÊU CỦA NỀN DÂN CHỦ ĐÁY TẦNG
Cách Mạng Dân Chủ Đáy Tầng được hổ trợ và trang bị những giá trị tinh thần tuyệt vời của CẢI CÁCH TÔN GIÁO do Luther và Calvin thực hiện, để tạo nên một trào lưu văn hóa ĐEM ĐẠO VÀO ĐỜI trong các làn sóng Cách Mạng Tự Do Dân Chủ trên toàn thế giới từ mấy thế kỷ qua. Lịch sử luôn luôn là những bậc thầy vĩ đại nhất bởi vì lịch sử đem đến cho con người những kinh nghiệm đầy máu và nước mắt của những người đi trước. Họ đã lưu lại những bài học thật cao quý hay để lại những vết xe đổ đầy lầm lạc đã xảy ra trong quá khứ. Những nhiệt tình nóng bỏng và can trường của những con người dấn thân vào tranh đấu để lật đổ các chế độc tài là điều ắt phải có- nhưng muốn có đủ thì phải có những HIỂU BIẾT CHÂN CHÍNH ( true understanding) và những KIẾN THỨC CẦN THIẾT, để biết cái gì cần phá hủy và cái gì cần xây dựng. Đặc biệt là bản chất u ám đầy lầm lạc của con người, nếu chưa có thể thay đổi chuyển hóa trong một đêm- thì cũng phải có luật pháp kiểm soát và khắc chế thứ bản chất đầy tính cách phá hoại này. Nếu không làm như thế, cách mạng sẽ bị phản bội, hay xôi hỏng bỏng không, khi không có ai chịu chú tâm đến sự nguy hiểm tiềm tàng nơi bản chất dễ sa ngã và dễ biến chất của con người, khi họ không có khả năng chống lại mọi cám dỗ của vật chất và quyền lực thì xã hội dễ rơi vào tình trạng hỗn loạn.
Con người đã từng sống đau khổ trong các chế độ độc tài; vì sự đau khổ ấy con người đã đứng lên lật đổ các nhà độc tài để đòi lại quyền sống, quyền Tự Do và Dân Chủ. Muốn có Tự Do Dân Chủ, con người mới phải có khả năng xây dựng một môi trường văn hóa trong sáng và lành mạnh- vốn đã từng bị bản chất hắc ám, vô minh đầy lầm lạc của con người cũ làm cho bị ô nhiễm trầm trọng. Chính môi trường văn hóa này đã dìm chết và làm băng hoại những giá trị nhân bản cao quý của con người- vì thế, để cứu vãn những giá trị đó, môi trường văn hóa mới phải chú tâm tới HƯỚNG THƯỢNG VÀ HƯỚNG THA. Hướng thượng để học hỏi nơi các giáo luật của các chính giáo để xây dựng đời sống tinh thần, đạo đức, tình thương và công lý. Hướng tha để phát huy và thực hành Ý THỨC XÃ HỘI- là hướng về tha nhân, hướng về anh em đồng loại như những con người Tự Do và Bình Đẳng để xây dựng mối tương quan và hợp tác xã hội (social relationship and social-co-operation), chú trọng vào sự tương thân tương ái, chia sẻ niềm vui nỗi buồn, chia sẻ quyền hành và trách nhiệm, giúp đỡ lẫn nhau, bổ túc cho nhau, nương tựa và kề vai sát cánh bên nhau để cùng sống với nhau, vì nhau và cho nhau.
Xã hội cũ là một xã hội bệnh hoạn và tăm tối, chia rẽ và đau khổ; đó là môi trường xã hội thuận tiện cho bản chất u ám, đê tiện, tham lam, gian dối, bất lương, độc ác, ghen tuông, đố kỵ, hẹp hòi, thiển cận và thành kiến phát triển và tung hoành, như trong khu rừng hoang đầy thú dữ. Đó là môi trường văn hóa thuận tiện cho các chế độ độc tài xuất hiện, vì xã hội cũ thiếu không chỉ một hệ thống luật pháp công minh và nghiêm minh, mà còn thiếu cả một môi trường văn hóa trong sáng và lành mạnh để soi sáng, uốn nắn và nhào nặn tâm hồn, trí tuệ và bản chất cho con người- nếu xã hội muốn có những nhà lãnh đạo chân chính để đem hạnh phúc đến cho toàn dân. Những con người mới Tự Do Dân Chủ phải thấy được và phải ngăn chặn được những hiểm họa đó, nếu không từ chế độ độc tài này sẽ dẫn đến chế độ độc tài khác mà không làm sao tránh được cảnh tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa.
Bên cạnh đó, phải nhận ra những quan niệm về tôn giáo, văn hóa, luật pháp, chính trị, xã hội và kinh tế của xã hội cũ đầy sai lầm- với tất cả những thành kiến hẹp hòi- cũng phải là mục tiêu chính mà tiến trình phá hủy của cách mạng phải nhắm tới để phá hủy triệt để và toàn diện. Để làm gì hay chỉ để những bản chất trong sáng và tốt lành của bao người khác có điều kiện và cơ hội để vươn lên trong một xã hội của những con người Tự Do, Bình Đẳng, Đạo Đức mà cách mạng muốn xây dựng. Nếu tất cả những gai góc và sỏi đá trong khu vườn văn hóa đó không được dọn sạch đi, thì không có hạt mầm cách mạng nào gieo xuống có thể nảy mầm và đơm hoa kết trái được.
Người xưa thường khuyên con người phải khuyến thiện, trừng ác là vì thế. Trong khi ấy tại các quốc gia cộng sản những con người cộng sản đã hành động hoàn toàn trái ngược, nghĩa là họ đã khuyến ác, trừng thiện . Cách mạng cộng sản đã thất bại thê thảm, vì lẽ hoàn toàn bất lực trước bản chất u ám đầy lầm lạc của con người nắm giữ quyền hành trong xã hội và cuối cùng trở thành một cuộc cách mạng đầy thảm họa cho chính họ và cho bao quốc gia khác. Họ đã thất bại, bất lực và trở thành thảm họa- vì sao vậy, vì những quan niệm cách mạng của họ quá hẹp hòi, thiển cận nên chỉ thấy lầm lạc và sa đọa. Và vì họ quá non nớt, ngây thơ và khờ dại trước bản chất u ám của con người, nên cách mạng cộng sản bị phản bội hay tự phản bội chính mình vậy.
Hậu quả thê thảm của cách mạng cộng sản để lại, đã dạy cho chúng ta một bài học- đó là, những con người cộng sản muốn thay đổi xã hội, thay đổi toàn diện và triệt để nhưng họ chưa biết hay không biết sự quan trọng để thay đổi và chuyển hóa bản chất con người. Chính vì thế mà bản chất u ám và lầm lạc của các nhà cách mạng cộng sản đã chồm lên để phá hoại, vùi dập và thủ tiêu trọn vẹn giấc mơ đại đồng của họ. Tất cả những kẻ nào khuyến ác trừng thiện sẽ gặt lấy quả mà họ gieo nhân xuống.
Trong khi ấy, tiến trình xây dựng cách mạng Tự Do Dân Chủ là tiến trình khuyến thiện trừng ác với một nền văn hóa nhân bản nhất và đầy đủ giá trị cần thiết nhất, để xây nên những xã hội TỰ DO, BÌNH ĐẲNG, ĐẠO ĐỨC VÀ CÔNG LÝ với ba giá trị nền tảng là TÔN GIÁO, ĐẠO ĐỨC VÀ VĂN HÓA. Vì thế, tiến trình phá hủy và xây dựng của cách mạng Tự Do Dân Chủ cần nhấn mạnh đến những điểm sau đây:
1. Ý thức về thực trạng xã hội với những căn bệnh trầm kha của xã hội cũ mà các chế độ độc tài đã để lại.
2. Ý thức mới trong chế độ Tự Do Dân Chủ và một hệ thống giá trị vững chắc để xây dựng xã hội cho những con người Tự Do Bình Đẳng.
3. Phải tạo ra một môi trường văn hóa trong sáng và lành mạnh để hướng dẫn quần chúng , để nâng dân trí lên với những giá trị của tôn giáo, luật pháp, chính trị, xã hội của nền văn hóa Dân Chủ.
4. Phải nắm vững các lý thuyết chính trị, triết lý hay đạo lý chính trị để có ánh sáng dẫn đường cho cách mạng Tự Do Dân Chủ.
5. Đề cao và làm thật sáng tỏ giá trị của Dân Chủ Đáy Tầng với những nguyên tắc căn bản của Hiến Pháp Dân Chủ, để toàn dân chuẩn bị viết Hiến Pháp cho Quốc Gia, để hướng dẫn xây dựng trật tự chính trị và trật tự xã hội.
6. Xây dựng xã hội dân sự và đặt nền móng cho mối tương quan xã hội và hợp tác xã hội giữa dân và dân, giữa dân và chính quyền .
7. Xây dựng hệ thống luật pháp để bảo vệ trật tự cho xã hội.
8. Xây dựng xã hội chính trị và xây dụng các hệ thống chính quyền của địa phương bao gồm Làng, Xã, Quận, Tỉnh để CƠ CẤU HÓA, CHÍNH THỐNG HÓA và LUẬT PHÁP HÓA quyền làm chủ đất nước và quyền tối thượng của toàn dân bằng bản Hiến Pháp Quốc Gia và những bản Hiến Pháp hay Hiến Chương của mỗi địa phương.
9. Xây dựng chính quyền Quốc Gia trên bốn nguyên tắc:
a. Một chính quyền đại diện cho dân (Representative Government )
b. Tam quyền phân lập (separation of power and checks and balance) độc lập với nhau, nhưng có quyền kiểm soát và chế tài lẫn nhau, để giữ thăng bằng quyền lực Quốc Gia và bảo đảm không có sự vi phạm Hiến Pháp Quốc Gia.
c. Giới hạn quyền hành của chính quyền Quốc Gia tại Trung Ương càng nhiều càng tốt.
d. Tất cả cứu cánh tối hậu của chính quyền là đem hạnh phúc đến cho toàn dân . Vì tất cả quyền hành tối hậu của Quốc Gia đều thuộc về toàn dân nên chính quyền chỉ là những người phục vụ dân mà thôi.
Đây là cuộc cách mạng Dân Chủ Đáy Tầng ( Grass Roots Democracy ) chắc chắn sẽ xảy ra tại Việt Nam, Hoa Lục, Bắc Hàn và các nước Á Châu trong những ngày tháng sắp tới.
Phần đông các Quốc Gia kể cả các học giả chính trị thường chỉ đề cập đến chế độ Dân Chủ Tự Do (Liberal Democracy), Dân Chủ Xã Hội (Socialist Democracy) và Dân Chủ Nghị Viện (Parliament Democracy). Nhưng rất ít học giả kể cả học giả Âu Châu, Đông Âu kể cả Nga sô không mấy ai chú ý đến nền Dân Chủ Đáy Tầng mà Hoa Kỳ đã khai sinh ra từ cuộc cách mạng Hoa Kỳ năm 1776. Vì thế, Dân Chủ Đáy Tầng là một khám phá mới sau nhiều năm học hỏi và nghiên cứu về nguồn gốc, sự hình thành và phát triển qua gần 3500 năm của nền văn minh dân chủ Thế Giới, được Hoa Kỳ tổng hợp lại để khai sinh ra nền Dân Chủ Cộng Hòa cho chính mình và cho tất cả nhân loại. Các nhà lập quốc Hoa Kỳ (The Founding Fathers) đã đưa ra được những giải pháp cho những vấn nạn chính trị và kinh tế của một thế giới đang bị tàn phá tan hoang vì tranh chấp , thù hận và chiến tranh triền miên.
IV.PHẢI CHĂNG BÀN TAY VÔ HÌNH CỦA ĐẤNG TẠO HÓA ĐANG HƯỚNG DẪN LỊCH SỬ VĂN MINH TINH THẦN CỦA NHÂN LOẠI
Theo nhận định của W Cleon Skousen thì có ba điều tất cả nhân loại đang tìm kiếm như sau:
1. Tất cả nhân loại đang tìm kiếm TỰ DO cho chính mình và cho Quốc Gia của mình.
2. Tất cả nhân loại đang tìm kiếm SỰ GIÀU CÓ VÀ SỰ PHỒN VINH cho riêng mình và cho Quốc Gia của mình.
3. Tất cả nhân loại đang tìm kiếm HÒA BÌNH và những phương tiện để thoát khỏi những đau đớn, đổ vỡ do chiến tranh đầy tính cách hủy diệt gây ra.
Cũng theo Skousen, để đạt đến ba khát vọng chân chính lớn lao đó, người dân Hoa Kỳ đã bước theo ánh sáng dẫn đường của cuốn Kinh Thánh. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập viết ra năm 1776 và bản Hiến Pháp được 13 tiểu bang cùng nhau soạn ra vào năm 1787 cùng với Dự Luật Nhân Quyền ( The Bill of Rights) đưa ra sau cuộc cách mạng tại Anh bởi nhóm người Puritan vào năm 1689, sau đó trở thành căn bản cho Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc.
Điều khiến tôi ngạc nhiên đến kinh ngạc là tất cả nhân loại từ Đông phương qua Tây phương, khi bước vào thời Phục Hưng sau đó bước vào thời Hiện Đại- phần lớn văn minh, văn hóa của nhân loại đã bị cắt lìa với các truyền thống đạo lý cổ xưa- Nhìn ngược lại Hoa Kỳ- một Quốc Gia trẻ trung nhất Thế Giới- lại là chiếc cầu nối kết chặt chẽ giữa những giá trị của thời Cổ Đại với những giá trị của thời Hiện Đại. Một thời đại mà phần đông nhân loại chỉ biết tôn vinh và thờ phụng những giá trị của khoa học và vật chất, mà quay mặt với tất cả giá trị tâm linh và tinh thần khiến cho văn minh tinh thần ( spiritual civilization) của cả Đông phương và Tây phương đều rơi vào tình trạng phá sản tận gốc rễ, và xô đẩy cả nhân loại vào một thời kỳ, mà Phật Giáo gọi là THỜI KỲ MẠT PHÁP (The age of decadence of Divine Spirituality) nghĩa là nhân loại phần đông không còn đời sống Tâm Linh và Tinh Thần, không còn đức tin vào Thượng Đế hay Đấng Tạo Hóa và chối bỏ cả những giá trị siêu nhiên.
Ngày nay nhìn lại nguồn gốc và sự hình thành của nền Văn Minh Dân Chủ chúng ta bỗng nhận ra, hạt mầm Dân Chủ và Cộng Hòa đã xuất hiện vào thời Moses tại Do Thái cách đây 3500 năm. Sau đó đến Hy Lạp cũng có nền Cộng Hòa của Plato trên 2000 năm, và nền Cộng Hòa của La Mã cũng đã có trên 2000 năm. Vào thời trước Trung Cổ và sau đó nền Văn Minh Dân Chủ có thêm sự đóng góp của Giáo Hội La Mã với Thánh Augustine, sau ông là Thánh Thomas Aquinas. Đến đầu thế kỷ XVI thì có thêm Luther và Calvin đã đưa ra thêm một cải cách tôn giáo vĩ đại để khai sinh ra các dòng tư tưởng xã hội và trở thành nền móng cho cách mạng Anh 1642 và cách mạng Hoa Kỳ 1776, cả hai đều là cuộc Cách Mạng Dân Chủ Đáy Tầng.
Và trên 60 năm qua, nền Dân Chủ này đã truyền tới 111 Quốc Gia, và làn sóng này đang tiếp tục lan tràn tới Tunisia, Ai Cập, Libya, Yemen…Rồi đây làn sóng Tự Do Dân Chủ này sẽ lan tràn vào Việt Nam, Hoa Lục, Bắc Hàn và các nước Á Châu, để cuốn phăng đi tất cả những xiềng xích nô lệ của các chế độ độc tài đang tròng vào cổ con người, để trả con người về với TỰ DO, quyền BÌNH ĐẲNG và quyền LÀM CHỦ đất nước của người dân.
Nhìn vào sự vĩ đại của nền văn minh Dân Chủ với chiều dài hình thành và phát triển gần 3500 năm liên tục, có mấy ai hiểu được rằng bàn tay vô hình mầu nhiệm và đầy quyền năng của Đấng Tạo Hóa vẫn soi sáng, trợ giúp, lèo lái và hướng dẫn lịch sử văn minh tinh thần của nhân loại. Trời vô hình và Trời có nói gì đâu, nhưng Trời vẫn đến với con người qua các bậc Giáo Chủ của các chính giáo, các Tiên Tri, các bậc Thánh Nhân, các nhà Hiền Triết, các Triết Gia, các Tu Sĩ, và các nhà tư tưởng của các chính giáo – cũng như các nhà Văn Hóa, Luật Gia, Sử Gia thiên tài, chân chính của các thời đại. Họ đều đã được Trời Mặc Khải và truyền Ánh Sáng Giác Ngộ cho những bậc vĩ nhân đó, để họ đem tiếng nói của đạo lý, sự thật và sự sống của Tạo Hóa đến cho muôn người và cho các Quốc Gia trên tòan Thế giới.
Người ta có thể phủ nhận, khước từ hay quay mặt với Trời đất, Thiên Chúa hay Đấng Tạo Hóa vì đặc tính siêu nhiên , vô hình, vô ảnh, vô thanh của Đấng Tạo Hóa. Nhưng không ai có thể phủ nhận được đời sống tinh thần siêu việt của những nhân vật lịch sử chói sáng, đã đến và đã sống bên con người, và làm thành lịch sử của văn minh tinh thần của nhân loại. Nếu không có những con người đó và không có những ánh sáng tinh thần và ánh sáng giác ngộ đó, chắc chắn lịch sử và số kiếp của nhân loại còn đau khổ và tăm tối vô cùng. Cũng như không có ánh sáng tinh thần và ánh sáng giác ngộ đó, thì làm sao nhân loại có được văn minh tinh thần và văn minh dân chủ như ngày hôm nay.
Lịch sử của mỗi Quốc Gia, hay lịch sử của tất cả nhân loại, chỉ có một lựa chọn duy nhất: hoặc là để cho tham vọng và dục vọng mù quáng của chính trị và kinh tế tiếp tục hướng dẫn và thống trị- hoặc để cho những con người có ĐỜI SỐNG TINH THẦN thanh cao, vững chãi trong thế giới chính trị và kinh tế- để hướng dẫn người dân tự cai trị lấy chính mình trong những xã hội Tự Do Dân Chủ. Đó là thực tế mà chúng ta có thể tìm thấy nơi các nhà LẬP QUỐC HOA KỲ (The founding Fathers), họ muốn giúp dân và muốn đóng góp một mô thức chính trị và kinh tế chân chính nhất cho toàn thể nhân loại. Các nhà lập quốc Hoa Kỳ đã bỏ ra 180 năm để cùng nhau học hỏi, nghiên cứu và khảo sát tất cả các lý thuyết chính trị trên toàn thế giới- từ Thời Cổ Đại, qua Thời Trung Cổ, rồi đến Thời Hiện Đại- để rút tỉa tất cả kinh nghiệm thực tiễn nhất trong lịch sử văn minh chính trị ( Political Civilization) và văn minh tinh thần, cũng như các chế độ chính trị khác nhau trên toàn thế giới. Để rồi sau đó, xây nên một quốc gia Cộng Hòa Dân Chủ vững mạnh nhất và phát triển mạnh nhất, mà con người chưa từng thấy trong lịch sử chính trị thế giới. Vì thế, nền Dân Chủ của Hoa Kỳ là một Tập Đại Thành của tất cả văn minh chính trị của thế giới từ thượng cổ đến hôm nay. Đây là một sự thành tựu của nền văn minh chính trị toàn cầu. Do đó, ý thức dân chủ đầu tiên là ý thức về giá trị vĩ đại của văn minh dân chủ và giá trị lịch sử, cũng như một hệ thống giá trị gồm ba đặc tính:
– Thực dụng (Pragmatic)
– Thực tế (Realistic)
– Lý tưởng (Idealistic )
Muốn được sống trong chế độ Tự Do Dân Chủ chân chính, con người phải có ý thức vững chắc về quyền tự do và quyền bình đẳng – chỉ được bảo đảm khi giá trị đạo đức và giá trị công lý được bảo đảm. Giá trị cao quý nhất của Tự Do là Tự Do Lương Tâm (Freedom of Conscience). Bởi vì khi con người không có ý thức được giá trị cao quý của Tự Do, không có trách nhiệm và bổn phận với tự do, nghĩa là không có ý thức về trách vụ đạo đức (Moral obligation) và trách vụ pháp lý (Legal obligation) của tự do. Tự do mà không biết tôn trọng tự do của người khác, không có khả năng tự kiểm soát chính mình ( self control), nhất là vi phạm và gây tổn hại tự do của người khác cũng như trật tự và ổn định của xã hội.
Dân chủ là quyền làm chủ đời mình và làm chủ Quốc Gia của mình. Vì thế, không chỉ có quyền tối thượng của Quốc Gia thuộc về toàn dân, mà tất cả quyền hành của Quốc Gia cũng thuộc về toàn dân. Dân có toàn quyền quyết định trao quyền cho ai đại diện cho họ, hay có quyền lấy lại quyền hành đó khi người đại diện cho dân tỏ ra bất xứng.
QUYỀN TỐI THƯỢNG LÀ QUYỀN VIẾT HIẾN PHÁP VÀ QUYỀN LÀM LUẬT CHO QUỐC GIA.
Đạo đức và công lý là cứu cánh của luật pháp. Xã hội chính trị và quyền hành chính trị là thi hành hiến pháp, tức thực thi đạo đức và công lý trong đời sống xã hội và đời sống Quốc Gia. Muốn thực sự làm chủ đất nước, người dân phải tự mình xây nên chính quyền của dân, do dân, và vì dân. Đó là trách vụ đầu tiên và trên hết của những người làm chủ đất nước của mình.
Và cứu cánh tối hậu của chính quyền là hạnh phúc chung của toàn thể xã hội ( common good). Giá trị cần thiết nhất của dân chủ là khả năng Tự Chủ, Tự Lực, Tự Cường, tự đốt đuốc lên mà đi. Muốn xây dựng một xã hội trật tự, ổn định, thanh bình, an lạc và hạnh phúc thì phải theo Trời mà sống và theo chân tâm mà xử thế và hành động; đó là lời dạy của các dòng đạo lý cổ xưa. Muốn được như thế thì luật pháp quốc gia phải sử dụng bốn loại luật như sau:
– Luật siêu nhiên của Tạo Hóa
– Luật thiên nhiên của Trời Đất
– Giáo luật của các Chính Giáo
– Luật đã ghi khắc trong Lương Tâm con người.
Tất cả các luật lệ đó sẽ xây dựng nên trật tự pháp lý và trật tự chính trị, cũng như trật tự xã hội của con người. Nhờ sống theo những luật lệ đó, chắc chắn Quốc Gia và Xã Hội sẽ sản sinh được rất nhiều những con người Minh Triết, những con người can đảm phi thường, những con người có đạo đức và nhân từ độ lượng, cũng như những con người biết yêu thương con người và yêu thương công lý. Đó là phẩm hạnh và đặc tính cao quý của những con người, mà chính họ là hiện thân của những viên gạch vững chắc nhất, để làm thành nền móng của một quốc gia Cộng Hòa và Dân Chủ chân chính nhất. Bởi vì chế độ Tự Do Dân Chủ là một lý tưởng cao đẹp của chính trị Vương Đạo ( idealism) nên nó thuận với lòng Trời và thuận lòng người. Tự Do Dân Chủ cao đẹp và lý tưởng, vì nó có ba đặc tính: Thực dụng, thực tế và lý tưởng để giúp cho con người sống, tồn tại, tiến hóa và thăng hoa. Bởi vì, nếu con người chỉ biết sống thực dụng, thực tế mà không có lý tưởng, thì làm sao họ tìm được cơ hội để tiến hóa và thăng hoa? Muốn tiến hóa và thăng hoa đời sống thì bắt buộc phải có lý tưởng và tim kiếm sự thăng bằng giữa ba giá trị, đó là thực dụng, thực tế và lý tưởng. Phải chăng đó là tất cả ý định của Đấng Tạo Hóa với bàn tay vô hình, mầu nhiệm và đầy quyền năng đang soi sáng và hướng dẫn lịch sử văn minh tinh thần của nhân loại, để con cái của Đấng Tạo Hóa vừa đạt được Cứu Cánh Tạm Thời khi sống trên trần gian, cũng như đạt được Cứu Cánh Tối Hậu khi con người rời bỏ trần gian, để về lại với đời sống vĩnh cửu và về lại với “Thiên Thu của nước Trời?”
V. TẠI SAO HẠT MẦM DÂN CHỦ CHƯA NẢY MẦM ĐƯỢC TẠI Á CHÂU?
Đời sống con người dưới trần gian có những nhu cầu thực tế cần phải giải quyết như cơm ăn, áo mặc và nhà cửa. Muốn giải quyết những cứu cánh tạm thời đó, đường lối của quốc gia đòi hỏi phải rất thực dụng và thực tế. Nhưng nếu con người đánh mất lý tưởng của đời sống, thì con người đánh mất luôn cơ hội để tiến hóa và thăng hoa đời sống. Chính vì lẽ đó, đời sống của mỗi con người và đời sống của Quốc Gia phải bảo vệ được ba giá trị là thực dụng, thực tế và lý tưởng. Lý tưởng Tự Do Dân Chủ mà tất cả nhân loại đang khao khát, đang mơ ước, đang đứng lên tranh đấu và sẵn sàng tử đạo vì niềm khao khát Tự Do đang dâng tràn. Tại sao vậy? Tại vì chế độ Tự Do Dân Chủ biết tôn trọng giá trị cao quý của con người, tôn trọng quyền sống, quyền tự do dân sự, và tự do chính trị của tất cả người dân. Vì thế, con người không thể thiếu ý thức Dân Chủ và ý thức Tự Do, cũng như những giá trị vô cùng cao đẹp của chủ nghĩa chính trị Vương Đạo này. Đây là lý tưởng chính trị mà chinh đức Khổng Tử và các Nho Sĩ chân chính đã mơ về mấy ngàn năm qua mà chưa biết làm thế nào để thực hiện cho Trung Hoa và các dân tộc Đông Phương.
Theo nhận định của Samuel Huntington thì Đông phương đang có những khuyết điểm chết người, ở đó có nhiều Quốc Gia muốn bám vào những giá trị cũ để sống trong đau khổ, nghèo đói, mất hết Tự Do và nhục nhã. Vì thế, vấn đề thay đổi không thể nào tránh được. Samuel Huntington còn khuyên Hoa Lục nên từ bỏ ảo tưởng bành trướng và thống trị các nước lân bang. Phải chăng cảnh cáo ảo tưởng bành trướng và thống trị các nước lân bang đã phản ảnh cái khuyết điểm chết người của văn minh Trung Hoa? Đó là thứ văn hóa của cường quyền và bạo lực mà những người cộng sản Hoa Lục đã kế thừa và tiếp nối từ tinh thần của Tần Nho, Hán Nho và Tống Nho, để khai sinh ra thứ “trật tự quân- thần” (monarchy- mandrin order) và “đạo vua-tôi” (emperor worship). Đây là thứ trá hình liên tục của văn minh bái vật (Idolatrous civilization) tức tôn thờ ngẫu tượng mà Đấng Tạo Hóa đã cảnh cáo con người trong Luật Giao Ước (Ten commandments) đã được ký kết giữa con người và Người Cha chung của nhân loại vào thời Cựu Ước. Trong luật Giao Ước ấy tóm lại chỉ còn hai điều: HƯỚNG THƯỢNG để thờ lạy Thượng Đế hết lòng, hết linh hồn, hết trí tuệ và hết sức mình, và điều thứ hai là HƯỚNG THA để yêu thương anh em đồng loại như chính mình.
Cũng trên tinh thần hướng thượng và hướng tha ấy, các dòng đạo học Đông Phương cũng khuyên con người rằng: “Thuận Thiên giả tồn. Nghịch Thiên giả vong”. Đạo lý nguyên thủy của người Việt Nam cũng theo ĐẠO THỜ TRỜI và ĐẠO LÀM NGƯỜI, cũng chủ trương hướng thượng và hướng tha. Nhưng dòng đạo lý của tổ tiên Đất Việt đã bị nền văn hóa bái vật của Trung Hoa vây hãm, khống chế và làm cho dòng đạo lý nguyên thủy ấy tàn tạ và suy vong cho đến ngày nay (2011).
Làm văn hóa mà lầm là giết muôn ngàn thế hệ là một thực tế lịch sử của văn hóa Việt Nam và Đông Phương từ hơn 2000 năm qua. Thay vì THỜ TRỜI và hoàn tất ĐẠO LÀM NGƯỜI, văn minh bái vật Trung Hoa qua các triều đại đã dựng nên- ở đó, con người đã “ bỏ trời” để “ thờ vua” và thay vì chu toàn đạo làm người, con người đã quay qua để tôn thờ ngẫu tượng, tức tôn thờ của cải vật chất và quyền uy của nhân thế, để từ đó khai sinh ra chủ nghĩa chính trị Bá Đạo mà Cộng Sản Hoa Lục đang kế thừa, tiếp nối. Phải chăng đó chính là cái mà Samuel Huntington đã cho rằng đấy là khuyết điểm chết người ở Đông Phương. Từ thực trạng và thực tế đó, cho thấy tất cả lý do tại sao hạt mầm Tự Do Dân Chủ đã đơm hoa kết trái thật tốt tươi tại Nhật và Ấn Độ, mà không thể nào nảy mầm được tại Việt Nam, Hoa Lục, Bắc Hàn và các Quốc Gia khác tại Đông Nam Á.
Cũng từ nền văn minh, văn hóa lạc đạo đó, nó đưa đến những hậu quả lịch sử tai hại không sao lường được trong xã hội con người- đó là:
1. Nền văn hóa lạc hậu.
2. Hệ thống chính trị bá đạo, quan liêu phong kiến với chủ trương sử dụng cường quyền và bạo lực để nô lệ hóa con người. Chính trị bá đạo không biết tôn trọng giá trị cao quý của con người, cũng như không biết tôn trọng quyền sống, quyền tự do và quyền tìm kiếm hạnh phúc của người dân.
3. Hệ thống luật pháp rất rừng rú, cũng như rất bất minh và bất công vì nó đi ngược lại với luật Trời, luật Thiên Nhiên và luật đã ghi khắc trong lương tâm của con người.
4. Tâm hồn và trí tuệ của tầng lớp trí thức hay Nho sĩ không thể nào phát triển được, khi đi vào Tây Phương hóa và hiện đại hóa, vì họ bị vây hãm bởi nền văn hóa lạc đạo.
5. Dân trí rất thấp vì chủ trương ngu dân của tầng lớp thống trị bá đạo xưa cũng như ngày nay.
Đây là năm khuyết điểm chết người mà Samuel Huntington chưa xác định được rõ ràng.
Ngày nay, trước ý thức Tự Do và trước ý thức Dân Chủ, cũng như trước những dòng tư tưởng mới của thời đại văn minh dân chủ và một hệ thống giá trị nền tảng của chế độ Tự Do Dân Chủ, những con người của THỜI ĐẠI DÂN CHỦ HÓA TOÀN CẦU phải có khả năng vứt bỏ năm khuyết điểm chết người đó, để cho mẫu người của lý tưởng Tự Do Dân Chủ xuất hiện, để gieo những hạt giống diệu kỳ của văn minh dân chủ xuống những vùng đất đầy sỏi đá và gai góc có cơ hội nảy mầm và đơm hoa kết trái. Từ đó mới hy vọng nhìn thấy thời kỳ Phục hưng lại dòng Đạo Lý của Trời và dòng Đạo Lý trong Tâm con người.
Hiện nay tại Việt Nam, Hoa Lục và các nước Á Châu, hình như vẫn chưa thấy những mẫu người đó. Thực dân Tây Phương đã cuốn gói ra đi từ lâu, phát xít Nhật đã quay về với Tự Do Dân Chủ và dồn mọi nỗ lực vào Hiện Đại Hóa, để đi vào cách mạng dân chủ, xây dựng Quốc Gia, và sự thành công của họ đã làm cho cả Thế Giới kinh ngạc và ngưỡng phục. Và cuối cùng là cuộc cách mạng Cộng Sản vô thần tại Việt Nam, Hoa Lục và Bắc Hàn cũng đã chết trong hy vọng và đã chết trong những lời hứa hão huyền đầy dối trá. Những người Cộng Sản không phải con người, đó là những con quái vật đội lốt người đã đến trong xã hội con người để làm tình làm tội xã hội con người. Tất cả đã chết, nhưng tại sao hạt giống diệu kỳ của Tự Do Dân Chủ từ hơn nửa thế kỷ qua vẫn chưa nảy mầm được tại Á Châu?
Vì thế những con người đang cầm quyền tại Việt Nam, Hoa Lục và Bắc Hàn phải sáng suốt và can đảm nhìn lại những gì mà họ từng tự hào, tự mãn và tự nâng mình lên, để nhìn thẳng vào năm khuyết điểm trên, để giải phóng mình ra khỏi vòng vây hãm lao lung của gông cùm văn hóa sai lầm, lạc hậu và đầy khuyết điểm chết người đó.
Mẫu người của Tự Do Dân Chủ là mẫu người lý tưởng vô cùng cao quý của thời đại, mà bao tỷ con người đang hướng về, với tất cả tình thương yêu, với tất cả niềm tin và hy vọng. Tiếng nói của lớp người này là tiếng nói của những Công Dân Thế Giới và nó phản ảnh tiếng nói Lương Tâm Chân Chính của các Quốc Gia và khát vọng chung của tất cả nhân loại hiện nay. Đó là tiếng nói của Tự Do, Bình Đẳng, Tình Thương, Đạo Đức và Công Lý.
Tiếng nói đó đang được cất lên tại Tunisia, Ai Cập, Yemen, Libya và bây giờ tại Việt Nam, Hoa Lục, Bắc Hàn và các nước Á Châu, tiếng nói cất lên từ những mảnh đất khốn cùng, mà ở đó giá trị con người bị chà đạp, quyền sống thiêng liêng của con người bị tước đoạt và quyền tự do cao quý của con người cũng bị lấy mất đi từ những bàn tay thô bạo của chính trị bá đạo.
Mẫu người Tự Do Dân Chủ ấy sẽ làm chủ đời mình và làm chủ cả một giang sơn gấm vóc đang sống trong đọa đày, tủi nhục và mất mát trăm bề. Đó là những lý do của người Tự Do Dân Chủ đứng ra thách đố với kẻ thù để đòi lại giá trị cho con người, đòi lại quyền sống, đòi lại danh dự sống và đòi lại những quyền mà Đấng Tạo Hóa đã ban cho con cái của Người dưới trần gian này.
Vì thế máu của những người tranh đấu đã đổ ra để viết lên những trang sử mới về đạo lý chính trị của thế giới con người. Máu, nước mắt và mồ hôi đã trào dâng từ thời đại này qua thời đại khác, từ thế hệ này qua thế hệ khác và đã kéo dài từ 3500 năm nay. Và tất cả những dòng máu, mồ hôi và nước mắt ấy thiêng liêng và mầu nhiệm biết bao, vì nó đã làm nên lịch sử văn minh Dân Chủ cho tất cả nhân loại. Nền văn minh này cũng phải được địa phương hóa để phù hợp với các nền văn minh và văn hóa của các chủng tộc .
Cuối cùng, phải tìm mọi cách để nhìn thấy thật rõ những khó khăn và trở ngại phát sinh từ năm khuyết điểm trầm trọng đó, để đi vào cải cách triệt để về tôn giáo, luật pháp, chính trị, xã hội và giáo dục để cho những hạt giống Tự Do Dân Chủ nảy mầm và đơm hoa, kết trái. Nếu con người muốn chấm dứt đau khổ, nghèo đói, mất hết Tự Do và nhục nhã thì những thay đổi không thể nào tránh được.
KẾT LUẬN
Nói tóm lại, đứng trước trào lưu lịch sử của văn minh Dân Chủ đang thổi vào lòng người và thổi vào các vùng đất ngục tù trên toàn thế giới, nơi có các chế độ độc tài đang giam hãm và tước đoạt những quyền tự nhiên (Natural rights)- không thể không có được- mà Đấng Tạo Hóa đã ban cho tất cả con cái của mình. Lương tâm con người và lương tâm của bao Quốc Gia đang trỗi dậy trước luật của Trời cao, để thấy các chế độ độc tài đã chà đạp lên các luật lệ đó và chà đạp lên cả lương tâm của con người. Vì thế, khát vọng Tự Do Dân Chủ đang dâng tràn để con người dõng dạc cất lên tiếng nói lương tâm của mỗi con người, lương tâm của Quốc Gia và cũng là lương tâm của thế giới ngày nay- mà Liên Hiệp Quốc là một biểu tượng chói sáng nhất của gia đình nhân loại hiện nay. Nghị quyết của Liên Hiệp Quốc can thiệp quân sự vào Libya để cứu thường dân- đang bị Kadhafi sát hại để bảo vệ chế độ độc tài của ông- phải chăng đây là tiếng nói lương tâm của cộng đồng nhân loại?
Vì thế, các nhà độc tài trên thế giới phải thấy rằng, đã đến lúc phải tuân hành theo tiếng réo gọi lương tâm của con người khắp nơi trên thế giới, như lương tâm của đại gia đình nhân loại ( Global conscience), cũng như tuân hành theo tiếng gọi vô ngôn của Trời cao. Họ phải trả lại quyền tự do, quyền bình đẳng và quyền làm chủ Quốc Gia của người dân. Đó là sự đòi hỏi của Luật Tạo Hóa, và Luật Thiên Nhiên đã làm nên trật tự của Trời đất và trật tự của thế giới tự nhiên. Do vậy, trật tự của xã hội và trật tự của mỗi Quốc Gia không thể đi ngược lại với trật tự Thiên Nhiên. Trời đất quý nhất là sự sống hài hòa tốt đẹp của con người với thế giới tự nhiên. Đạo học Đông Phương gọi đó là ĐỨC HIẾU SINH, nên trong Phật giáo có ngũ giới- quan trọng nhất là không được sát sinh. Đã đến lúc con người phải thấy được rằng Đạo Lý của Trời Đất cũng chỉ là Luật Siêu Nhiên và Luật Thiên Nhiên mà thôi. Sống theo luật lệ ấy là sống theo Đạo Lý, sống trái với Đạo Lý là sống trái với luật lệ tự nhiên.
Con người có thể không thấy được bàn tay vô hình, mầu nhiệm đầy quyền năng của Đấng Tạo Hóa, nhưng con người không thể không thấy sức sống trong thế giới thiên nhiên hữu hình do bàn tay của Tạo Hóa dựng nên và đang cai quản, cũng như con người không thể không thấy các bậc giáo chủ, các tiên tri, các nhà hiền triết của Đông phương và Tây phương, các bậc thánh nhân, các đạo sư, các triết gia, các tu sĩ, các nhà văn hóa, các học giả hay sử gia chân chính đã đến sống trong thế giới con người và sống trong lịch sử qua tất cả các thời đại. Tất cả đã nói gì ngoài Đạo Lý của Trời, với hình thức này hay hình thức khác và dưới ngôn ngữ này hay ngôn ngữ khác. Trong lúc tên gọi Đấng Tạo Hóa có 48 ngôn ngữ khác nhau nhưng nhân loại chỉ có một Vũ Trụ Thiên Nhiên, đó là nơi trú ngụ duy nhất của toàn thể nhân loại.
Từ bao ngàn năm qua ở Đông phương, con người thường nói đến Đạo Lý nhưng không mấy ai hiểu được Đạo Lý là gì và phần đông con người sống rất xa lạ với Đạo Lý, chỉ vì xưa Lão Tử đã nói: “ĐẠO khả ĐẠO phi thường ĐẠO”, ĐẠO mà nói ra thì ĐẠO không còn là ĐẠO nữa. Nhưng nếu ĐẠO không nói ra được thì làm sao con người hiểu được mà sống theo ĐẠO LÝ? Phải chăng đây là chỗ thiếu sót trầm trọng của nền đạo học Đông phương. Trong khi ấy ở Tây phương, Kinh Thánh cũng chỉ đề cập đến Đạo Lý của Trời cao và đã được viết xuống thật rõ ràng- mà ai cũng có thể hiểu được. Có thể nói Thánh Kinh là cuốn sách chứa đựng tất cả luật lệ thiên nhiên trong Trời đất.
Trên thực tế, Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên đã khai thác triệt để luật Trời Đất trong Thánh Kinh để làm căn bản XÂY DỰNG QUỐC GIA VÀ XÂY DỰNG TRẬT TỰ MỚI CỦA THẾ GIỚI cho toàn thể gia đình nhân loại (1918- 2011). Hoa Kỳ cho thấy sống theo luật lệ hiến pháp Hoa Kỳ là sống theo luật lệ thiên nhiên của Trời đất. Và các luật lệ ấy phần đông người dân Hoa Kỳ đã được dạy dỗ và đều đã hiểu và sống trên những luật lệ đó. Vì thế, cuộc sống và trật tự xã hội và trật tự mới của thế giới hiện nay không đi ngược lại với luật lệ thiên nhiên, tức không đi ngược lại với Đạo Lý của Trời. Thực ra Thánh Kinh của Cựu Ước và tân Ước cũng chỉ nói đến ĐẠO TRỜI như tại Đông phương mà không ai để ý tới. Chỉ khác nhau là Thánh Kinh đã hoàn chỉnh, còn các dòng đạo học Đông phương vẫn còn thiếu sót cần được bổ khuyết.
Theo Khổng Tử thì ĐẠO của người là ĐẠO TRỜI “ Thiên giả nhân chi Đạo giả” nhất là thường nói đến “Thiên lý tại nhân tâm”, nhưng cả Lão Tử và Khổng Tử không bàn đến Đạo Trời, thay vì sống phải thờ Trời thì Nho giáo bắt con người phải thờ vua. Thay vì xây dựng trật tự xã hội theo TRẬT TỰ THIÊN NHIÊN, thì các xã hội Đông Phương xây dựng trật tự xã hội trên TRẬT TỰ QUÂN-THẦN. Đó là chỗ mất mát thật khủng khiếp của văn minh Trung Hoa, mà không có mấy ai nhận ra sự thật này.
Bởi vì trong cách mạng Dân Chủ Đáy Tầng đưa ra chín mục tiêu, nhưng để đạt đến chín mục tiêu đó, chúng ta phải nhận ra đặc tính lạc hậu của nền văn hóa Đông phương đã đưa đến những hậu quả lịch sử quá tai hại: đó là hệ thống luật pháp rừng rú phản lại luật lệ tự nhiên trong Trời đất và phản lại lương tâm con người. Đặc tính văn hóa lạc hậu này đã kềm hãm và làm suy vong không biết bao nhiêu là tài năng cao quý, tinh hoa của xã hội Đông Phương, và chỉ sản sinh được phần đông tầng lớp Nho quan rất kém cỏi. Từ đó, dẫn đến tình trạng dân trí quá thấp kém, vì không có ai dẫn dắt giúp đỡ người dân.
Vì không ai muốn bàn đến Đạo – mặc dù vẫn tin vào Đạo Trời- nên mối liên hệ mật thiết giữa người và Tạo Hóa – tức bầu năng lực hay Thần Khí trong vũ trụ – đã bị cắt lìa, và vì thế sức mạnh Tinh Thần và Tâm Linh của con người hoàn toàn bị suy liệt. Bên cạnh đó, là mối tương quan liên hệ, hợp tác xã hội giữa người và người, giữa dân và chính quyền cũng không xây dựng được. Nhu cầu khẩn thiết của lịch sử đang đòi hỏi là phải cải cách triệt để và tích cực về tôn giáo, luật pháp, văn hóa, xã hội và giáo dục để đi vào THỜI KỲ PHỤC HƯNG CÁC DÒNG ĐẠO LÝ VÀ VĂN HÓA ĐÔNG PHƯƠNG, để xây dựng nền Dân Chủ Đáy Tầng, trước khi đi vào hiện đại hóa để phát triển – nếu con người muốn có Tự Do cho chính mình và cho Quốc Gia mình, nếu con người muốn giàu sang phú quý cho chính mình và cho Quốc Gia mình, nếu con người muốn hòa bình cho chính mình và cho Quốc Gia mình đúng như Skousen đã nhận xét.
Đó là lý do và mục đích khiến chúng ta đứng ra tranh đấu với chế độ độc tài cộng sản vô thần tại Việt Nam, Hoa Lục, Bắc Hàn và các nước Á Châu – vì những xã hội ấy không có tự do, bất bình đẳng, vô đạo đức, vô luật pháp và bất công. Và cứu cánh tối hậu của cuộc tranh đấu cách mạng này, là thiết lập nên một xã hội có Tự Do, Bình Đẳng, Đạo Đức, Công Lý và Pháp Trị. Chúng ta gọi cuộc cách mạng đó là cuộc cách mạng Dân Chủ Đáy Tầng, vì tất cả mọi giá trị văn hóa, luật pháp, chính trị, xã hội và quyền hành Quốc Gia đều xuất phát từ DÂN.
Muốn bảo vệ được quyền tự do, bình đẳng và quyền làm chủ đất nước cũng như bảo vệ quyền hành và quyền tối thượng của toàn dân thì phải cơ cấu hóa, chính thống hóa và luật pháp hóa tất cả quyền của toàn dân. Khi tất cả quyền hành nằm trong tay của toàn dân thì đó là cấu trúc quyền hành theo hình KIM TỰ THÁP. Cấu trúc quyền hành Quốc Gia theo mô hình Kim Tự Tháp, thì quyền hành Quốc Gia càng ở trên cao thì càng bị thu hẹp lại, trong lúc càng xuống thấp thì quyền hành càng lớn. Đây chính là căn bản của nền Dân Chủ Đáy Tầng. Khi quyền hành của chính quyền ở Trung Ương bị giới hạn (limited government) và khi có những biện pháp để tam quyền phân lập kiểm soát và chế tài lẫn nhau, để giữ thăng bằng quyền lực quốc gia và giảm thiểu được tối đa sự lạm quyền, cũng như chận đứng được những hành động vi phạm Hiến Pháp của các viên chức chính quyền. Bởi vì như Sir Acton đã đưa ra lời cảnh giác: “ Quyền hành tuyệt đối, sẽ dẫn đến sa đọa tuyệt đối”.Đây là thực tế luôn luôn xảy ra tại các chế độ độc tài. Trong lúc đó, tại các quốc gia Tự Do Dân Chủ, tất cả quyền hành thuộc về toàn dân, và chính quyền mọi cấp đều được tổ chức theo nguyên tắc phân quyền, và dân phải có những biện pháp hữu hiệu và hợp hiến để kiểm soát quyền hành của chính quyền- khi dân trao quyền cho các viên chức chính quyền để đại diện cho dân. Có như thế, giá trị Dân Chủ Đáy Tầng mới thực hiện được. Nếu dân thiếu ý thức về Dân Chủ Đáy Tầng, thì dân sẽ trở thành nạn nhân của sự lạm quyền mà không làm sao tránh được. Vì thế, nền Dân Chủ Đáy Tầng mới thể hiện được trọn vẹn tinh thần QUAN NHẤT THỜI, DÂN VẠN ĐẠI theo truyền thống đạo lý Việt tự ngàn xưa.
* Viết để tưởng nhớ đến Quốc nhục, Quốc nạn và Quốc hận ngày 30 tháng 4-1975.
* Viết để nhắc nhở mọi người rằng: chiến tranh Việt Nam giữa phe Tự Do Dân Chủ và Độc Tài Cộng Sản dù đã im tiếng súng, nhưng vẫn chưa thực sự chấm dứt.
* Viết tại Hoa Kỳ ngày 31 tháng 3 năm 2011, Nhóm nghiên cứu Khoa Học Chính Trị cho Dân Chủ Việt Nam và Á Châu: