TỤC XIN XÂM & XIN KEO TẠI LĂNG ÔNG BÀ CHIỂU (Brian Vu)

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

Tục Lệ Tết Miền Nam 

May be an image of 2 people and people standing

No photo description available.

No photo description available.

Xin xâm và xin keo là tục lệ phổ biến rộng rãi ở Miền Nam (1). Tại đình Phú Nhuận, đình Phong Phú, Thủ Đức, v.v., có tục xin xâm trong dịp lễ Kỳ Yên. Tại chùa Mari Yammane (Bà Thâm) ở số 45 đường Trương Công Định, Sài Gòn và chùa núi Bửu Long, Biên Hòa, chúng tôi cũng thấy có tục xin xâm; ở đây còn có một vị sư cụ chuyên bàn xâm. Riêng tại Lăng Ông Bà Chiểu, đã từ rất lâu, tục xin xâm và xin keo rất thịnh hành.
I. Xin Xâm
Xâm ở đây gọi là Tướng Quân Linh Sám (xâm thường) và Tả Tướng Quân Hoàng Tiên Lương Phương (xâm thuốc). Với con mắt tự nhiên, xin xâm chỉ là một trò chơi may rủi, nhưng dưới con mắt tín ngưỡng, xin xâm là thỉnh Thần Ý. Chính vì ý nghĩa thứ hai này mà hằng ngày đã lôi kéo khách thập phương tới lễ bái và xin xâm để thỉnh Thần Ý tại Lăng Ông Bà Chiểu.
A. Xâm Thường và Xâm Thuốc
1. Xâm thường: Gọi là Tướng Quân Linh Sám, gồm có 100 lá xâm, đánh số từ 1 tới 100. Xâm thường cho biết Thần ý về bổn mạng, gia đạo, mưu sự, cưới gả, bịnh tật, cầu tài, cầu quan, xuất hành, kiện cáo và mất cướp.
Xâm thường cũng có thể phân chia theo mức độ tốt xấu khác nhau: Theo bà Lư Thị Muội, thư ký lâu năm của Hội Thượng Công Qúy Tế, thì 100 lá xâm trong Tướng Quân Linh Sám được chia ra 3 loại: Xâm Thượng, màu đỏ, là loại xâm tốt nhất; Xâm Trung, màu cam, là loại tốt trung bình; Xâm Hạ, màu vàng tươi, là loại không tốt.
Trên thực tế, nếu chỉ quan sát theo màu sắc, người ta không biết chuẩn xác trong 100 lá xâm ở đây, có bao nhiêu lá xâm tốt và bao nhiêu lá xâm xấu. Lý do là ngoài 3 màu đỏ, cam, vàng tươi, còn lẫn vào đó những lá xâm màu hồng, màu vàng đậm (2).
Khác với lối phân chia trên đây, thầy bàn xâm Lương Siêu Cư Sĩ cho rằng chỉ những nhà chuyên môn mới có thẩm quyền quyết định về cấp độ tốt xấu của lá xâm. Theo ông, màu sắc của lá xâm không đáng kể, chỉ có Thần Ý ghi trên lá xâm phù hợp cho từng trường hợp mới đáng kể mà thôi. Lương Siêu Cư Sĩ phân chia 100 lá xâm trong Tướng Quân Linh Sám ra như sau:
* Xâm Thượng: 38 lá:
1,2,7,8,9,10,11,19,21,22,24,30,32,40,45,50,54,55,57,58,
60,64,65,66,68,69,74,78,79,80,87,89,92,93,97,98,99,100.
* Xâm Trung: 50 lá:
3,5,12,13,16,18,20,23,26,27,28,29,31,33,34,35,36,37,39,41,42,43,44,46,48,51,52,53,56,
61,62,63,67,71,72,73,75,76,77,81,82,83,84,85,86,88,90,91,94,95.
* Xâm Hạ: 12 lá:
4,6,14,15,17,25,38,47,49,59,70,96.
2. Xâm thuốc: Còn gọi là Tả Tướng Quân Hoàng Tiên Lương Phương, cũng gồm 100 lá, chỉ một màu vàng, không phân biệt tốt xấu, đánh số từ 1 tới 100. Xâm thuốc cho biết Thần ý về mọi thứ bệnh tật.
B. Cách Xin Xâm
Tại Lăng Ông, khách thập phương có thể xin xâm tại Nhà Hương, Trung Điện hoặc Tây Điện. bên cạnh đó vẫn có nhiều khách thiện tín cố lên gần Chánh Điện để xin xâm, chừng như càng tới gần Chánh Điện thì càng gần Thần Linh và càng có nhiều hy vọng được Thần Linh cảm ứng vào lá xâm.
Dọc theo hai bên tường Nhà Hương gắn 50 khoen sắt tròn làm giá đựng 50 ống xâm. Ống xâm màu bạc, dài 0m50. Trong mỗi ống đựng 100 thẻ xâm bằng tre vót mỏng tanh, đánh số từ 1 tới 100. Mỗi thẻ dài 0m20, ngang 0m01, trên đầu cùng đề số thẻ bằng chữ nho, kế bên dưới là số thường, dưới cùng mỗi thẻ là số của ống xâm.
Việc xin xâm có thể chia ra 2 giai đoạn: Xin quẻ thẻ và bàn xâm.
1. Xin quẻ thẻ
Thông thường, trước khi xin quẻ thẻ, khách xin xâm lễ Thần 4 lạy, 3 vái, rồi qùy hoặc ngồi bệt xuống chiếu, hai tay mang cao ống xâm lên mà lắc một cách kính cẩn. Tiếng các thẻ chạm vào thành phía trong của ống xâm kêu lách cách thức.
Khi một quẻ thẻ rớt ra ngoài, khách xá nhẹ mấy xá hoặc lạy tạ Thần 4 lạy và nhớ kỹ số cái thẻ xâm đã rớt ra ngoài ấy, nếu không biết chữ phải nhờ người khác đọc giùm. Trường hợp có từ 2 thẻ trở lên rớt ra ngoài, khách xá nhẹ để xin Thần cho phép khởi đầu lại.
Khi đã được Thần ban cho 1 quẻ thẻ, thông thường khách liên tục xin keo (sẽ nói tới sau) để biết chắc Thần Ý hơn nữa. Nếu xin keo mà được một Âm, một Dương, khách sẽ vui mừng lậy tạ Thần rồi đi xin tờ giấy bàn xâm. thỉnh thoảng có vị khách xin một lúc nhiều quẻ thẻ, một cho mình, còn những thẻ khác là xin giùm cho bà con.
Riêng loại xâm thuốc, người lớn phải xin 3 quẻ thẻ, thiếu niên 2 thẻ, trẻ em một thẻ.
2. Bàn Xâm thường: Sau khi xin được quẻ thẻ, khách đi sang Tây Lang để xin giấy bàn xâm. Trên tường Tây Lang có treo 10 kệ đựng lá xâm, đánh số từ 0 tới 9. Mỗi kệ có 10 hộc đựng lá xâm, xếp thứ tự hàng chục. Trường hợp khách không biết chữ thì tới quầy ở góc phòng xin người phát xâm giúp đỡ.
Riêng về loại xâm thuốc, các lá xâm được xếp thứ tự trong một cái tủ có 100 hộc, kê phía trong quầy. Khách ko được tự tiện tới quét, phải xin người phụ trách lấy cho. không những thế, all các thứ xâm đều phát free.
Để phục vụ bá tánh, Hội Thượng Công Qúy Tế đã phát hành 2 cuốn sách bàn xâm vào năm 1949: một cuốn bằng chữ Việt, một bằng chữ Hán. Thực ra cuốn sách bàn xâm 216 trang này là tổng hợp nguyên văn toàn bộ 100 lá xâm đựng trong các kệ ở Tây Lang. Khách căn cứ vào lời bàn trên lá xâm mà lãnh hội Thần Ý.
Nội dung các lá xâm được trình bầy bằng một hình thức duy nhất như sau: Mỗi lá xâm viết 2 mặt:
• Mặt trước viết: Tướng Quân Linh Sám, số thứ tự quẻ xâm, một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt diễn đạt Thần Ý gồm 3 phần: nguyên văn bằng chữ Hán, phần phiên âm và phần dịch nghĩa.
• Mặt sau: Là lời bàn xâm viết theo thứ tự giống như sau: bổn mạng, gia đạo, mưu sự, cưới hỏi, bệnh tật, cầu tài, cầu quan, xuất hành, kiện cáo, mất trộm.
Toàn bộ những lời bàn có đặc tính chung là vắn tắt, mơ hồ, nặng về phương diện luân lý đạo đức. do vậy, nhiếu người mong muốn biết rõ lá số của mình hơn nên đã thuê các thầy bàn xâm giảng giải thêm cho.
Theo Nhìn, hàng ngày có khoảng 15 thầy bà bàn xâm hành nghề trong khuôn viên Lăng Miếu Đức Thượng Công. phù hợp đó, còn có khoảng 20 thầy bà khác đặt bàn hành nghề bên ngoài bờ tường phía Đông Lăng Miếu. Các vị này phải đóng thuế hoa chi 40$00. Các Thày bà cũng nhận viết sớ khấn, đọc sớ khấn, viết liễn đối, coi tướng, coi bói, coi ngày, cưới hỏi…
3. Bàn xâm thuốc: Xâm thuốc viết bằng chữ Hán trên một mặt giấy, hầu hết người Việt không đọc được, phải nhờ hoặc thuê mướn người đọc giúp.
Lá xâm thuốc nhỏ hơn lá xâm thường, nội dung gồm một bài thuốc, một khuyến cáo về luân lý đạo đức hoặc khuyến cáo về việc tĩnh dưỡng. toàn bộ những vị khách chúng tôi đã hỏi chuyện, đều tỏ ra tin tưởng sâu xa Đức Thượng Công linh hiển sẽ ban cho mỗi ngưòi một bài thuốc đúng bệnh tật của mình.
Tả Tướng Quân Hoàng Tiên Lương Phương gồm 100 lá xâm với 100 bài thuốc, kèm theo những lời khuyên cho bách bệnh ở đủ mọi trạng thái nặng nhẹ khác nhau. Người lớn phải xin 3 lá xâm, thanh thiếu niên 2 lá và con nít 1 lá.
Vì các lá xâm thuốc ko có phần phiên âm và dịch nghĩa do vậy chúng tôi xin viết phần phiên âm của vài lá xâm thuốc dưới đây để làm thí dụ:
Lá xâm 1: Tả Tướng Quân Hoàng Tiên Lương Phương
Đệ nhất phương
Kiền thành cảm công thức não tiên linh
Triêu tịch đa nghi tụng thánh kinh
Thiện sự thường hành Thần ủng hộ
Bất tu phục dược bệnh đương kinh.
Nghĩa là:
Phương thuốc hay của Ngài Tả Quân Lê Văn Duyệt
Liều thuốc thứ nhất
Có lòng thành làm chính lại trí óc là thuốc tiên
Sớm chiều nên tụng kinh
Làm việc lành Thần sẽ ủng hộ
không cần sử dụng thuôc bệnh cũng hết.
Ghi chú: nội dung lá xâm thứ nhất này chỉ là một lời khuyên tu tâm dưỡng tính có tính phương pháp đạo lý.
Lá xâm 21: Tả Tướng Quân Hoàng Tiên Lương Phương
Đệ nhị thập nhất phương
Hà dung đa ưu lự
Dĩ chí thử phương thần
Cốt thống bất kham thậm
Sự việc hữu lai nhân.
***
Du quy nhất tiền
Ly bối nhị tiền
Xuyên khung tiền bán
Tang ký tiền bán
Vân ninh nhị tiền
Bạch thược nhị tiền
Tiên phục.
Nghĩa là:
Phương thuốc hay của Ngài Tả Quân Lê Văn Duyệt
Liều thứ 21
Không cần chi phải lo nghĩ
Đến nỗi hại tới tinh thần
Và đau nhức xương cốt đến khó chịu
Cũng do sự lo nghĩ quá mà ra.
***
Du quy 1 chỉ
Ly bối 2 chỉ
Xuyên khung nửa chỉ
Tang ký nửa chỉ
Vân ninh 2 chỉ
Bạch thược 2 chỉ
Sắc lên mà uống.
Ghi chú: Lá xâm thứ 21 gồm 2 phần: phần đầu là những khuyến cáo tĩnh dưỡng; phần sau là một bài thuốc gồm 6 vị thuốc.
II. Xin Keo
Sau khi xin xâm, nhiều vị khách xin keo để biết chắc Thần Ý hơn nữa! bên cạnh đó có những vị không mong muốn xin keo vì cho rằng như thế tỏ ra còn hồ nghi linh xâm của Thần. Chẳng hạn giống như chính Hội Thượng Công Qúy Tế đã chỉ xin xâm mà không xin keo:
Năm 1953, Hội xin được quẻ xâm số 58 có câu: ‘Cầu đâu được đó, mọi việc đều xứng ý’cho nên Hội đã bỏ lệ cúng vật ‘tam sanh’ (giết heo, bò (có khi là trâu), dê để làm lễ vật cúng tế) trong ngày lễ giỗ Đức Thượng Công (3).
Tới năm 1954, Hội lại xin được quẻ xâm số 95 báo trước ngày quốc gia hòa bình với 2 câu: ‘Hai bên ỷ vậy mà gây chuyện rốt rồi cũng hòa hảo với nhau’. cho nên, Hội đã đắp ‘Đảnh Hoà Bình’ dựng tại khuôn viên Lăng Ông để làm kỉ niệm (4).
Xin keo cũng phải theo thủ tục như xin xâm. trước nhất, đương sự phải qùy hoặc ngồi bệt xuống chiếu xá vài cái, rồi quét 2 miếng gỗ hình bán nguyệt, mỗi miếng có một mặt phẳng và một mặt vòng, mang lên ngang trán, miệng lâm râm cầu khấn.
Khấn xong, người xin keo buông 2 miếng gỗ ra để cho rơi xuống mặt chiếu. Nếu được một mặt bằng và một mặt vòng, tức một Âm (ngửa) một Dương (xấp), có nghĩa là Thần đã công nhận quẻ xâm đương sự đã xin. Được Thần ý xác nhận giống như vậy, đương sự hết sức vui mừng, sẽ qùy hoặc đứng mà lậy tạ 4 lậy.
Nếu mà keo lên cả hai mặt bằng, tức 2 Âm; hoặc lên cả hai hình vòng, tức 2 Dương, nghĩa là Thần chưa xác nhận, cho nên đương sự phải xin keo lần nữa. Trường hợp tới lần thứ hai mà vẫn không được một Âm và một Dương, tức là ý Thần chưa định, phải khởi đầu lại toàn bộ, tức là phải xin xâm lần nữa.
Các gia nhân Lăng Miếu kể rằng, có nhiều người lo âu khổ sở vì không xin được xâm và keo, nên đã phải trở lại nhiều lần, mỗi lần cách thức nhau cả tuần lễ, cho tới khi thỉnh được Thần Ý mới thôi.
Hầu hết các khách tới xin xâm, xin keo hoặc xin bùa, v.v., đều dâng cúng một ít tiền tùy ý và tùy theo khả năng. Tiền dâng cúng bỏ vào các tủ sắt kê hai bên Nhà Hương, Trung Điện và Tây Điện.
Số tiền bá tánh dâng cúng hàng tháng lên tới bảy, tám trăm ngàn; tháng có lễ giỗ Đức Thượng Công là trên 2 triệu (2,059,700$00, năm1971); tháng Tết là khoảng 6 triệu (5,928,295$00, tháng 2/1972). Tổng cộng tiền bá tánh dâng cúng từ tháng 3 năm 1971 tới hết tháng 2 năm 1972 lên tới 16,381,295$00 (mười sáu triệu, ba trăm tám mươi mốt nghìn hai trăm chín mươi lăm đồng (5).
(Trích trong tập Sự Thờ Cúng Đức Thượng Công Tả Quân Lê Văn Duyệt Tại Lăng Ông Bà Chiểu, 1974. Giữ nguyên nội dung nhưng có nhuận sắc-Trần Vinh).
Ghi Chú:
(1) Tục xin xâm ở Miền Nam không khác xa bao nhiêu với tục xin quẻ thẻ tại Miền Bắc. Theo Toan Ánh, ‘Quẻ thẻ là một bài thơ giáng bút trong lúc phụ đồng vị thần linh thờ tại ngôi đền hoặc Miếu có thẻ. Bài thơ giáng bút được chép lại và ghi số, số bài thơ này ghi vào thẻ tre trong ống thẻ’. Toan Ánh. Tín Ngưỡng Viet Nam. Tập Thượng. Nam Chi Tùng Thư. Trang 226.
(2) Trong tập tìm hiểu Một Ngôi Đình Miền Nam (1973), tác giả Nguyễn Long Thao ghi nhận 100 lá xâm tại Đình Phú Nhuận được phân hạng giống như sau: Thượng Thượng Kiết: 1 lá; Thượng Kiết: 13 lá; Đại Kiết: 3 lá; Trung Kiết 9 lá; Thượng Thượng: 8 lá; Bình Bình: 1 lá; Trung Bình: 39 lá; Hạ Hạ: 22 lá; Trung Hạ: 3 lá (Trang 221).
(3) Kỷ Niệm 200 Năm Sanh Nhật Đức Tả Quân do Hội Thượng Công Qúy Tế phổ biến năm 1964. Trang 85.
(4) Kỷ Niệm 200 Năm Sanh Nhật Đức Tả Quân, Sđd..Trang 74.
(5) Phúc Trình Tài Chánh Niên Khoá 1971-1972 trong Đại Hội hằng năm Hội Thượng Công Qúy Tế ngày 16.4.1972.