NHỮNG QUẢ ỔI CUỐI MÙA (Lê Thiệp)

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

May be an image of fruit

Tôi ngẩn người ra nhìn. Trong cái siêu thị Mỹ khang trang sạch sẽ này cũng có bán ổi. Những quả ổi được bọc trong lưới xốp màu trắng trang trọng nằm giữa cam lê nho táo, những loại trái cây phổ thông hàng ngày của dân bản xứ. Cầm trái ổi lên ngắm nghía. Ổi xá lị to cỡ cái bát ăn cơm, da hơi sần sì bóng lưỡng, chắc nịch. Giá $1.95 một pound. Không hiểu người Mỹ ăn ổi có chấm muối ớt không? Có gọt vỏ không? Có khi họ lại cắt bỏ cái phần thịt ruột có hột ở trong cũng nên. Bỗng đâu những trái ổi tự xa thẳm trong ký ức ào về.
* * *
Trong cái làng quê nhỏ bé ở châu thổ sông Hồng, cuộc sống – dù đang chiến tranh Việt Pháp – vẫn trôi đi lững lờ rất thanh bình dưới con mắt tụi tôi. Đối với bọn con nít thì Quốc, Cộng, Điện Biên Phủ, Kháng Chiến là những chuyện thiên hô bát xát, chẳng có nghĩa gì cả. Khi người lớn trong gia đình xầm xì, tụi tôi hiểu là nên lỉnh đi. Và tất nhiên là bắn chim, câu cá, đi mò củ ấu, đi săn cồ cộ. Cồ cộ là tiếng địa phương vùng tôi gọi giống như con ve sầu, nhưng mầu sắc rực rỡ và to hơn nhiều, to cỡ con cà cuống. Nó đậu cao ở những cây cau và tiềng kêu cồ cộ cồ cộ lảnh lót. Muốn bắt cồ cộ thì phải kiếm được nhựa cây bôi vào đầu một cây sào tre dài, lừa lúc cậu ta lảnh lót kêu, chắc là để tìm bạn lứa đôi, dính đầu có nhựa vào cánh lôi cậu ta xuống. Bình thường khi bắt được một chú cồ cộ, chúng tôi rất ác độc, bóp ngang chỗ ức và cồ cộ bị tức thở, kêu vang trời. Giữa trưa hè im, thiếu gió và nóng như thiêu, tiếng cồ cộ vang xa như muốn lay động cái vắng lặng của ngôi làng nhỏ bé.
Những trò chơi của tụi tôi hoàn toàn là trò của lũ trẻ nhà quê và trong cái quê mùa đó có ổi.
Ờ nhỉ, tại sao ổi lại không được liệt vào những thứ trái cây đáng giá, sang trọng, có thể bán, ít ra cũng để biếu xén? Có thể đem tết nhà cụ Bá một nải chuối, chục cam. Có thể đưa dâu bằng cau, có thể lễ đình làng bằng chục hồng trứng, nhưng ổi thì hoàn toàn thuộc quyền của tụi tôi.
Nhà nào có ổi, chúng tôi biết rõ và chủ nhà xem ra cũng không kỹ lưỡng đối với tụi nhỏ lẻn vào hái ổi. Ổi thôi, không được sờ đến na, đến hồng, đến thị, đến nhãn.
A, có ai phân loại ổi chưa nhỉ? Xoài cát, xoài tượng, xoài giòn, xoài voi, chuối tiêu, chuối hoa cau, chuối trứng cuốc, chuối ngự … nhưng đối với quảng đại quần chúng – quần chúng người lớn -thì ổi là ổi và mãi sau này mới có thêm ổi xá lị.
Nhưng cây ổi nhà ông Đội Võ thì khác với cây ổi nhà ông Lý Cựu, khác với cây ổi ở chùa làng. Cây ổi chùa làng quả tròn rất đều, chỉ nhỉnh hơn qủa chanh và khi chín màu vàng tươi, phía trong phần thịt có hột mầu hồng đào. Ổi này vô duyên nhất vì khi chưa chín ăn chua lè, cái vị chua khó thưởng thức đến độ tụi tôi cũng chê. Đến khi chín trông thì đẹp vô cùng nhưng mềm nhũn ăn lạt thếch, vỏ thì dầy mà phần cùi thì rất mỏng, phần thịt ở trong toàn hột vừa to vừa cứng. Ổi ở vườn chùa chỉ được cái thơm, mùi thơm dịu phảng phất. Sư cụ chùa lựa giống ổi này để bầy trên bàn thờ Phật cho vừa đẹp vừa thơm chăng?
Ổi doi là loại ổi nhỏ có cái đuôi nhọn ở cuống giống như trái doi. Doi là tiếng miền Bắc. Mận là tiếng miền Nam (không phải trái mận Đà Lạt). Ổi doi cứ vừa lớn hơn cỡ ngón chân cái là có thể xực được vì thịt mềm và ít hột, nhưng lý tưởng nhất là vừa chín tới. Cắn một phát làm đôi hay tên nào mồm rộng răng khỏe thì chơi cả quả nhai rau ráu.
Ở chỗ lùm cây nơi giếng đầu làng có hẳn một rặng cỡ bốn năm cây ổi, tụi tôi đặt tên là ổi Trâu. Ổi chùa tuy vô duyên nhưng đến lúc chín còn ăn được chứ trái ổi trâu thì không cách gì thưởng thức được. Nó cứng như đá, cùi dầy, xanh thì chát khủng khiếp và thú thật tôi chưa bao giờ thấy một trái ổi trâu nào chín cả. Sao vậy hè? Có thể nó chưa kịp chín đã bị vặt, hoặc nó cứ xanh lè như vậy chăng.
Tôi không nhớ rõ nhưng biết chắc loại ổi này chỉ để ném nhau bươu đầu sứt trán. Cũng may là chỉ có rặng ổi duy nhất ở giếng là ổi trâu.
Ổi lý tưởng là ổi mỡ. Ổi này tròn lớn lắm thì cũng chỉ nhỉnh hơn hột vịt một chút, da nhẵn và bóng lưỡng. Ổi mỡ vỏ mỏng cùi dầy hột nhỏ vừa thơm vừa giòn vừa ngọt. Được cái may là người lớn xem ra cũng biết thưởng thức nên trong vườn của nhiều nhà có ổi thường là ổi mỡ.
Đáng yêu nhất có lẽ là hai cây ổi ở nhà ông Lý Cựu. Tên ông ta không phải là cựu nhưng từng làm Phó Lý nên gọi ông là Lý Cựu, một ông gìa hiền lành có chòm râu lún phún, miệng hơi móm và dáng đi lòng khòng như bất cứ ông Lý nhà quê nào. Vườn nhà ông rộng có cái ao nhỏ và hai cây ổi ở tận góc vườn, hàng rào dâm bụt thưa, nhà neo người nhưng không nuôi chó như nhà ông Đội Võ. Ngay cả khi bắt gặp chúng tôi toòng teng trên ngọn ổi, ông Lý cũng chỉ nắm tay, miệng thì lúng búng dọa giẫm nhưng không bao giờ nặng lời. Mỗi lần bị bắt quả tang, tụi tôi tụt xuống cho nhanh, toét miệng cười chạy mất. Một lần mẹ tôi có hỏi và tôi nghe ông Lý bảo: Có đáng gì quả ổi, nhưng sợ trẻ nó leo trèo, có ngã thì phải tội chết!
Trái ổi có thể khác, nhưng cây ổi nào trông cũng giống nhau. Trước hết là cây ổi không cao lắm như cây sấu, cây muỗm, cây xoài. Thứ nhì là cành ổi rất dẻo dai, có lẽ vì sớ gỗ xoắn lại nên khó gẫy khiến tụi tôi có thể vừa đứng trên cành nhỏ vừa rung rung, cười như nắc nẻ với nhau. Một lợi ích vô song của cành ổi là có thể dùng làm trạc súng cao su. Trạc là tiếng Bắc quê tôi, ná là tiếng Nam. Trẻ lựa một trạc ba có hai nhánh đều, nếu còn nhỏ thì cột hai đầu lại chờ cho lớn hoặc nếu có hơi lệch một chút thì cũng cột giây uốn cho ngay. Trạc bằng gỗ ổi đẹp, nhẵn bóng và rất cứng, dẻo dai lại vừa tầm tay nên rất được ứa chuộng.
A, lại còn cái búp ổi, Vào mùa xuân ổi đâm chồi nẩy lộc và những lúc leo trèo lên cây ổi, buồn tình ngắt một búp bỏ vào miệng nhâm nhi. Búp ổi đắng ngọt cũng đủ giải sầu lúc vô sự không có trò chơi. Tôi xa những trái ổi vào giữa mùa thu năm 1954.
* * *
Khi Việt Minh tiếp thu làng, hội hè liên hoan liên miên. Tụi nhỏ chúng tôi xúm quanh những anh bộ đội tròn xoe mắt nghe kể chuyện anh hùng kháng chiến ôm bom ba càng lao vào xe thiết giáp Tây, chuyện anh hùng lấy thân lấp lỗ châu mai, ôm bộc phá tình nguyện hy sinh để phá rào thép gai quanh đồn giặc. Toàn những chuyện hay ngang ngửa với truyện Tôn Ngộ Không trong Tây Du ký. Tối thì được dậy nhẩy son đố mì, mì mì son son … hay học hát ” Hồ chí Minh xuất hiện trong ánh sao, xuất hiện đi cứu dân khổ đau…” . Đôi khi còn được xem chiếu bóng, phim của Trung Quốc và Liên Xô như phim Bạch Mao Nữ chẳng hạn.
Nhưng chỉ độ một tháng sau, không khí trong làng khác hẳn. Những anh bộ đội đâu mất. Những trò liên hoan thay bằng những buổi học tập bình bầu và bỗng đâu có “đội phát động” xuất hiện được gọi tắt là Đội. Những cán bộ phát động theo chính sách tam cùng- cùng ăn – cùng ở – cùng làm – với dân và họ chọn những người nghèo nhất trong làng để tam cùng. Những khẩu hiệu được viết bằng vôi trắng trên cót nứa giăng khắp làng, to nhất là tấm ở ngay cổng đình: “Tri Phủ Địa Hào, đào tận gốc bốc tận rễ.”
Rất nhanh tôi nhận ra ngay số phận của tôi, bên nội bên ngoại tôi được bình bầu đủ bốn thành phần ác ôn và tôi đúng là phần rễ của bốn thành phần giai cấp này. Tôi còn nhớ như in cảnh bà bác thứ tư của gia đình có bốn người con. Ba ông anh con bác tôi đã trở thành liệt sĩ, hi sinh trong kháng chiến. Ông thứ tư còn lại, ngay sau “ngày hòa bình” ghé về nhà một buổi rồi lặn mất tăm, có thể cũng lại ở trong đội tại một làng quê nào đó. Bác Tư được liệt vào hàng ngũ Địa Chủ Kháng Chiến mà vẫn phải thoái tô. Thoái tô tức là phải nộp trả thuế cho Đảng và nhà nước tính từ năm 1945 đến 1954. Số thuế nông nghiệp phải trả này nếu địa chủ xoay sở nộp xong thì lại bình bầu lại để nộp thêm lần nữa, nộp hoài cho đến khi không còngì để nộp thì tịch thu nhà cửa, đem đi đấu tố … bác Tư tôi treo cổ tự tử chết.
Đó là chuyện người lớn, chuyện Đảng và nhà nước. Chuyện của tôi là tôi bị ra rìa. Bọn nhỏ không chơi với tôi nữa. Tôi không được vào đoàn thiếu nhi quàng khăn đỏ. Tôi không được tối tối cùng tụi nó vừa đi vừa gõ phèng la chửi rủa địa chủ, vác tên tộc của đại gia đình tôi ra mà chửi với những ngôn ngữ tục tằn nhất. Mấy đứa con địa chủ như tôi ngơ ngác sợ sệt và chỉ đành chơi với nhau.
Nhưng rất nhanh Đội phát giác ra tình trạng này và lo sợ tụi chúng tôi tụ tập bè đảng nên tìm cách đập tan mọi mầm mống chống đối từ trứng nước. Tụi tôi cỡ hơn chục đứa đa số là anh em bà con bị đội gọi lên nói ngọt dọa dẫm và bố mẹ địa chủ bị cảnh cáo. Tôi trơ thân cụ, bơ vơ lạc lõng ngay giữa làng và tôi chỉ còn lủi thủi chơi một mình. Đó là những lúc tôi trèo lên cây ổi nhà ông Lý Cựu nhìn những đám lục bình im lắng ở chiếc ao con nuôi cá Mè hay nhìn những tảng mây trắng dật dờ trên trời xanh về hướng núi Ba Vì. Những cây ổi vào giữa thu trông cũng xơ xác như chú bé ngồi dựa gốc không biết cuộc đời mình sẽ ra sao. Và ông Lý Cựu bị liệt vào hàng phú nông cũng vắng bóng trong khu vườn hoang vắng. Sau này ông Lý được đôn lên hàng địa chủ.
Một buổi tối mẹ tôi lôi tôi vào góc buồng bảo nhỏ ngày mai tôi phải dậy sớm để ra Hà Nội với bố tôi. Bà bắt tôi phải đi ngủ ngay, có lẽ sợ tôi lại hoắng lên đem chuyện này nói cho bọn trẻ chăng? Bà đâu có biết tôi đã không còn một đứa bạn nào, kể cả những đứa thân nhất như thằng Hùng, thằng Mai đều tránh xa tôi. Trời còn lờ mờ sáng mẹ tôi đã lôi tôi dậy, đưa cho tôi cái nải nhỏ và dặn “nói với Bố đi Nam ngay, không được về làng” . Người dẫn tôi đi trốn là anh Hiền. Hai anh em tắt qua ngã bờ ao ra phía bờ Mả Vù và lội ruộng lên đường cái quan.
Làng tôi không xa Hà Nội lắm, cỡ 25 cây số. Bố tôi vốn có xe chạy đường Hà Nội – Sơn Tây – Quốc Oai và tôi vẫn đi đi về về Hà Nội luôn, nhưng là ngồi trên xe vận tải.
Lần này, chưa quá 10 tuổi đầu, tôi đã cuốc bộ để đi gặp bố tôi với lời nhắn của mẹ. trời sắp hết thu khá mát. Tôi lẽo đẽo đi cạnh anh Hiền. Thỉnh thoảng anh lại hỏi tôi có mỏi chân không.
Khi ngồi nghỉ chân bên bờ đê sông Hồng, tôi lục chiếc tay nải. Ngoài hai nắm cơm khá to với một ít cá kho tiêu, còn có ba quả ổi. Ăn nắm cơm xong anh Hiền đưa tôi chai nước và sau đó anh em lại cắm cúi bước.
Đồng ruộng tiêu điều. Những khẩu hiệu tương tự như ở đình làng tôi nhan nhản dọc đường, căng ngang căng dọc xen lẫn với hình cụ Hồ râu dài môi đỏ như máu và mắt đăm đăm nhìn như xem đứa nào là phản động để trừng trị.
Tôi cắn vào trái ổi, cắn một cách từ tốn chậm rãi, gặm phần vỏ nhai thật kỹ. Nó hơi đắng chát, cái đắng chát dịu dàng. Tôi ăn đến phần cùi. Giòn, sần sật, nước ngọt ứa ra thấm vào tận chân răng.
Tôi nhai phần ruột có hột. Hột ổi to nhưng không cứng lắm, nhai vỡ ra kẹt vào kẽ răng. Tôi vừa đi vừa hít hà để những hạt ổi long ra.
Cứ thế ba trái ổi giúp tôi đi nhanh hơn và hai anh em đến Phùng lúc nào không biết. Tôi còn nhớ khi đi qua chợ Phùng, anh Hiền chỉ một căn nhà bảo: “Đó là nhà ông Tổng Phùng. Ông Tổng có con đi bộ đội làm thơ hay lắm nhưng ông Tổng đi Nam rồi.”
Lớn lên về sau này tôi mới rõ người bộ đội làm thơ hay lắm là Quang Dũng.
Từ Phùng anh em tôi thuê được xe để ra Kim Mã và sau đó đã gặp bố để nhắn lời của mẹ.
Mãi về sau này khi đã lớn, ngồi ôn chuyện năm xưa, tôi hỏi mẹ lấy đâu ra ba quả ổi vào lúc đó? Mẹ bảo ông Lý Cựu cho hồi chập tối. Ông Lý Cựu nhìn thấy tôi ngồi tiu nghỉu một mình nơi gốc ổi hồi chiều. Đợi tối không có ai, ông lẻn vào nhà đưa cho mẹ tôi ba quả ổi bói còn sót lại lúc cuối thu.
* * *
Tôi lớn lên thành người ở miền Nam. Ổi xá lị miền Nam to, đều, ngon ngọt. Những miếng ổi được ngâm trong nước cam thảo vàng ươm bán ở sân trường. Khi ra chơi, năm cắc nửa trái, sát muối ớtăn đã ơi là đã. Ổi Bắc Mỹ Thuận chục mười hai, có khi mười sáu. Ổi ở chợ BếnThành sắp thành hàng cao đẹp ơi là đẹp. Nhưng có lẽ không có trái ổi nào trong đời tôi ngon hơn ba trái ổi bói cuối mùa của vườn ông Lý Cựu.
Năm 1975 ‘hòa bình lại lập lại” và có những người từ làng quê tôi vào Sài Gòn. Tôi hỏi thăm thì được bảo, ông Lý Cựu bị đôn lên hàng địa chủ, không nhận tội đã bóc lột nông dân nên bị liên đấu ngày đêm.
Ông cắn lưỡi tự tử chết như bác Tư tôi vậy.
Lê Thiệp