VIỆT THỨC PHỎNG VẤN TS NGUYỄN ANH TUẤN
Cuốn phim THE VIETNAM WAR, 10 đoạn,18 tiếng, do hai nhà làm phim Ken Burns và Lynn Novick thực hiện (kinh phí sản xuất do ngân hàng Bank of America tài trợ] vừa được đem trình chiếu kể từ ngày 17 tháng 9 năm 2017 trên Đài Truyền Hình WETA TV 26& PBS, với mục đích hoà giải công luận chính thống Hoa Kỳ về một cuộc chiến nhiều bất bình, ngang trái trong thế kỷ 20, với những hậu cảnh chính trị, kinh tế, xã hội còn ray rứt tới nay.
Có thể nhận xét một cách tổng quát, công trình 10 năm thu thập tài liệu đúc kết thành cuốn phim trên không gì đặc biệt, không khác mấy những tài liệu đã từng chiếu trên màn ảnh nhỏ thập niên 60/70 tại Hoa kỳ làm thối chi các gia đình có con em tham chiến tại Việt Nam lúc đó. Chỉ khác là bộ phim được uốn nắn, với vài phần nhận định cập nhật để làm vui lòng, hoà giải công chúng Hoa Kỳ, đã từng bị chia rẽ bởi cuộc chiến tại Việt Nam.
Quả thật, bộ phim THE VIETNAM WAR này vừa mạo danh cuộc chiến, vừa phiến diện, thiếu sót [biased/incompleted], không đủ tầm vóc giải thích căn nguyên cuộc chiến, xuất xứ từ những tranh chấp ý thức hệ quốc tế giữa Tây Phương/Hoa Kỳ và khối cộng sản Nga Hoa.
Trong dịp này, VIỆT THỨC phỏng vấn Tiến sĩ Nguyễn Anh Tuấn từ Hawaii để đối đáp một số nghi vấn liên quan tới cuộc chiến đó.
VIỆT THỨC: Chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt vào cuối tháng Tư năm 1975, sau khi Sài Gòn thất thủ. Xin TS Nguyễn Anh Tuấn cho biết ai có tư cách và bổn phận nói rõ về hiện tượng lịch sử này?
TS NGUYỄN ANH TUẤN: Chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt 42 năm khi Sài Gòn thất thủ cuối tháng Tư năm 1975; có thể nhiều người trên thế giới đã quên hay không muốn nhớ tới nữa. Riêng đối với những nạn nhân của 20 năm chiến tranh và nạn nhân của cộng sản trong 42 năm hòa bình còn nhiều bất bình thì chưa bao giờ quên được cái chết của Miền Nam Việt Nam. Những con người đau khổ này không thể nào ra khỏi được những nhói buốt trong tim của họ. Cả nước Mỹ và thế giới đã nói và đã viết cả triệu triệu bài viết và cả mấy ngàn cuốn sách, nhưng nạn nhân của cuộc chiến đó vẫn chưa bao giờ có tiếng nói trước dư luận,vì họ là những con người không có tiếng nói rõ ràng, hay chưa có tiếng nói dõng dạc khả kính, nên đành sống trong buồn bã, câm nín và uất hận.
Nhưng có điều chắc chắn, chỉ có người dân Việt tại Miền Nam Việt Nam sau khi trải qua hai “đại thảm họa”, không chỉ 20 năm chiến tranh, mà cả 42 năm hòa bình giả tạo, mới hiểu được thế nào là “tội ác chiến tranh của cộng sản”và tất cả “ảo tưởng điên rồ của cách mạng cộng sản” quốc tế cấy nhập mảnh đất Việt Nam.
VIỆT THỨC: Xin Tiến Sĩ cho biết về căn nguyên đưa tới những tai hoạ lịch sử “cấy nhập mảnh đất Việt Nam”, rồi đưa tới cái chết của Miền Nam Việt Nam và “ảo tưởng cộng sản” suốt 42 năm “hoà bình giả tạo” trong nước.
TS NGUYỄN ANH TUẤN: Trong suốt thế kỷ XX có những biến cố lịch sử chi phối toàn bộ sinh mệnh của tất cả nhân loại, trong đó có Việt Nam và Đông Dương, đó là PHONG TRÀO THỰC DÂN, PHONG TRAO GIẢI THỰC VÀ PHONG TRÀO QUỐC TẾ CỘNG SÃN và CHIẾN TRANH LẠNH. Tìm hiểu và nghiên cứu về ba phong trao lớn lao này, và hiểu được chiến tranh lạnh là những yếu tố quan trọng nhất để hiểu được lịch sử thế giới trước khi muốn hiểu chiến tranh Việt Nam.
Sau đệ II Thế Chiến Phong Trào Giải Thực do Hoa Kỳ chủ xướng đã giải phóng và đem lại độc lập cho 70 quốc gia đang bị thực dân Âu Châu chiếm đóng và thống trị ,và sau đó hướng dẫn các tân quốc xây dựng dân chủ và phát triển đất nước của họ. Đây là giai đoạn khởi đầu cho tiến trình xây dựng trật tự mới của thế giới (The New Order Of The World) bằng một cuộc cách mạng dân chủ trên tầm mức toàn cầu. Nhu cầu của trật tự mới phải bắt nguồn từ trật tự của mỗi quốc gia, trật tự quốc gia được xây dựng trên nền tảng hiến pháp có nội dung của ĐẠO ĐỨC VÀ CÔNG LÝ để tôn trọng tự do và quyền bình đẳng của người dân cũng như tôn trọng những quyền mà Đấng Tạo Hóa đã ban cho con người không thể phủ nhận được như đã minh định trong Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ vào 1776.
Tại Miền Nan Việt Nam từ 1954-1963 Tổng Thống Diệm, ông Nhu và toàn quân toàn dân vừa gánh trên đôi vai một quốc gia đang quằn quại trong lò lửa chiến tranh, vừa làm cuộc cách mạng dân chủ để xây nên nền Đệ I Cộng Hòa Việt Nam và Miền Nam trở thành Hòn Ngọc Viễn Đông. Đây là nền dân chủ đầu tiên của một tân quốc gia ở Á Châu, đem lại an ninh trật tự và đời sống ấm no hạnh phúc cho 14 triệu dân Miền Nam Việt Nam. Lật đổ và giết TT Diệm và ông Nhu đã kéo theo cái chết kinh hoàng cho cả một quốc gia vào ngày 30 tháng 4-1975 và bôi xóa luôn những thành quả vĩ đại của cách mạng dân chủ đã đạt được trong suốt 9 năm mà Tổng Thống Diệm lãnh đạo quốc gia.
Trong lúc đó Liên Bang Sô Viết với Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế đã phản bội hiệp ước Yalta mà họ đã ký kết vào 1945 với phe đồng minh để chiếm đóng và nô lệ hóa Đông Đức, Ba Lan và các nước Đông Âu. Trong lúc theo đúng hiệp ước Yalta thì Nga phải tôn trọng quyền độc lập, tự quyết và toàn vẹn lãnh thổ của Đức, Ba Lan và các nước Đông Âu. Sau đó, tại Á Châu Mao Trạch Đông với Phong Trào Cộng Sản và chiến tranh nhân dân đã chiếm Hoa Lục để nô lệ hóa cả tỉ con người tại Trung Hoa Lục Địa và bành trướng phong trào cộng sản tại Việt Nam, Bắc Hàn và khắp Á Châu cho đến ngày hôm nay.
Cái gọi là “thế giới lưỡng cực” trong Chiến Tranh Lạnh (polarized world) vẫn chưa bao giờ được nhìn là hai dòng thác cách mạng toàn cầu (global revolutionary waves) để phân biệt giữa cách mạng cộng sản của giới vô sản và cách mạng dân chủ do Hoa Kỳ phát động và hướng dẫn các tân quốc gia vừa được độc lập. Một bên là cách mạng phá hoại và một bên là cách mạng xây dựng quốc gia (destructive revolution and constructive revolution). Một bên là đưa lại tự do dân chủ cho người dân, và một bên là xiềng xích nô lệ.
VIỆT THỨC: Xin Tiến Sĩ cho biết tại sao Tổng Thống Kennedy lại coi Miền Nam Việt Nam là “Tiền Đồn của Thế giới Tự Do” và Tổng Thống Johnson lại nói: “Việt Nam là mảnh đất khó khăn nhất trên thế giới”?
TS NGUYỄN ANH TUẤN:
Tại sao chiến tranh Việt Nam lại khó khăn nhất thế giới? Tại sao lại khó hiểu nhất thế giới? Bởi vì nguyên tắc và chiến lược của những kẻ gây ra cuộc chiến này được tính toán, quyết định và hành động cực kỳ xảo quyệt và tinh vi bằng chiến lược đầu tiên là tung hỏa mù [smoke screen strategy] bất cứ lúc nào và tung ra khắp mọi nơi. Chiến lược thứ hai là chiến lược tuyên truyền (propaganda strategy) để cho tất cả những ai chưa biết cộng sản là gì sẵn sàng tin theo “lý tưởng” giả dối của cộng sản mà hỗ trợ tiếp tay cho cộng sản nhuộm đỏ Việt Nam, Á Châu và thế giới. Muốn thành công cộng sản phải tìm mọi cách để bêu xấu (vilify) phe tư bản là Hoa Kỳ và làm cho mọi người tin là Hoa Kỳ là tân đế quốc thực dân (new colonial imperialism) cần phải tiêu diệt thì lý tưởng cộng sản mới thành tựu được tại Việt Nam, Á Châu và trên toàn thế giới.
Bởi vì Việt Nam là tụ điểm và xuất phát điểm cho an ninh chiến lược bành trướng của cả khối quốc tế cộng sản, gồm cả Liên Bang Sô Viết và Hoa Lục nên chính sách ngăn chận làn sóng xâm lăng và bành trướng của cộng sản cũng khởi đầu từ Việt Nam và Đông Dương. Chiến tranh Việt Nam là mảnh đất khó khăn nhất và chiến tranh Việt Nam là chiến tranh khó hiểu nhất,vì tất cả mọi người khi đứng nhìn chiến tranh diễn ra trong làn khói hỏa mù dầy đặc suốt 20 năm nên không mấy ai hiểu được tham vọng bành trướng cực kỳ nguy hiểm của khối cộng sản là gì,và cũng không hiểu rõ tại sao Hoa Kỳ lại đưa ra chính sách ngăn chận cộng sản [Containment Doctrine]. Trong lúc con người chỉ có một lựa chọn rất đơn giản: nếu con người xua đuổi ánh sáng thì bóng tối sẽ ập tới ngay. Con người không bảo vệ được tự do thì họ sẽ sống trong tay của độc tài. Bởi vì những đế quốc và những tên độc tài muốn tước đoạt tự do của con người lúc nào cũng có và có khắp mọi. Trong chiến tranh Việt Nam cũng thế, con người có quyền tự do (free will) để chọn lực – hoặc đứng về phe bành trướng, hoặc đứng về phe ngăn chận làn sóng đỏ đang bành trướng khắp nơi để nhuộm đỏ và xích hóa con người. Một bên là tư do chủ trương tôn trọng quyền sống, quyền tự do, quyền tư hữu, và quyền tìm kiếm hạnh phúc của con người; còn bên kia là chuyên chính vô sản tước đoạt quyền sống,quyền tự do, tước luôn quyền tư hữu và quyền tìm kiếm hạnh phúc của con người. Một bên là quyền năng của bạo lực và một bên là quyền năng của đạo lý, đạo đức và công lý. Con người đứng về phía nào là chính danh của lịch sử, và phe nào là bất chính trước lịch sử?
VIỆT THỨC: Trong thế giới đại học hàn lâm tại Mỹ và Âu Châu, phần đông tấng lớp trí thức thiên tả thiên cộng chỉ viết về cách mạng Pháp và cách mạng cộng sản, nhưng họ cố tình lờ đi cuộc cách mạng Hoa Kỳ. Vậy theo Tiến Sĩ, cuộc cách mạng Hoa Kỳ 1776 có ảnh hưởng gì tới vận mệnh các dân tộc trên thế giới? Và gặp phải những trở ngại gì?
TS NGUYỄN ANH TUẤN: Tôi có thể quả quyết, nếu không có cuộc cách mạng Hoa Kỳ xuất hiện để cứu cả Âu châu và Á châu thoát khỏi nanh vuốt cộng sản thì cả thế giới đã bị nhuộm đỏ và bị xích hóa. Đó là sự thật của lỊch sử.
Cách mạng dân chủ hữu thần theo truyền thống Puritan của Hoa Kỳ là một cuộc cách mạng phi bạo lực để xây dựng quốc gia, với mục đích đem lại tự do, dân chủ với quyền tối thượng (sovereignty) của quốc gia thuộc về toàn dân. Đó là những quyền mà đấng Tạo Hóa đã ban cho con ngươi, những quyền không thể phủ nhận được, như quyền sống, quyền tự do, quyền tư hữu và quyền tìm kiếm hạnh phúc .
Rõ rệt, cách mạng cộng sản tàn phá chính quốc gia cộng sản, căn cứ vào những sự thật hiện đang có trong lịch sử. Trong khi đó, lý thuyết suông từ sách vở từ chương, hệ thống tuyên truyền đồ sộ của cộng sản hoặc báo chí thiên tả thiên cộng thêu dệt, từng đánh lừa dư luận trong Chiến Tranh Việt Nam từ lúc khởi đầu cho đến lúc chiến tranh chấm dứt.
Staline, Mao Trạch đã đưa ra chiêu bài “chiến tranh nhân dân” và “Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc”, không phải để làm cách mạng xây dựng các quốc gia bị áp bức hay chậm tiến, mà để ăn cướp rồi phá hủy toàn diện các quốc gia đó. Vì thế cái gọi là “mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc Miền Nam Việt Nam” là con đẻ của Staline và Mao Trạch Đông. Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Bắc Việt được ủy nhiệm gây ra chiến tranh cướp Miền Nam Việt Nam với hai chiêu bài “chiến tranh nhân dân” và “giải phóng dân tộc”. Chiến tranh Việt Nam là chiến tranh ủy nhiệm (proxy war) của quốc tế cộng sản với những chiếc mặt nạ “tranh đấu dành độc lập” cho Việt Nam để lôi kéo những người yêu nước chưa biết cộng sản là gì, và cũng không biết rõ về phong trào giải thực trên toàn thế giới đang trả lại độc lập cho đất nước của họ, và lại càng không biết được những âm mưu nhuộm đỏ VN, Á Châu và thế giới của phong trào cộng sản quốc tế.
Trong khi đó giới báo chí truyền thông tả phái bất lương (dishonest liberal left) tại Mỹ và Tây Phương lại nhất quyết cho rằng đó là phong trào cộng sản địa phương nổi lên chống chính quyền Ngô Đình Diệm và Miền Nam Việt Nam, bù nhìn của Mỹ, không liên quan gì tới cộng sản Bắc Việt và Quốc Tế Cộng Sản. Chính lối thông tin giả dối, bóp méo này đã giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và giết luôn nền Cộng Hòa Việt Nam vào tháng 4-1975, bởi vì dư luận chung đã tin vào những nhóm truyền thông giả dối bất lương này.
Trong khi đó những nạn nhân khốn khổ điêu linh vì chiến tranh do cộng sản gây ra thì lại không bao giờ có tiếng nói trước dư luận. Khối quốc tế cộng sản cũng đưa ra phong trào hòa bình để chống chiến tranh Việt Nam và kêu gọi hòa bình khắp thế giới để đòi chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam và phong trào hòa bình cũng có tại Miền Nam Việt Nam, cũng chống chiến tranh, cũng kêu gọi hòa bình và đòi Mỹ cút khỏi Việt Nam, nhưng những con bồ câu này không phải bồ câu thật mà đều loài ác điểu đội lốt bồ câu. Trên thực tế không có con bồ câu nào chịu kêu gọi cộng sản Bắc Việt, Bắc Kinh và Moscow chấm dứt chiến tranh xâm lăng Miền Nam mà chỉ muốn quân đội và toàn dân Miền Nam Việt Nam và quân đội Hoa Kỳ phải buông súng để vãn hồi hòa bình.
Giới báo chí truyền thông xuyên tạc một chiều là thứ quyền lực kiêu căng vô lương tâm (arrogant powers without conscience). Họ quay mặt trước sự thật và quay mặt luôn với những nạn nhân của chiến tranh, và lúc nào cũng sẵn sàng chà đạp lên sự thật để đưa ra cho dư luận những điều giả dối để có cớ tấn công rất tàn bạo Tổng Thống Diệm, chính quyền Miền Nam và tấn công luôn chính quyền Hoa Kỳ và bất cứ ai chống cộng sản.
Kết quả là những thông tin về Chiến tranh Việt Nam cho công luận Hoa Kỳ và thế giới Tây Phương tuyệt đối là một con đường một chiều chiều (absolute one way street). Cộng sản Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tuyệt đối cấm tất cả truyền thông báo chí Mỹ và Tây Phương không được bén mảng tới gần những hoạt động cực kỳ tàn bạo, độc ác và vô luân của chúng trong chiến tranh cũng như trong hòa bình.
VIỆT THỨC: Nhưng tại sao chính sách và chiến lược ngăn chặn cộng sản của Hoa Kỳ đã thất bại tại Việt Nam?
TS NGUYỄN ANH TUẤN: Muốn tìm được câu trả lời thì không gì bằng duyệt xét lại toàn bộ Chiến Tranh Việt Nam và nhìn lại cái chết não nề của TT Diệm và Miền Nam Việt Nam như một quốc gia đã hy sinh mạng sống mình cho TIỀN ĐỒN CỦA THẾ GIỚI TỰ DO. Hoa Kỳ đã trả công cho sự hy sinh của Tổng Thống Diệm và quân dân Miền Nam Việt Nam bằng cách lật đổ ông để đưa đến cái chết não nề cho ông và đưa luôn đến cái chết cho nền Đệ I Cộng Hòa Việt Nam.
Nếu không lật đổ TT Diệm thì chiến lược ngăn chặn làn sóng cộng sản tại Á Châu của Hoa Kỳ chắc chắn đã thành công từ 1965. Lật đổ TT Diệm khi ông và Miền Nam Việt Nam đã và đang chiến thắng cộng sản Bắc Việt, Hoa Kỳ đã chuyển thắng thành bại không chỉ cho Miền Nam Việt Nam mà cho cả nước Mỹ. Vì lẽ đó mà TT Johnson nói rằng: “lật đổ TT Diệm là lỗi lầm vĩ đại nhất của Hoa Kỳ trong Chiến Tranh Việt Nam”; vì lỗi lầm này mà Tổng Thống Johnson phải lãnh đủ mọi hậu quả tàn khốc nhất cho ông và cho nước Mỹ của ông, ông đành phải Mỹ hóa (Americanization) chiến tranh để đem vào VN 550.000 quân, chi phí mỗi ba tháng là 2 tỉ dollars, mỗi tuần chết 300 người; cuối cùng quốc gia vĩ đại nhất thế giới này phải hy sinh 58.000 mạng người mà vẫn phải chịu mang tiếng thất trận thật nhục nhã lần đầu tiên trong lịch sử.
Theo Tổng Thống Richard Nixon, chiến lược ngăn chặn cộng sản tại Việt Nam và Á Châu của Hoa Kỳ bị thất bại phần nào vì tác động phá hoại của giới truyền thông và phong trao phản chiến:
“Giới truyền thông báo chí Tây Phương và Hoa Kỳ đã công khai xưng tụng Hồ Chí Minh và cộng sản Bắc Việt, họ nhìn quân đội Hoa Kỳ,nhìn chính quền và các lãnh tụ Miền Nam, nhìn quân đội Miền Nam và người dân Miền Nam bằng những cái nhìn thù nghịch nên đã tìm mọi cách để bóp méo tất cả sự thật và cố tình hướng dẫn dư luận quần chúng Hoa Kỳ tin theo sự dối trá và lừa đảo của giới truyền thông báo chí.
Các phong trào phản chiến đã rớt vào cái bẫy dối trá và lừa đảo thật tinh vi của quốc tế cộng sản,của Hồ Chí Minh và cộng sản Bắc Việt nên trong các cuộc xuống đường chống chiến tranh Việt Nam,họ đã phất cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và tung hô Hồ Chí Minh như một vị anh hùng cách mạng thế giới và là George Wsahington của dân tộc Việt Nam.
Một số trí thức Hoa Kỳ cũng mù quáng tin vào chính nghĩa cộng sản nên tìm mọi cách để hạ nhục các lãnh tụ Hoa Kỳ đã tham dự vào chiến tranh Việt Nam,và hạ nhục luôn quân đội Hoa Kỳ và quân đội Miền Nam Việt nam.”.
Tổng Thống Nixon kết luận:
“Đa số giới truyền thông báo chí và phong trào phản chiến phải chịu trách nhiệm về cái chết của Miền Nam Việt Nam”.
Chính giới báo chí truyền thông tả phái giả dối, bóp méo tại Mỹ và Tây Phương đã giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và giết luôn nền Cộng Hòa Việt Nam vào tháng 4-1975, bởi vì dư luận chung đã tin vào những nhóm truyền thông giả dối bất lương, điển hình như sau:
1- Tất cả người dân Việt Việt Nam đều biết cộng sản Bắc Việt xâm lăng để nhuộm đỏ Miền Nam; chỉ có báo chí truyền thông Hoa và Tây Phương cho đó là “cuộc nội chiến “.
2- Tất cả người dân Việt Nam biết đều Hồ Chí Minh là một người cộng sản, nhưng truyền thông báo chí Hoa Kỳ và Tây Phương lại cho ông ấy là một người quốc gia yêu nước. Tại Miền Nam bất cứ nơi nào có mặt cộng sản là người dân đều bỏ di hay trốn chạy về vùng quốc gia; chỉ có báo chí truyền thông Hoa Kỳ và Tây Phương tưởng cộng sản chiếm được nhân tâm cùa người dân hai miền Nam Bắc.
3- Tất cả người dân Việt Nam đều biệt cụ Diệm suốt đời chống Pháp nên Pháp rất thù ghét cụ Diệm; chỉ có báo chí truyền thông Hoa và Tây Phương tưởng cụ Diệm là bù nhìn của Pháp.
4- Tất cả người dân Việt Nam đều biết Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là do cộng sản Hà Nội dựng lên để phát động chiến tranh du kích khắp Miền Nam; chỉ có báo chí truyền thông Hoa Kỳ và Tây Phương tưởng là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam độc lập với Hà Nội.
5- Tất cả người dân Việt Nam đều biết Việt Cộng độc ác và tàn bạo hơn thú dữ; chỉ có báo chí truyền thông Hoa Kỳ và Tây tưởng là chính sách của Việt Cộng rất nhân đạo.
6- Tất cả người dân Việt Nam đều biết cộng sản Bắc Việt đem quân ẩn núp tại Lào; chỉ có báo chí truyền thông Hoa Kỳ và Tây Phương tưởng là “trung lập” Lào đã ngăn chận được sự bành trướng của chiến tranh.
7- Tất cả người dân Việt đều biết những cuộc biểu tình chống Tổng Thống Diệm bắt nguồn từ chính trị do cộng sản tổ chức để gây hỗn loạn tại Miền Nam; chỉ có báo chi truyền thông Hoa Kỳ và Tây Phương tưởng là vì lý do tôn giáo.
8- Thực tế của lịch sử đang để lại cho thấy Miền Nam Việt và Hoa Kỳ đã thắng oanh liệt về quân sự tại Miền Nam, kể cả Đệ I và Đệ II Cộng Hòa đều thắng oanh liệt (chính Hà Nội cũng thú nhận họ thua Miền Nam vào 1959-1960); chỉ có báo chí truyển thông Hoa Kỳ và Tây Phương tưởng Miền Nam và Hoa Kỳ là thua cộng sản .
9- Hoa Kỳ và Miền Nam Việt Nam đã toàn thắng và cả Hồ Chí Minh và Hà Nội đau đớn tột cùng vì sự thảm bại của họ trong Tết Mâu Thân; chỉ chỉ có báo chí truyền thông Hoa Kỳ và Tây Phương tưởng là Hoa Kỳ thảm bại.
10- Chính các tù nhân Hoa Kỳ sau khi ra khỏi nhà tù cộng sản đều nói họ bị đối xử rất tàn bạo; chỉ có báo chí truyền thông Hoa Kỳ và Tây Phương tưởng là cộng sản Bắc Việt đối xử với các tù nhân Hoa Kỳ rất nhân đạo.
VIỆT THỨC: Như vậy, ngoài giới báo chí truyền thông Hoa Kỳ và phong trào phản chiến, ai phải gánh trách nhiệm trực tiếp về cái chết của đông dương và Miền Nam Việt Nam?
TS NGUYỄN ANH TUẤN: Trong cuốn Real Peace and No More Vietnams, xuất bản tại Hoa Kỳ vào 1985, Tổng Thống Nixon đã đưa ra nhận định của ông về cái chết của Miền Nam Việt Nam như sau:
Sự thất trận của Hoa Kỳ tại Việt Nam là một bi kịch cho những người dân ở Đông Dương. Sự thất bại đó còn đưa đến một bi kịch lớn hơn cho chính nước Mỹ và bao triệu con người trên toàn thế giới. Khi không có sự trợ giúp của HK, họ đã mất những cơ may để được sống trong tự do và một đời sống tốt đẹp hơn.
Sự thất bại của chúng ta đã đưa đến những cơ hội cho các chế đô độc tài xâm lăng và thống trị trên khắp thế giới. Cuộc tháo lui bỏ chạy khỏi chiến tranh Việt Nam để lại hết cơn khủng hoảng này đến những cơn khủng hoảng khác tại Phi Châu,Trung Đông và Nam Mỹ.
Chiến tranh Việt đã kéo dài 20 năm là một cuộc chiến tranh với bản chất vô cùng phức tạp, vì có quá nhiều những âm mưu gian dối và lừa đảo (subplots),với những màn kịch được diễn xuất thật tinh vi của những người cộng sản Bắc Việt để đánh lừa dư luận và làm mất đi bao cơ hội lớn lao.
Tất cả chúng ta phải chia sẻ gánh lấy trách nhiệm để mất Miền Nam Việt Nam. Các vị tư lệnh trong quân đội và những lãnh tụ chính trị chính là những ai đã làm ra những lỗi lầm chiến lược và chiến thuật khi theo đuổi chiến tranh. Những dân biểu nghị sĩ trong Quốc Hội đã từ chối viện trợ cho quân dân Miền Nam Việt Nam trong khi Nga Hoa đã trợ giúp Cộng Sản Bắc Việt. Và tất cả những ai trong phong trào phản chiến đã vô trách nhiệm chỉ trích Hoa Kỳ trong nỗ lực tìm kiếm một nền hòa bình công chính (just peace).
Cuối cùng chiến tranh đã thảm bại và mất Miền Nam Việt Nam không phải trên các mặt trận tại Việt Nam, mà mất Miền Nam Việt Nam vì mặt trận chính trị tại Hoa Kỳ.
VIỆT THỨC: Sau khi đồng minh tháo lui bỏ chạy và Sài Gòn thất thủ vào cuối tháng tư năm 1975, cuộc giải phóng Miền Nam Việt Nam sẽ diễn tiến ra sao?
TS NGUYỄN ANH TUẤN: Cũng như Tổng Thống Nixon từng nhìn nhận:
“Khi Bắc Việt tiến chiếm Miền Nam vào tháng 4-1975 những cuộc khủng bố kinh hoàng tức khắc diễn ra. Hà Nội đã thi hành những cuộc hành quyết để trả thù những người trong chính quyền SG vừa bị thảm bại, trong đó có cả những sĩ quan trong quân đội. Bây giờ xã hội Miền nam không còn tự do chính trị, tôn giáo, kinh tế và báo chí.
Thật vậy, Hà Nội đã áp dụng những biện pháp tàn bạo để trừng trị tất cả những ai mà họ cho là kẻ thù:
1- Hà Nội đã dựng lên các trại tập trung cải tạo, hàng loạt các nhà tù dựng lên khắp Miền Nam. Các lực lượng Miền Nam, quân, cán, chính, thành phần trí thức và bất ai có thể đưa đến sự đối lập đều bị bắt giam;
2- Hà Nội đã gửi những người mà họ nghĩ là sau này vẫn còn trung thành với chế độ cũ đi đến những vùng kinh tế mới. Tất cả đã bị đấy ải trên những vùng rừng sâu nước độc để họ chết lần chết mòn.
3- Vì chế độ tàn bạo và độc ác nên hơn 1 triệu người Miền Nam đã tìm đường vượt biển trên những con thuyền mong manh để tìm tự do và 600.000 người đã bỏ thân trên biển cả….
4- Để nắm vững quyền lực, Hà Nội thấy cần phải tàn phá hủy diệt toàn bộ quốc gia Miền Nam.
5- Hà Nội áp dụng ngay chính sách hộ khẩu để tạo ra những trận đói khủng khiếp cho 25 triệu dân Miền Nam.
Sau hết, chính Đỗ Mười đã công khai nói ra tất cả những đường lối và chính sách của CSBV áp dụng cho 25 triệu dân Miền Nam như sau:
“Sau khi Miền Nam đã được giải phóng, chúng ta có quyền tịch thu tài sản ,trưng thu nhà cửa, hãng xưởng, ruộng đất của chúng nó . Xe của chúng ta lái đi, vợ của chúng nó chúng ta cứ đè ngửa ra mà hãm hiếp, con chúng nó ta bắt đi làm nô lệ cho chúng ta. Còn tất cả những viên chức chính quyền, những sĩ quan trong quân độ Miền Nam chúng ta đầy chúng nó lên vùng kinh tế mới trong rừng sâu nước độc, chắc chắn là chúng nó sẽ chết dần chết mòn trong đau khổ và tủi nhục.”
Thực tế cuộc giải phóng Miền Nam Việt Nam bằng Chiến Tranh Việt Nam là như vậy.
VIỆT THỨC: Cuối cùng, xin Tiến Sĩ cho biết phong trào giải phóng dân tộc của quốc tế cộng sản để lại cho lỊch sử nhân loại những thảm cảnh nào trên toàn thế giơi?
TS NGUYỄN ANH TUẤN: Trong cuốn Black Book of Communism của tập thể tác giả Stephen Courtois, Nicolas Werth, Jean Louis Panne’, Andrzej Paczkowski, Karel Bartosek, và Jean Louis Margolin, xuất bản 2001 cho biết họ đã để ra 7 năm để thu thập tài liệu về Liên Bang Sô Viết và các nước Đông Âu cũng như tại Hoa Lục, Phi Châu và Nam Mỹ để phân loại và phân tích những tội ác của công sản.
Muốn biết cách mạng cộng sản là gì thì giống như nhìn vào một cây ăn trái, vào hoa trái của nó để mà phê bình phán xét. Đơn giản là, nhìn quả biết cây.
Và với những tiêu chuẩn đó các tác giả đã đem ra áp dụng để truy xét về những việc mà người cộng sản đã làm tại Hoa Lục có Mao (the great helmsman), tại Bắc Hàn có Kim II Jung, tại Việt Nam có “uncle Ho”, Cuba có Fidel Castro, Ethiopia có Mengistu, Angola có Neto, tại Afghanistan có Najiballah và Cambodia có Pol Pot. Đây là những tên tội đồ của nhân loại. Theo các tác giả nhận thấy thế kỷ XX là một thế kỷ đẩm máu nhất, xuất phát từ cách mạng cộng sản, với những cái chết của hơn một trăm triệu người vô tội trên toàn thế giơi.
Phong trào cộng sản xuất hiện nhân danh cách mạng cộng sản để tạo ra bao bi kịch hãi hùng khiếp đảm khắp nơi. Phong trào cộng sản bắt đầu khởi đi từ Sarjevo vào 1914 và chấm dứt tại Nga vào 1991 – đó là trung tâm cách mạng cộng sản. Sự phân biệt giữa chủ nghĩa cộng sản và thực chất rất cần thiết và quan trọng. Các tác giả cho biết ở đây chúng ta không xét về mặt triết lý và chủ thuyết mà xét trên thực tế của lịch sử.
Cách mạng cộng sản đã vượt qua tội ác cá nhân, mà là tội ác của những chế độ cộng sản, trong lúc nắm quyền lực và củng cố quyền lực đã phạm hàng loạt tội ác tập thể (mass crime) do hệ thống chính quyền cộng sản gây ra. Đặc biệt trong các cuộc xâm lăng và chiếm đóng các nước Đông Âu của Liên Bang Sô Viết và của Mao Trạch Đông tại Trung Hoa Lục Địa, đều gây ra sự hãi kinh hoàng, và các chế độ này đã thành lập nên hệ thống chính quyền để đàn áp con người hàng ngày, nắm giữ và kiểm soát tất cả phương tiện truyền thông, kiểm soát các vùng biên giới,và trục xuất những người bất đồng chính kiến.
Tập thể tác giả nhận thấy, những tội ác của cộng sản vẫn chưa được đánh giá lại trên quan điểm của lịch sử và đạo đức. Vì thế, cuốn Black Book of Communism đã chú tâm tới những khía cạnh tội ác được áp dụng trên những khu vực chính yếu, và trong bối cảnh toàn cầu…tất cả tội ác được xét đoán không phải trên những tiêu chuẩn luật pháp công sản mà trên tiêu chuẩn luật thiên nhiên của nhân loại.
Cách mạng cộng sản đã phạm những tội ác đa dạng, không chỉ chống lại cá nhân con người, mà còn chống lại văn minh của thế giới,và chống lại các nền văn hóa của các dân tộc. Staline đã phá tan các nhà thờ tại Moscow, Causescu đã phá trung tâm lịch sử của Bucharest, Pol Pot đã phá sập nhà thờ chính tòa tại Phnom Penh và chiếm đền thờ Angkor Wat. Trong cách mạng văn hóa Mao đã tàn phá tất cả những gia sản vô giá của Trung Hoa bằng những bàn tay đẫm máu của hồng quân. Những phá hoại này nằm trong tầm mức quốc gia và cả nhân loại như một tổng thể, với những vụ sát nhân tập thể hàng loạt, đàn ông, đàn bà và trẻ em.
Tập thể tác giả Black Book nhận thấy đây là những tội ác vô giới hạn để gieo tai vạ cho những thường dân như là mấu chốt của các cuộc khủng bố, bao gồm các cuộc hành quyết bằng nhiều phương tiện khác nhau, như ám sát, treo cổ, trấn nước cho chết, đánh đập, gây ra những tai nạn, giết người bằng những độc dược, hủy diệt con người bằng cách gây ta những trận đói khủng khiếp, tống xuất đến những vùng xa xôi, để cho con người suy liệt, đau ốm đói khát, cóng lạnh. Tội ác cộng sản gây ra cho nhân loại được ước tính như sau:
Liên Bang Sô Viết, 20 triệu người vô tội bị giết;
Trung Hoa Lục địa, 65 triệu người vô tội bị giết;
Việt Nam, hơn 1 triệu người vô tội bị giết trong những cuộc đấu tố Cải Cách Ruộng Đất [1949-57];
Bắc Hàn 2 triệu người vô tội bị giết;
Đông Âu 1 triệu người vô tội bị giết;
Châu Mỹ La Tinh 150.000 người vô tội bị giết;
Afghanistan 1.5 triệu người vô tội bị giết.
VIỆT THỨC: Xin cảm ơn Tiến Sĩ Nguyễn Anh Tuấn đã cho chúng ta đã thấy rõ tác động của những trung tâm quyền lực liên can tới chiến tranh Việt Nam, trong khi hàng ngũ cộng sản Việt Nam và quốc tế dồn bạo lực, dối trá và lừa đảo để tiến chiếm Miền Nam Việt Nam. Cộng sản Việt Nam mới thực sự là “ngụy quân ngụy quyền”, khi họ đô hộ và tự duy bằng ảo tưởng và tội ác.
Ngày nay người ta cần thấy Dân Quân Miền Nam Việt Nam mới là những anh hùng của dân tộc Việt Nam, của Đông Nam Á và của thế giới tự do, bởi vì họ đã xả thân tranh đấu để ngăn chận làn sóng đỏ để cứu Á Châu và Bảo vệ Tiền Đồn của Thế giới Tự Do.
____________