NGƯỜI LÍNH DÙ VNCH BỊ LÃNG QUÊN (Đại Tướng Barry McCaffrey)-(Hoàng Long chuyển ngữ)

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

Cựu Đại Tướng Barry McCaffrey

Trong khi cuốn “The Vietnam War” của Ken Burns chuẩn bị chiếu trên đài truyền hình PBS, thì cựu Tướng 4 sao của Hoa Kỳ – Barry McCaffrey viết một bài đăng trên tờ New York Time với đề tài: “The Forgotten South Vietnamese Airborne (Người lính Nhảy Dù Nam Việt Nam bị bỏ quên)” – Bài viết khá trung thực với những chiến sĩ Mũ Đỏ VNCH tung hoành trên 4 vùng chiến thuật. Qua bài viết này, dù không trực tiếp chỉ trích bộ phim “The Vietnam War” nhưng đã nói lên rằng “the Vietnam War” là thiếu khách quan và trung thực.  Ngụ ý cho rằng “Tôi – Đại Tướng Hoa Kỳ đã một thời chiến đấu với tư cách cố vấn trong binh chủng Nhảy Dù VNCH, họ can đảm và anh dũng như thế nào”.

VÀI NÉT VỀ TƯỚNG 4 SAO BARRY McCAFFREY:

Barry McCaffrey sinh ngày 17 tháng 11 năm 1942 là cựu Đại Tướng Quân Đội Hoa Kỳ và nhà bình luận và tham vấn kinh doanh. Ông đã được chính phủ Hoa Kỳ trao tặng ba huy chương Purple Heart vì bị thương trong suốt thời gian phục vụ tại Việt Nam, hai Huy Chương Bạc Anh Dũng Bội Tinh, và hai Distinguished Service Crosses – huy hiệu ban thưởng quân đội Hoa Kỳ thứ nhì cho những chiến binh dũng cảm. Ông được bổ nhiệm vào Phòng Tham Mưu Quân đội Hoa Kỳ tại Trung tâm Bộ binh Hoa Kỳ tại Fort Benning năm 2007. Ông đã là giáo sư của Học viện Quân sự West Point, Hoa Kỳ và Giáo sư Nghiên cứu An ninh Quốc tế của Bradley từ năm 2001 đến năm 2008. Ông Tốt nghiệp Học viện Quân West Point. Ông đã từng chiến đấu và chỉ huy trên các chiến trường Việt Nam, Trung Đông, chỉ huy cấp Tiểu đoàn, Trung Đoàn, Sư Đoàn và Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ ở phía Nam châu Mỹ (United States Southern Command). Ông Chỉ huy chiến dịch chống ma tuý của Hoa Kỳ  (Director of Office of National Drug Control Policy) dưới thời TT Bill Clinton. Ông về hưu vào cuối nhiệm kỳ của TT Clinton. Hiện là chuyên gia phân tích quân sự của đài TV NBC và MSNBC cũng như chủ tịch của công ty tư vấn BR McCaffrey Associates. Ông phục vụ trong nhiều ban giám đốc của các công ty. Ông là người bênh vực thẳng thắn về sự sòng phẳng bảo hiểm, tòa án về tội phạm ma túy và các tòa án cựu chiến binh và là diễn giả thường xuyên tại các hội nghị. Dưới đây là chuyển ngữ bài viết của cựu Đại Tướng  Barry McCaffrey: “The Forgotten South Vietnamese Airborne” đang trên tờ New York Time –
Bản tiếng Anh: https://www.nytimes.com/2017/08/08/opinion/south-vietnam-airborne.html

“The Forgotten South Vietnamese Airborne”
NGƯỜI LÍNH DÙ NAM VIỆT NAM BỊ BỎ QUÊN

Tôi [Barry McCaffrey] đến Việt Nam vào Tháng Bảy, 1966, và năm sau sẽ bổ nhiệm làm việc với Sư Ðoàn Nhảy Dù [Việt Nam Cộng Hoà]. Ðó là năm cuối cùng chúng tôi nghĩ sẽ chiến thắng. Ðó là năm cuối cùng mà chúng tôi có thể định nghĩa chiến thắng sẽ là thế. Đó là một năm lạc quan, sức mạnh quân đội Hoa Kỳ gia tăng mạnh mẽ, đồng thời danh sách lính Mỹ tổn thất cũng gia tăng.

Lính Dù trên đường ra trận

Đến cuối năm 1967, có 486,000 binh sĩ Hoa Kỳ tham chiến tại chiến trường Nam Việt Nam. Số quân nhân tử trận của quân đội Hoa Kỳ năm đó tăng gấp đôi so với năm 1966. Trong toàn bộ tiến trình đó, sự hy sinh dũng cảm và quyết tâm của quân đội miền Nam Việt Nam đã làm biến mất phần lớn sự thiếu hiểu biết của những chính trị gia và giới truyền thông ở Hoa Kỳ.

Sư Ðoàn Nhảy Dù mà tôi tham gia với tư cách là một phụ tá cố vấn cấp tiểu đoàn, là một đơn vị chiến đấu tinh nhuệ. Vào năm 1967 những người lính này trong đồng phục ngụy trang của binh chủng nhảy dù với những chiếc mũ bê rê màu đỏ đặc biệt, sư đoàn có quân số đến 13,000 người, tất cả đều là lính tình nguyện. Những người trong chúng tôi hân hạnh được phục vụ bên cạnh họ, rất thán phục sự can đảm và chiến thuật tấn công của họ. Các sĩ quan cao cấp và hạ sĩ quan Nhảy Dù có đầy bản lãnh và dày dạn kinh nghiệm chiến trường, đừng quên rằng khi người Mỹ mới đến Việt Nam thì nhiều chiến binh trong Sư Đoàn Nhảy Dù đã chiến đấu trên chiến trường từ năm 1951.

Là cố vấn, chúng tôi chủ yếu hoạt động như các viên chức liên lạc ở cấp tiểu đoàn và lữ đoàn. Chúng tôi trải qua một năm chuẩn bị ở tiểu bang California, bao gồm 16 tiếng đồng hồ hằng ngày huấn luyện văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam  tại Học Viện Ngôn Ngữ Quốc Phòng. Rồi học tiếng Việt đàm thoại trôi chảy, tôi được đào tạo chiến thuật chống du kích tại căn cứ Fort Bragg, North Carolina, và cách sử dụng vũ khí thời Thế Chiến 2 mà quân đội Việt Nam vẫn còn sử dụng.

Chúng tôi còn làm nhiều việc hơn nữa như yểm trợ pháo binh và không quân, sắp xếp các chuyến bốc người bằng trực thăng và tải thương cũng như cung cấp tình báo và hỗ trợ tiếp vận. Chúng tôi [cố vấn Mỹ] không ra lệnh, và không cần làm điều đó. Các đồng nhiệm người Việt Nam là những người mà chúng tôi rất ngưỡng mộ, và họ rất vui khi có chúng tôi – và hỏa lực của Mỹ – bên cạnh họ. Chúng tôi cùng ăn chung với họ,  và nói tiếng Việt với các binh sĩ VNCH, tôi hoàn toàn tin tưởng vào người Việt Nam. Nhóm của tôi thường có một người lính nhảy dù bảo vệ và cũng một người điều khiển máy vô tuyến.

Thông thường, một toán cố vấn cấp tiểu đoàn như tôi, gồm có ba quân nhân Hoa Kỳ: một đại úy, một trung úy và một hạ sĩ quan, thường là trung sĩ. Các trung sĩ là chủ yếu. Trong khi các sĩ quan cố vấn thường luân chuyển đơn vị, thì trung sĩ ở lại với đơn vị miền Nam được chỉ định, cho đến khi kết thúc chiến tranh – hoặc cho đến khi họ tử trận, hoặc bị thương loại ra khỏi vòng chiến.

Việc tham gia vào chiến tranh Việt Nam của tôi là một kinh nghiệm đẫm máu. Chúng tôi bày binh bố trận bằng các tàu

Lính Nhảy Dù chuẩn bị lên máy bay ra chiến trường

của Hải Quân và trực thăng quân đội trong vùng đầm lầy phía nam Sài Gòn. Ðây là cuộc chiến không có vinh quang, chiến đấu và chết đuối trong mương rãnh nước mặn. Không có một cuộc mạo hiểm nào như vậy mà tôi đã cảm nhận trong trường Biệt Động Quân. Một đại úy, cố vấn cao cấp của tôi, chuyên nghiệp và đầy khả năng, bị tử trận. Khi trở về căn cứ, tôi giúp mang thi thể của ông ra khỏi trực thăng. Đó chỉ là bước khởi đầu.

Hành quân với lính nhảy dù được bốn tháng, chúng tôi tham gia một trận đánh lớn, đẫm máu, hỗ trợ các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ phía Bắc Ðông Hà, gần bờ biển phía Bắc của Nam Việt Nam. Hai tiểu đoàn [nhảy dù VN] của chúng tôi được trực thăng vận vào Khu Phi Quân Sự để chận đứng một lực lượng Bắc Việt đông đảo, đang tiến về phía Nam. Trận chiến mãnh liệt và đẫm máu kéo dài ba ngày. Cố vấn cấp trên của tôi bị tử thương. Trung Sĩ Nhất Rudy Ortiz [trong đoàn cố vấn], vô cùng can đảm, bị trúng đạn từ đầu đến chân. Anh yêu cầu tôi nạp đạn vào khẩu M-16 để lên ngực anh, để anh có thể “chiến đấu đến chết” với những người cố vấn còn lại (may mắn thay, anh sống sót).

Chúng tôi có hàng trăm thương vong và đơn vị gần bị Cộng quân tràn ngập. Nhưng những người lính Nhảy Dù VNCH đã ngoan cường, can đảm bám chặt mục tiêu chiến đấu. Vào thời điểm quan trọng, với sự hỗ trợ của không quân và hỏa lực hải quân, chúng tôi đã phản công. Sĩ quan tiểu đoàn trưởng người Việt Nam của tôi đứng thẳng lưng, băng qua những lằn đạn súng liên thanh của Cộng quân, để chạy tới vị trí tôi trú ẩn. Ông nói với tôi “Trung úy giờ chết đến rồi”. Tôi cảm thấy ớn lạnh nhớ những lời anh nói”.

Ngoài chiến trận, người chiến sĩ miền Nam Việt Nam không bỏ những đồng đội chết hoặc bị thương và vũ khí ngoài chiến trường. Trong một trận chiến khác, anh Tommy Kerns, bạn đồng môn ở trường West Point của tôi, một cầu thủ football lục quân to con, bị thương nặng và bị kẹt trong một rãnh hẹp khi tiểu đoàn Nhảy Dù VNCH của anh cố gắng phá vỡ một lực lượng cộng quân Bắc Việt. Những người lính Nhảy Dù VNCH cùng anh, nhỏ con hơn Tommy, không thể khiêng anh ra khỏi cái rãnh. Thay vì rút lui và để anh lại, họ cố gắng giữ truyền thống binh chủng và chiến thắng được Cộng quân cứu được người bị thương với thân thể nặng nề cao lớn.  Tommy Kerns sống sót nhờ sự dũng cảm của họ”.

Người lính Nhảy Dù luôn luôn sẵn sàng lên đường bất cứ ở đâu và lúc nào

Các cố vấn Hoa Kỳ và hầu hết Sư Ðoàn Nhảy Dù đóng quân tại Sài Gòn và quanh vòng đai thủ đô. Chúng tôi thích tính năng động và niềm vui của thành phố. Chúng tôi cũng thích văn hóa, ngôn ngữ và người Việt Nam, và rất tự hào sát cánh với sư đoàn Mũ Đỏ.

Chúng tôi chắc chắn rằng cả thế giới ghen tị với công việc của chúng tôi – chúng tôi làm việc với giới tinh hoa của đất nước. Với phụ cấp tác chiến và nhảy dù, chúng tôi có vẻ như có cả tấn tiền. Chúng tôi sống trong khu có máy điều hòa không khí. Chúng tôi còn trẻ, ham hố và tích cực. Các đại tá và các trung tá Mỹ điều hành các cố vấn là những người lớn tuổi hơn, ổn định và được tôi luyện chiến trường, họ nhận thấy đây là một cuộc chiến khó khăn hơn nhiều so với Đệ II Thế Chiến và và chiến tranh Triều Tiên.

Đời sống của một cố vấn trong Sư Ðoàn Nhảy Dù Việt Nam là không thể lường trước được. Trách nhiệm của sư đoàn Nhảy Dù VNCH là phục vụ như là đơn vị tổng trừ bị, được đưa đi chiến đấu bất cứ khi nào các cấp chỉ huy cần đó là một lợi thế. Một tiểu đoàn Nhảy Dù Việt Nam hoặc một lữ đoàn đầy đủ được điều động trong tình trạng khẩn cấp vào nửa đêm. Chúng tôi được nhét vào ngồi trong máy bay vận tải của Không Quân Hoa Kỳ và Việt Nam, những chiếc máy bay trực sẵn, tiếng động cơ rống lên, xếp hàng dài tại phi trường Tân Sơn Nhứt, gần Sài Gòn. Lãnh quân trang, đạn dược, đôi khi cả dù, và hối hả chuẩn bị ra chiến trường,”

Và rồi – trong nhốn nháo, các tiểu đoàn nhảy dù được đưa đến bất cứ nơi nào cần họ. Chúng tôi có thể đi đến bất cứ nơi nào trên toàn cõi miền Nam Việt Nam đều thấy chúng tôi ở giữa một chiến trường máu lửa. Nhiều cố vấn Hoa Kỳ và hàng trăm lính Nhảy Dù Việt Nam mà tôi phục vụ, đã không trở lại sau các cuộc hành quân này. Cho đến bây giờ, tôi vẫn có thể nhìn thấy những khuôn mặt trẻ của họ. Ðại Úy Gary Brux, Ðại Úy Bill Deuel, Trung Úy Chuck Hemmingway. Trung Sĩ Carl Arvin, Nhân viên vô tuyến rất trẻ của tôi, Hạ Sĩ Michael Randall. Họ đều chết. Can đảm. Tự hào.

Việt Nam không phải là chiến trường tôi đến lần đầu tiên. Sau khi tốt nghiệp trường đại học quân sự West Point, tôi phục vụ trong sư đoàn 82 Nhảy Dù Hoa Kỳ được đưa tới Cộng Hoà Dominican năm 1965. Chúng tôi đã mở ra trận chiến trên đảo để phá vỡ một cuộc nổi dậy do Cộng Sản Cuba gây nên, và chúng tôi đóng quân ở đó như một lực lượng gìn giữ hoà bình của Hoa Kỳ. Chúng tôi nghĩ rằng đó là chiến tranh, và chúng tôi trở về trại Fort Bragg, chúng tôi mong muốn sẽ đến Việt Nam – một số trung uý trong tiểu đoàn của tôi nhảy lên xe và lái đến bộ chỉ huy Lục Quân Hoa Kỳ tại Washington DC tình nguyện ra chiến trường. Chúng tôi nghĩ rằng sẽ bỏ lỡ cơ hội tham gia chiến tranh [Việt Nam].

Bây giờ thì chúng ta đã biết đoạn kết câu chuyện. Hai triệu người Việt Nam có thể đã chết. Hoa Kỳ mất đi 58,000 quân nhân và khoảng 303,000 người khác bị thương. Nước Mỹ lâm vào một cuộc nội bộ cay đắng và giằng co chính trị. Lúc đó chúng tôi không biết gì về cuộc chiến Việt Nam. Tôi rất tự hào đã được chọn để phục vụ trong Sư Ðoàn Nhảy Dù Việt Nam. Người vợ mới và xinh đẹp của tôi, người mà tôi yêu quý, biết tôi phải ra đi. Cha tôi, một tướng lãnh Lục Quân, sẽ hãnh diện vì tôi nếu tôi hy sinh.

Lữ đoàn I nhảy dù chiến đấu đến phút cuối cùng cuộc chiến Việt Nam

Tất cả điều này đã hơn 50 năm trước đây. Những người lính Sư Đoàn Nhảy Dù VNCH sống sót sau sự sụp đổ của Nam Việt Nam đã trốn thoát qua đường Campuchia, hoặc trải qua hàng thập kỷ ở trại tù cải tạo “tàn bạo” của Cộng sản Việt Nam. Phần đông trong số họ đã đến Hoa Kỳ. Chúng tôi có một hiệp hội của các cố vấn Mỹ và các chiến hữu Việt Nam, và có một đài tưởng niệm tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington. Chúng tôi tụ tập ở đó mỗi năm và nhớ lại một thời chúng tôi chiến đấu với nhau. Chúng tôi đội chiếc mũ beret màu đỏ binh chủng nhảy dù. Chúng tôi vui cười với những mẫu chuyện cũ, nhưng có một nỗi buồn sâu sắc là chúng tôi đã hy sinh rất nhiều, và kết quả chẳng được gì hết.

Người ta thường hỏi tôi về những bài học của chiến tranh Việt Nam. Những người trong chúng tôi đã chiến đấu với Sư Ðoàn Nhảy Dù Việt Nam không phải là những người đặt câu hỏi. Tất cả những gì chúng tôi nhớ và biết, là hiện thân của sự can đảm và quyết tâm của các người lính Nhảy Dù Việt Nam xông pha ngoài trận tuyến. Họ không có tượng đài ngoại trừ trong những ký ức của chúng ta.” 

Hoàng Long chuyển ngữ