LƯU TRỌNG KIỆT: CỌP RẰN MIỀN TÂY VỚI KHUÔN MẶT THƯ SINH ( (Sài Gòn trong tôi/ Nguyễn Phúc An Sơn – theo BĐQ Quân Sử)

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

Ngũ Hổ Miền Tây

Image may contain: 1 person

Cố Trung Tá Lưu Trọng Kiệt

Image may contain: 1 person, on stage, playing a musical instrument and outdoor

Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân, tháng 6/ 1966

Image may contain: 1 person, outdoor

Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân được tuyên dương công trạng trước Quân Đội năm 1964.

Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt là một trong Ngũ Hổ Miền Tây.
Lưu Trọng Kiệt quê quán ở Cần Thơ. Cha ông mở tiệm hớt tóc lấy tên là Nghệ Sĩ để sinh sống. Ông Kiệt có dáng người thư sinh trắng trẻo nhưng lại ham mê võ thuật từ thủa nhỏ. Thời còn học tại trường trung học Phan Thanh Giản, ông đã là Nhu đạo đệ tam đẳng huyền đai và mở trường dạy về môn võ Judo đầu tiên ở Cần Thơ.
Năm 1959, miền Nam Việt Nam vẫn còn thanh bình, dân chúng sống an cư lạc nghiệp. Thời gian này, người trai trẻ họ Lưu vẫn có thể ung dung học xong trung học, lên đại học… Nhưng Lưu Trọng Kiệt đã chọn cho mình con đường binh nghiệp. Học xong trung học, ông tình nguyện gia nhập Quân Đội VNCH, thụ huấn Khóa 7 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức.
Sau khi tốt nghiệp, ông được đưa về phục vụ tại Đại Đội 21 Trinh Sát của Sư Đoàn 21 Bộ Binh VNCH, một trong những sư đoàn Bộ Binh nổi tiếng của Vùng IV Chiến thuật.
Để lấy tin tức tình báo và thi hành những cuộc hành quân lục soát, dọ thám và đột kích, sư đoàn có một đơn vị rất ưu tú, đó là Đại Đội 21 Trinh Sát với những sĩ quan chỉ huy và binh sĩ nhiều kinh nghiệm chiến trường.
Đụng những trận đầu tiên, Chuẩn Úy Kiệt đã chứng tỏ khả năng của mình. Trong một cuộc hành quân ở Trà Vinh, ông được vinh thăng thiếu úy, nhưng cũng bị thương ở chân, phài đưa về bệnh viện điều trị và dưỡng thương.
Tư Lệnh Sư Đoàn 21 BB lúc đó là Tướng Trần Thiện Khiêm, đã biết tới khả năng muốn đưa ông về làm tùy viên, nhưng ông xin được ở lại với Thám Báo.
Sau khi rời bệnh viện, ông được đưa vào toán huấn luyện của sư đoàn, đi huấn luyện cho cho Địa Phương Quân của Biệt khu Hải Yến, Cà Mau. Biệt khu này do Đại Tá Tuyên Úy Công Giáo Phan Lạc Hóa (tên Trung Hoa đổi qua tên Việt Nam) của Tướng Tưởng Giới Thạch.
Sau trận chiến với Mao Trạch Đông năm 1949, quân của Tưởng Giới Thạch bị thua, di tản đi khắp nơi, ông Tuyên Úy đem quân lính và dân tới Cà Mau và được chính quyền Việt Nam cho sinh sống tại đây và trao cho họ nhiệm vụ bảo vệ dân và tiêu diệt bọn cộng phỉ nằm vùng.
Lành vết thương, Thiếu Úy Kiệt trở lại với Đại Đội Thám Báo của Sư Đoàn 21 Bộ Binh VNCH.
Với khả năng thiên phú về quân sự, nhạy bén, lanh lẹ và can đảm, chỉ trong vòng 3 tháng, ông Kiệt đã từ thiếu úy vinh thăng lên trung úy. Năm tháng sau, ông lại được đặc cách đại úy.
Khi đi hành quân thì như vũ bão, nhưng mỗi khi trở về hậu cứ, Thiếu Tá Kiệt hiền khô như một bạch diện thư sinh. Ông ít khi uống rượu, thương lính, lo săn sóc cho những người lính bị thương, lo cho đời sống vợ con lính trong trại gia binh. Chưa bao giờ thấy ông nổi giận với lính, nhất là không bao giờ gọi lính của mình là thằng.
Một lần hành quân về, ông và một người bạn lái xe ra bến Ninh Kiều uống… sinh tố. Bất chợt có một quân nhân mặc quân phục Biệt Động Quân bước vào quán, cử chỉ kiêu căng, hống hách, nói chuyện ba hoa, tự khoe mình là lính Tiểu Đoàn 42 BĐQ.
Thiếu Tá Kiệt nhìn mãi không ra người lính này thuộc đại đội nào, trung đội nào. Ông cho người trung sĩ tài xế ra hỏi người quân nhân đó, xem anh ta thuộc đơn vị nào.
Té ra anh ta là lính Địa Phương Quân, thấy mọi người nể trọng lính Cọp Ba Đầu Rằn nên mới giả dạng mặc đồ bông hù bà con. Thay vì đưa người lính này về Quân Cảnh, Thiếu Tá Kiệt chỉ cảnh cáo anh ta và bắt cởi áo ra mà thôi. Giống như vị tiểu đoàn trưởng của mình, những người lính Tiểu Đoàn 42 BĐQ được dân chúng thương mến là vì họ không phá làng phá xóm mỗi khi hành quân trở về.
Khi đi hành quân, tiểu đoàn thuờng chia làm hai cánh: Một cánh do Tỉểu Đoàn Phó Hồ Ngọc Cẩn điều khỉển, cánh kia do chính Tiểu Đoàn Trưởng Lưu Trọng Kiệt chỉ huy. Hai cánh quân thường đổ bộ cùng một lúc, ở hai địa điểm khác nhau, rồi cùng lặng lẽ tiến tới mục tiêu. Khi tấn công, cả hai cánh quân đồng loạt xung phong hoặc là một cánh xung phong, cánh kia phục kích ở nơi bọn Việt cộng tan hàng chạy ra thì quét sạch bọn chúng.
Do cách thức hành quân thần tốc, gan dạ, mà Tiểu Đoàn 42 BĐQ đã trở thành hung thần của lũ khủng bố cộng phỉ.
Do Tiểu Đoàn 42 BĐQ đội nón sắt có vẽ hình con cọp đen trên nền ngôi sao trắng, chung quanh vẽ rằn ri mầu Nâu, Đen, Xanh lá mạ, nên bọn cộng phỉ đã kiêng nể mà đặt tên cho tiểu đoàn này là: “Cọp Ba Đầu Rằn”
Hễ đụng trận, hễ thấy bên lính Việt Nam Cộng Hòa thấp thoáng có nón sắt “Cọp Ba Đầu Rằn” là bọn cộng phỉ kinh hãi hoảng sợ và lo cuống cuồng bỏ chạy, làm cho Tiểu Đoàn 42 BĐQ không có địch mà đánh.
Do đó, vào khoảng đầu năm 1967, Chuẩn Tướng Đặng Văn Quang, Tư Lệnh Quân Đoàn IV, Quân Khu 4, đã ra lệnh: “Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân phải sơn lại nón sắt trở lại bình thường như các đơn vị Bộ Binh khác”.
Trận chiến cuối cùng
Ngày 8 tháng 7, năm 1967, Tiểu Đoàn 42 BĐQ tham dự chiến dịch Dân Chí 179 do Sư Đoàn 21 Bộ Binh điều động, với nhiệm vụ hành quân càn quét, tiêu diệt địch. Tiểu Đoàn 42 BĐQ đã đụng độ dữ dội với Trung Đoàn D2 với Tiểu Đoàn chủ lực cơ động Tây Đô của bọn cộng phỉ trên bờ kinh Thác Lác thuộc tỉnh Chương Thiện.
Trận chiến vẫn còn đang chưa ngã ngũ thì nghe trên máy báo cáo là Thiếu Tá Kiệt bị thương ở đầu, cần phải tải thương gấp. Chiến trường đang sôi động, làm sao vị chỉ huy có thể rời bỏ đơn vị cho được? Nhưng máu đã ra quá nhiều, không thể trì hoãn được nữa.
Trung Úy Tiểu Đoàn Phó Hồ Ngọc Cẩn khẩn khoản yêu cầu trực thăng tải thương ngay, nhưng Thiếu Tá Kiệt nhất quyết tấn công xong mới chịu tải thương. Khoảng nửa tiếng sau, Trung Úy Cẩn nghẹn ngào báo tin Thiếu Tá Kiệt đã tử trận. Rất nhiều binh sĩ, hạ sĩ quan và sĩ quan đã khóc nức nở bên xác Thiếu Tá Kiệt.
Thiếu Tá Kiệt đã tử trận ngày 8 tháng 7 năm 1967 lúc 14 giờ 15, tại bờ kinh Thác Lác, tỉnh Chương Thiện. Ông được truy thăng Cố Trung Tá.
Cố Trung Tá Lưu Trọng Kiệt đã giã từ Quân Đội, giã từ Binh Chủng BĐQ quá mau, quá đột ngột và quá trẻ. Chỉ từ năm 1960 cho tới năm 1967, ông đã từ một Chuẩn Úy, đặc cách vinh thăng luôn luôn tại mặt trận, tới cấp bực Thiếu Tá, và rồi Cố Trung Tá, ở lứa tuổi 30.
Cố Trung Tá Lưu Trọng Kiệt đã anh dũng hy sinh, để lại muôn ngàn tiếc thương cho các đồng đội, cho toàn thể Quân Dân Cán Chính của Việt Nam Cộng Hòa. (Sài Gòn trong tôi/ Nguyễn Phúc An Sơn – theo BĐQ Quân Sử)
Nguồn: Fb Brian vũ