LẠC QUAN – TIN TƯỞNG – HY VỌNG (Gs Lưu Trung Khảo)

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

Lập quốc từ gần 500 năm giữa hai khối văn minh bá chủ Á-châu là Trung Hoa và Ấn Độ mà quốc gia Việt Nam vẫn giữ vững được nền độc lập, tất nhiên, Việt Nam phải có một bảo vật thiêng liêng truyền quốc từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này qua thế hệ kia. Bảo vật truyền quốc đó chính là truyền thống bất khuất của ông cha ta.

Từ Đinh, Lê, Lý Trần xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên hùng cứ một phương
Dẫu cường nhược có lúc khác nhau

Song hào kiệt đời nào cũng có

              ( BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO )
Bản thiên cổ hùng văn, Bình Ngô Đại Cáo của Quan nội hầu Nguyễn Trãi đã xác định điều đó. Truyền thống bất khuất đó đã giúp Việt Nam anh dũng đứng lên khởi nghĩa đuổi quân Trung Quốc về Tàu, chấm dứt một thời kỳ Bắc thuộc kéo dài cả 10 thế kỷ.
 
Không một quốc gia và dân tộc nào trên thế giới bị đô hộ cả 1000 năm mà không bị đồng hóa và xoá tên trên bản đồ thế giới. Riêng Việt Nam là một ngoại lệ. Dân tộc chúng ta vẫn giữ được Đất Nước, vẫn giữ được nền văn hóa riêng, ngôn ngữ riêng, phong tục tập quán riêng. Suốt trong 11 thế kỷ tiếp theo, Việt Nam vẫn tiếp tục bị Trung Quốc mang quân sang xâm lăng khi có dịp. Lý Thường Kiệt phải dẫn quân sang tận Khâm Châu, Liêm Châu, Ung Châu để phá hủy tiềm năng quân sự của giặc, đồng thời để đại phá quân nhà Tống trên sông Như Nguyệt.

 

Lý Thường Kiệt phải dẫn quân sang tận Khâm Châu, Liêm Châu, Ung Châu để phá hủy tiềm năng quân sự của giặc, đồng thời để đại phá quân nhà Tống trên sông Như Nguyệt. Trần Hưng Đạo ba lần phá tan quân Nguyên Mông trên sông Bạch Đằng. Lê Lợi phải mất 10 năm kháng chiến gian khổ, mới đuổi được quân Minh về bên kia biên giới. Đại Đế Quang Trung với tài dụng binh thần tốc chỉ trong vòng 10 ngày đã đại phá được quân Mãn Thanh.
 
Phía Bắc đã vậy, phía Nam cũng phải chống chọi lại với quân Chiêm Thành, Chân Lạp và Xiêm La. Phía Tây cũng phải lo bình định Lão qua. Đến thế kỷ XIX, người Pháp đã mang tàu đồng súng thép tấn công và cai trị Việt Nam gần một thế kỷ. Cuối cùng thì đến năm 1955, tên lính Pháp viễn chinh cuối cùng cũng phải rời bỏ Việt Nam trở về chính quốc.
 
Dân tộc Việt Nam quả thực là một dân tộc anh hùng, đã tạo được truyền thống chống ngoại xâm sáng chói. Nhưng Việt Nam chưa có truyền thống chống nội xâm, bởi nạn nội xâm chỉ mới xuất hiện cuối thế kỷ XX.  Nội xâm là những thế lực từ bản địa, dựa vào thế lực và chủ thuyết ngoại lai để đàn áp những phần tử dân tộc yêu nước, giữ độc quyền toàn trị và khai thác đất đai tài nguyên cũng như nhân lực của dân chúng.
 
Chính những người cầm quyền cai trị Việt Nam bây giờ là giặc nội xâm của dân tộc. Dưới quyền cai trị của đảng cộng sản Việt Nam hiện nay, Đất Nước đang bị Trung cộng xâm lăng mà không mất một viên đạn, không nổ một tiếng súng, không tốn một giọt máu. Sách Địa Lý dạy: “Nước Việt Nam trải dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau“. Bây giờ, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, muốn đi thăm ải Nam Quan phải xin giấy thông hành sang bên Trung Quốc. Mất đất đai, rừng núi ở biên giới, mất luôn
cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và cả biển Đông Hải.
 
Rồi rừng núi đầu nguồn sang nhượng 50 năm trên 10 tỉnh, với tổng số diện tích trên 300,000 hecta với giá sang nhượng một mét vuông một năm, không đủ để mua một cọng rau muống! Những Nguyễn minh Triết, Nông đức Mạnh, Nguyễn tấn Dũng, Trương vĩnh Trọng chỉ là những tên thái thú thừa sai của Trung cộng, đúng như nhận xét của Khối 8406: Trung Quốc đã Pol Pot hóa, Khmer Đỏ hóa Việt Nam, giống như Cambodia từ 1975 đến 1979!
Cả nước đang đứng bên bờ vực thẳm của thời kỳ Bắc thuộc mới. Đã đến lúc toàn dân phải tỉnh ngộ đứng lên chống giặc nội xâm. Diệt được giặc nội xâm, giặc ngoại xâm không có nội ứng, trước sau cũng phải tan rã.


Những nhân sĩ trí thức Việt Nam đã anh dũng đứng lên hiên ngang trong tinh thần vô úy, nhận lãnh trách nhiệm cảnh báo quốc dân biết đâu là chính, đâu là tà, đâu là chính nghĩa đâu là tà ngụy, đâu là đúng, đâu là sai, để lựa chọn cho đúng và hành động cho đúng.

 
Vào đầu thế kỷ XX, nhà chí sĩ Tây Hồ Phan Châu Trinh đã đưa ra khẩu hiệu: khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, để hô hào toàn dân áp dụng, chống lại chính quyền cai trị của thực dân Pháp. Đó là phương pháp tranh đấu khôn ngoan, xác định đường lối cứu nước lâu dài và không tổn nguyên khí của quốc dân. Vì như cụ đã nói: “Không nên trông người ngoài, trông người ngoài là ngu. Không nên bạo động, bạo động chắc chết”.Chấn hưng dân khí chính là vực dậy cái chính khí của dân tộc, làm cho thăng hoa và kết tụ cụ thể: 
                            Một vùng chính khí lưu hình,
                            Gồm trong trời đất nhật tinh sơn hà
                            Hạo nhiên ở tại lòng ta
                            Tấc riêng son sắt hiện ra khi cùng

                                                    Chính Khí Việt của Lý Đông A

 

Cái chính khí đó đã hun đúc nên những bậc anh thư liệt nữ “muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá tràng kình ở biển Đông“, những bậc anh hùng hào kiệt “thà làm quỷ nước Nam hơn vua đất Bắc”,  “Đầu tôi chưa rơi, xin Bệ Hạ đừng lo”, “Nếu Bệ Hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu thần trước đã“!
alt
1. Lạc quan.
Lạc quan vì thấy truyền thống bất khuất của Tổ Tiên vẫn là một dòng chảy miên viễn liên tục, trong huyết quản của con dân Việt Nam. Lạc quan vì những nhân sĩ trí thức, những sĩ phu Việt Nam vẫn giữ được hào khí của cha ông, xứng đáng là những bậc trượng phu “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Giàu sang không làm cho đam mê, nghèo hèn không thể thay đổi, và uy quyền vũ lực không thể khuất phục. 
2. Tin tưởng.
Tôi luôn luôn tin tưởng rằng Trời Đất bao giờ cũng ở cùng người hiền. Người lương thiện bao giờ cũng song hành với Trời Đất. Thiên nhân tương dữ. Tôi tin ở chính nghĩa tất thắng của dân tộc. Tôi tin tưởng ở sự tiến bộ của nhân loại, bao giờ cũng từ chỗ dã man sang văn minh, từ độc tài sang dân chủ, từ độc ác sang thánh thiện. Tôi tin tưởng ở hiền thì gặp lành, ở ác gặp dữ. Tôi tin tưởng rằng: tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác.


3. Hy vọng.

Với những thông tin điện toán toàn cầu hiện đại, với thế liên lập quốc tế, với sự hỗ trợ của thế giới dân chủ tự do, với sự cố gắng của chính tự thân, dân tộc Việt Nam sẽ đứng lên giành lại quyền làm chủ Đất Nước. Một tương lai xán lạn đang chờ đón tất cả con dân Việt Nam để cùng với các quốc gia trên thế giới song hành.
Xin chân thành cám ơn quý vị
Giáo sư Lưu Trung Khảo
(Bài trích phần lịch sử Việt Nam)
Hải ngoại ngày 4 tháng 4, 2010