Ngày 19/01/1974, một cuộc hải chiến nổ ra giữa Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Trung Quốc, nhưng hầu như lại không được giới truyền thông quốc tế khi đó xem là một điều gì quá to tát. Cuộc chiến Việt Nam vẫn tiếp diễn và đang trong cao trào, và đó mới là mối quan tâm hàng đầu của thế giới tại Đông Nam Á.
Tuy nhiên, chính kết quả của cuộc hải chiến này lại ảnh hưởng rất lớn đến vai trò của Trung Quốc trên biển Đông ngày nay.
Trận chiến Hoàng Sa – Cuộc chuẩn bị nhiều năm và mưu kế hèn hạ của Trung Quốc
Một tài liệu nghiên cứu của Giáo Sư Toshi Yoshihara thuộc Đại Học Hải Quân trực chiến (United States Naval War College) có thể giúp chúng ta tìm hiểu sâu hơn về các chi tiết của trận chiến ở quần đảo Hoàng Sa.
Giáo Sư Yoshihara cho rằng đây là một trong những cuộc hải chiến – tuy ít được giới nghiên cứu và học giả nhắc đến – nhưng lại vô cùng quan trọng trong lịch sử thế giới cận đại.
Theo ông Yoshihara, trận hải chiến Hoàng Sa chính thức mở đầu công cuộc mở rộng lãnh thổ trên Biển Đông của Trung Quốc, và cũng là ngòi nổ cho các cuộc xung đột tại vùng biển này từ đó cho đến nay.
Mà Trung Quốc, đặc biệt là dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông (Mao Zedong), đã chuẩn bị cho trận chiến này bằng một kế hoạch dài hơi, cũng như chờ đợi một thời cơ thích hợp nhất để tấn công VNCH vào tháng 1/1974.
Trong suốt thập niên 1960, Trung Quốc và VNCH đều giữ cho mình ở thế cầm chừng tại Biển Đông. Cả hai chỉ xây dựng cơ sở một cách khiêm tốn, và thỉnh thoảng mới tuần tra vùng hải phận xung quanh các vùng đảo mà mình kiểm soát.
Một trong những lý do giúp giữ thế trung dung ở Biển Đông trong giai đoạn đó được cho là bởi vì Hải Quân Hoa Kỳ hiện diện trong khu vực. Người Mỹ đã khiến cho Trung Quốc phải cân nhắc việc ra tay giành giật các đảo thuộc quyền kiểm soát của VNCH.
Đến thập niên 1970, những hứa hẹn về khai thác dầu khí gần bờ đã từ từ thổi lên ngọn lửa tranh chấp ở Biển Đông.
Giữa năm 1973, chính quyền VNCH bắt đầu cho phép các công ty nước ngoài tiến hành thăm dò dầu khí gần nhóm các đảo Crescent.
Cùng năm đó, Bắc Kinh (Beijing) cũng bắt đầu lên tiếng về việc chủ quyền đối với tài nguyên thuộc các hải phận ở những đảo mà họ chiếm đóng. Trung Quốc cũng bắt đầu tiến hành khai thác dầu khí ở đảo Woody vào tháng 12/1973.
Tất cả các yếu tố địa chính trị, kinh tế, và chủ quyền đột nhiên đều tập trung cùng lúc, và chúng được xem là đã khiến cho tranh chấp Biển Đông chính thức bùng nổ trong thập niên 1970.
Bắt đầu từ mùa hè năm 1973, Trung Quốc đã bắt đầu một loạt các hành động mang tính khiêu khích đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Tháng 8/1973, VNCH đã quản lý sáu đảo thuộc quần đảo Trường Sa – Spratlys Islands, và một tháng sau, chính quyền VNCH chính thức tuyên bố chủ quyền đối với 10 hòn đảo thuộc Trường Sa.
Tháng 10/1973, hai tàu đánh cá của Trung Quốc – số 402 và 407 – tiến đến gần nhóm đảo Crescent của quần đảo Hoàng Sa, và thực hiện hoạt động đánh bắt bất hợp pháp tại đó. Thuyền viên của hai đoàn tàu này đã cắm cờ Trung Quốc lên các hòn đảo vốn đang thuộc chủ quyền hợp pháp của VNCH, cũng như tiến hành thiết lập một đội hậu cần tại đó – nơi mà hơn một thập niên trước, Quân Đội VNCH đã đánh đuổi họ ra khỏi.
Tháng 11/1973, Hải Quân VNCH truy đuổi hai tàu đánh cá Trung Quốc 402 và 407 ra khỏi vùng đảo Crescent, bắt giữ một số thủy thủ của họ, và giải họ về Đà Nẵng. (Sài Gòn trong tôi/ Posted by Nguyễn Phúc An Sơn s/t/ NET)
Ngày 10/1/1974, hai đoàn tàu này trở lại Crescent và bắt đầu xây dựng một nhà máy chế biến hải sản tại đây. Một ngày sau đó, chính quyền Trung Quốc ngang ngược đưa ra tuyên bố chủ quyền đối với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, và Macclesfield (Trung Sa – 中沙 – trong tiếng Hán).
Từ ngày 14-17/1/1974, Hải Quân VNCH đã điều động lực lượng đến quần đảo Hoàng Sa để giữ các đảo thuộc quyền kiểm soát của mình qua việc và xua đuổi các tàu đánh cá của Trung Quốc ra khỏi đó.
Ngày 16/1/1974, hải quân Trung Quốc cũng điều động hai tàu chiến trực tiếp hướng về phía quần đảo này.
Do đã có những âm mưu hèn hạ từ trước, nên các tàu chiến của quân xâm lược Trung Quốc đều nhận được lệnh, không nổ súng trước. Mà ngược lại, bọn chúng sử dụng hai tàu đánh cá nói trên để khiêu khích Hải Quân VNCH. Hai tàu đánh cá 402 và 407, theo ký lục của hải quân Trung Quốc ghi lại, vốn trực thuộc quyền điều khiển của họ giả dạng làm tàu đánh cá, chứ hoàn toàn không phải là các tàu đánh cá của ngư dân thường.
Hải chiến Hoàng Sa chính thức nổ ra vào rạng sáng ngày 19/1/1974. Chi tiết sống động về cuộc chiến đã được Bill Hayton miêu tả qua gần 10 trang trong sách của ông The South China Sea: The Struggle for Power in Asia (trang 70-78).
Đến cuối cùng, Trung Quốc đã đánh chìm một tàu quét mìn, gây thiệt hại nặng nề cho ba tàu chiến của Hải Quân VNCH, làm thương vong nhiều Sĩ Quan và Chiến Sĩ Hải Quân VNCH, bắt giữ 48 người và chiếm cứ ba hòn đảo thuộc nhóm Crescent.
VNCH phản công bất thành vì Hiệp Định Paris 1973 đã chấm dứt nguồn viện trợ và sự trợ giúp của Quân Đội Hoa Kỳ
Chính Phủ VNCH ngay lập tức đã phản ứng với việc Trung Quốc dùng vũ lực xâm lược và đánh chiếm thô bạo các đảo ở quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền hợp pháp của VNCH trong gần hai thập kỷ. Hải Quân VNCH khi đó đã chuẩn bị mang hai tàu khu trực và sáu tàu chiến từ Đà Nẵng để đánh ngược ra Hoàng Sa.
Các lực lượng Bộ Binh và Không Quân VNCH cũng được lệnh chuẩn bị chiến đấu. Cùng lúc đó, Chính Phủ VNCH yêu cầu lực lượng Hải Quân Hoa Kỳ từ chiến hạm U.S. Seventh Fleet trợ giúp, nhưng Hoa Kỳ – dù vẫn là đồng minh của VNCH khi đó – đáng buồn thay, lại từ chối.
Tuy vậy, Trung Quốc không hề coi nhẹ lực lượng VNCH và đã chuẩn bị cho việc bị phản công. Đích thân Mao Trạch Đông đã ra lệnh cho ba tàu khu trục nhỏ xuất phát từ Guangzhou (Quảng Châu) đi qua eo biển Đài Loan (Taiwan Strait), để tiến về yểm trợ cho lực lượng chiếm đóng Hoàng Sa.
Đây vốn là một quyết định khá liều lĩnh của Mao, vì mối quan hệ giữa chính quyền KMT (Quốc Dân Đảng) và cộng sản Trung Quốc lúc đó vẫn rất căng thẳng. (Sài Gòn trong tôi/ Posted by Nguyễn Phúc An Sơn s/t/ NET)
Nhưng đến cuối cùng, có lẽ đảng cầm quyền KMT tại Đài Loan cho rằng, việc người Trung Hoa (ở bất kỳ đâu) làm chủ toàn bộ quần đảo Hoàng Sa cũng vẫn là điều có lợi nhất đối với họ, nên họ đã âm thầm cho phép các tàu chiến của Trung Quốc đi qua vùng lãnh hải một cách bình yên.
Và đúng như Mao đã đánh cược, “tinh thần đoàn kết của người Trung Hoa” đã chiến thắng mối thù Quốc – Cộng giữa Trung Quốc và Đài Loan. Đoàn tàu chiến của Mao đã an toàn đến được Hoàng Sa.
Trong khi đó, sau khi Hiệp Định Paris 1973 đã được hai miền Nam Bắc Việt Nam và Hoa Kỳ ký kết gần một năm trước, đồng minh Hoa Kỳ đã rút quân ra khỏi Việt Nam, cũng như cắt giảm viện trợ cho VNCH.
Thế nên, khi đối diện với tàn cuộc của cuộc chiến Hoàng Sa, chính quyền VNCH chỉ có thể tự dựa vào sức mình. Mà chỉ với sức họ, vốn không đủ quân lực cũng như vũ khí và đạn dược để đánh ngược trở ra Hoàng Sa khi mà tại đất liền, cuộc chiến Việt Nam vẫn đang tiếp diễn khốc liệt bởi cộng sản bắc việt vẫn tiếp tục xâm lăng Miền Nam Việt Nam một cách trắng trợn và thô bạo.
Trung Quốc đã tính toán rất kỹ nước cờ này, Giáo Sư Yoshihara nhận định, vì họ nắm gần như là chắc chắn người Mỹ sẽ không tham gia vào tranh chấp ở Biển Đông khi đó.
Mà ngay cả khi Mỹ có ý bảo vệ VNCH đi nữa, thì Trung Quốc cũng đã chuẩn bị cho một nước cờ kế tiếp. Theo Đô Đốc Kong Zhaonian, một trong những người trực tiếp tham chiến ở Hoàng Sa, thì sở dĩ bọn giặc cướp xâm lược Trung Quốc đã quỷ quyệt chờ cho phía VNCH có phản ứng với các tàu đánh cá trước, là để dùng trong trường hợp bị phản công. Nếu Mỹ nhảy vào, thì bọn giặc cướp Trung Quốc sẽ tuyên bố với quốc tế là phía VNCH đã gây hấn trước.
Hiệp Định Paris 1973 là “hiệp định chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam”.
Đó là những gì được viết trên giấy, còn trong thực tế, cộng sản bắc việt đã vô liêm sỉ không hề tôn trọng bản Hiệp Định Paris mà chính bọn chúng đã đặt bút ký tên, vẫn tiếp tục ngang nhiên vi phạm Hiệp Định Paris xua quân xâm lăng ăn cướp Miền Nam Việt Nam cho đến ngày 30/4/1975. (Sài Gòn trong tôi/ Posted by Nguyễn Phúc An Sơn s/t/ NET)
Bỏ qua việc phe nào là phe đã phá vỡ điều lệ ngừng chiến của Hiệp định 1973, câu hỏi được đặt ra với vấn đề chủ quyền ở Hoàng Sa là, người Việt Nam ở mọi miền đã có những động thái gì để bảo vệ chủ quyền đối với quần đảo này ngay sau ngày 19/1/1974?
Bỏ mặc những tuyên bố về sự toàn vẹn lãnh thổ, và cũng không bàn đến những cáo buộc liên quan đến chủ quyền lãnh hải được bàn bạc giữa Trung Quốc và bọn lính đánh thuê đàn em là cộng sản bắc việt (VNDCCH) trong thập niên 1950-1960, chúng ta chỉ nhìn vào những gì mà các bên đã ký kết trong Hiệp Định 1973.
Điều 1 của Hiệp Định Paris đã ghi rõ: “Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp Định Geneva năm 1954 về Việt Nam đã công nhận”.
Hành vi của Trung Quốc xâm lược và cưỡng chiếm Hoàng Sa ngày 19/1/1974 rõ ràng là việc làm đi trái với Điều 1 của Hiệp Định Paris 1973. Quyền kiểm soát một nửa quần đảo Hoàng Sa của miền Nam Việt Nam vốn được quốc tế công nhận theo Hiệp Định Geneva kể từ năm 1956.
Còn Điều 15 của Hiệp Định Paris 1973 thì quy định:
“Miền Bắc và miền Nam Việt Nam sẽ không tham gia bất cứ liên minh quân sự nào hoặc khối quân sự nào và không cho phép nước ngoài có căn cứ quân sự, quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự trên đất mình, như Hiệp Định Geneva năm 1954 về Việt Nam quy định.”
Do đó, cũng không thể lấy lý do là Trung Quốc là đồng minh của cộng sản VN (VNDCCH) trong cuộc chiến 1954-1975 để lý giải cho sự xâm lược và chiếm đóng của hải quân nước này ở Hoàng Sa.
Đối diện với việc cưỡng chiếm Hoàng Sa của Trung Quốc, chúng ta chỉ ghi nhận được sự im lặng của cộng sản VN (VNDCCH) vào thời điểm đó. Liệu sự im lặng này có được xem là việc ngầm công nhận chủ quyền của Trung Quốc từ phía cộng sản miền Bắc, đối với toàn bộ quần đảo Hoàng Sa hay không?
Trái ngược lại, chính quyền VNCH dù không giành lại được Hoàng Sa, nhưng ngày 20/1/1974, họ đã khiếu nại chính thức đến Hội Đồng Bảo An LHQ để tố cáo hành vi xâm lược trắng trợn của bọn giặc xâm lược Trung Quốc.
Cho đến nay, không hề có một tuyên bố chính thức hoặc một văn bản có hiệu lực pháp lý nào được công bố với công chúng Việt Nam và quốc tế, để lý giải cho thái độ hèn hạ của bọn cộng sản VN, trước việc Trung Quốc đã ngang ngược và thô bạo dùng vũ lực để cưỡng chiếm một phần lãnh thổ của Việt Nam vào năm 1974.
Một trong các lý do là vì hiện nay, giới học giả vẫn không thể tiếp cận được các tài liệu về Biển Đông được lưu trữ bởi nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay.
Điều này được nhà báo Bill Hayton xác nhận một lần nữa vào ngày 8/9/2017 trong buổi thuyết trình về vấn đề Biển Đông tại Viện Quan Hệ Quốc Tế (Institute of International Relations) thuộc Đại Học Chính Trị Đài Bắc, Đài Loan. (By Quynh Vi)
(Sài Gòn trong tôi/ Posted by Nguyễn Phúc An Sơn s/t/ NET)
Tài liệu tham khảo:
• Saigon Says Chinese Control Islands, But Refuses to Admit Complete Defeat
• Hoàng Sa – tường trình 35 năm sau: 30 phút và 35 năm
• Hiệp định Paris 1973
• Bruce A. Elleman, “China’s 1974 Naval Expedition to the Paracel Islands,” in Naval Power and Expeditionary Warfare: Peripheral Campaigns and New Theatres of Naval Warfare, ed. Bruce A. Elleman and S. C. M. Paine (London: Routledge, 2011), pp. 143–44.
• Toshi Yoshihara, “The 1974 Paracels Sea Battle: A Campaign Appraisal,” Naval War College Review 69.2 (Spring 2016): 41-65.