GIÁO SƯ NGUYỄN VĂN BÔNG TÀI NĂNG, ĐỨC ĐỘ VÀ BI KỊCH (2.4.1929-10.11.1971)(Trần Văn Chi/QuốcGiaHànhChánh)

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

Lịch sử nước Việt Nam mình từ ngày xưa được viết bởi những người làm quan, như lời tựa cuốn Việt Nam Sử Lược của cụ Trần Trọng Kim, trước năm 1945.

        Cho tới năm 1975 ngoài Bắc, trong Nam sử cũng được viết bởi “những ông quan” của chế độ! Lịch sử Việt Nam nhìn chung là lịch sử chiến tranh giành độc lập, chống lại sự đô hộ của người Tàu mà nói như ngày nay là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Ðến thời Cận Ðại (1802-1945) và đặc biệt thời Hiện Ðại (1945-1975) chiến tranh giải phóng dân tộc, chống thực dân Pháp, bị mang tánh giai cấp, phải chịu sự lãnh đạo của giai cấp vô sản!

        Do vậy cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc biến thành cuộc “nội chiến mang tánh giai cấp” làm cho nội bộ dân tộc chúng ta bị phân hóa, chia rẽ và hận thù giữa trong Nam ngoài Bắc, trong nước và hải ngoại. Phân biệt và hận thù người còn sống đến cả người đã chết, hận thù lịch sử, làm cho hằng triệu người phải bỏ nước ra đi! Lịch sử Việt Nam sau năm 1975 được viết lại một cách triệt để với cái nhìn giai cấp, có người chiến thắng và có người thua. Cho nên:

        – Những danh tướng như Lê Văn Duyệt, Nguyễn Huỳnh Ðức, Nguyễn Văn Thoại, Trương Minh Giảng… không được nhắc tới, nếu có chỉ là mượn tên tuổi của họ; để mua vui như lễ hội dân gian hơn là lịch sử, kể cả trường hợp Nguyễn Hữu Cảnh!

        – Những nhân sĩ, trí thức như Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký… thì chính sự đóng góp và sự nghiệp của họ lại trở thành bi kịch cho đời họ!

        – Những trí thức yêu nước chống thực dân Pháp quyết liệt, triệt để thì sự hy sinh hay cái chết của họ vẫn không được trân trọng như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu chỉ vì họ không cùng hàng ngũ!

        Nguyễn Văn Bông là một trường hợp gần nhứt với chúng ta.

        1. Tháng Giêng năm 1963, đài phát thanh và báo chí Sài Gòn đồng loạt loan tin: Ông Nguyễn Văn Bông, thạc sĩ Công Pháp Quốc Tế vừa về nước theo lời mời của chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa, bấy giờ ông Nguyễn Văn Bông chưa đầy 34 tuổi. Nguyễn Văn Bông sanh ra ở làng quê Kiểng Phước, Vàm Láng, bên bờ Sông Xoài Rạp, nơi đây đã từng chứng kiến bao cuộc tranh hùng giữa quân Tây Sơn với quân Nguyễn Ánh. Làng Kiểng Phước có Ðám Lá Tối Trời, địa danh gắn liền với tên tuổi người anh hùng Trương Công Ðịnh, người mở đầu công cuộc kháng Pháp của Nam Kỳ.

        Ðến năm 1945 trường trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ đóng cửa, Nguyễn Văn Bông về quê Kiểng Phước, rồi lên Sài Gòn theo gương đàn anh Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm tìm đường đi Pháp để “quyết làm thế nào cho rạng rỡ tổ tông” như lời Nguyễn Văn Bông thường tâm sự với gia đình hồi còn bé.

        Ðến Pháp năm 1949, Nguyễn Văn Bông vừa đi làm vừa học thi lấy bằng tú tài, cử nhơn, tiến sĩ rồi thạc sĩ Công Pháp Quốc tế năm 1962. Ông về nước năm 1963 theo lời mời của chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa, trong lúc đó có không ít trí thức học xong xin về Hà Nội.

        Ðất Gò Công sản sanh ra Quốc Công Phạm Ðăng Hưng, Hào kiệt Lê Quang Liêm có công sáng lập trường Nữ Học Sinh Áo Tím (trường Gia Long sau này), nhà văn Hồ Biểu Chánh người có công khai phá nền văn học quốc ngữ, Giám Mục Việt Nam đầu tiên Nguyễn Bá Tòng, Luật Sư Vương Quang Nhường, Nữ sỹ Manh Manh người mở đầu thơ mới ở Nam Kỳ… đã góp phần hung đúc tinh thần, tạo nghị lực con người Nguyễn Văn Bông lập công lập đức về sau.

        Về Gò Công, vào tận ngôi nhà ở làng Kiểng Phước, nơi Nguyễn Văn Bông với người chị Nguyễn Thị Thơm, người em trai Nguyễn Văn Thọ cùng lớn lên với ông bà nội mới thấy hết được cái khởi đầu của Nguyễn Văn Bông là thế nào. Lúc đó ông Nguyễn Hiền Năng, thân sinh ra Nguyễn Văn Bông phải lên tỉnh lỵ Gò Công làm nghề thợ bạc. Gia thế Nguyễn Văn Bông là vậy, trong khi đó hầu hết trí thức xứ Nam Kỳ Lục Tỉnh bấy giờ xuất thân từ gia đình quyền thế. Nguyễn Văn Bông thường tâm sự: “dòng họ không có ai học hành ra gì cả.” Vươn lên thành ông Thạc Sĩ, đâu phải ai cũng làm được như Nguyễn Văn Bông.

        2. Những ai may mắn gần gũi với Nguyễn Văn Bông chắc còn nhớ lúc mới về Sài Gòn, còn ở tạm tại một khách sạn nhỏ trên đường Kỳ Ðồng, ông thạc sĩ độc thân, đẹp trai hồn nhiên mặc chiếc áo thun rách 3 lỗ ra tiếp đón bà con bạn bè đến mừng! Nguyễn Văn Bông mộc mạc, thiệt thà, đơn giản, là con người “trước sao, sau vậy”. Rồi ông được mời giảng dạy chánh thức tại Đại Học Luật Khoa Saigon, đến 15 Tháng Mười Một năm 1964 được cử làm Viện trưởng Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Nguyễn Văn Bông vẫn vậy.

        Ðối diện với ông trên bộ ghế salon bằng gỗ cũ kỹ tại căn nhà của ông do nhà nước cấp, trước trường Nữ Trung Học Gia Long vào thập niên 70, tôi nói chuyện với ông như người anh em, người đồng hương, người “bạn tri kỷ”, dầu tôi với ông cách biệt tuổi tác và địa vị. Ðó là cái lớn của Nguyễn Văn Bông mà tôi ít tìm thấy nơi những trí thức cũng như chánh khách mà tôi hân hạnh tiếp xúc lúc bấy giờ. Làm Viện trưởng Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, nơi đào tạo những con người lãnh đạo đất nước, những ông chủ quận, chủ tỉnh, quan chức cao cấp… nhưng Nguyễn Văn Bông không coi mình là quan chức. Ông trước sau chỉ là người thầy, người anh, người bạn với mọi người kể cả học trò của ông.

        Ông Nguyễn Văn Bông từ Pháp về nước lúc tình hình chánh trị ở miền Nam Việt Nam đang trong thời kỳ xáo trộn: 18 trí thức nhóm Tự Do Tiến Bộ bị đàn áp, do ngày 26 Tháng Tư năm 1960 nhóm này cho phổ biến tuyên ngôn yêu cầu chánh phủ cải tổ; Phật Giáo chống lại chánh sách kỳ thị tôn giáo của chính quyền Ngô Ðình Diệm lên cao điểm với vụ tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Ðức tại ngã tư Lê Văn Duyệt – Phan Ðình Phùng lúc 11 giữa trưa ngày 11 Tháng Sáu năm 1963…

        Nguyễn Văn Bông dầu được chánh quyền mời về, nhưng ông không e dè đăng đàn thuyết trình đề tài “Ðối lập chánh trị trong chế độ dân chủ” ngày 1 Tháng Tám năm 1963, nhân buổi lễ khai giảng năm học, trước cử tọa gồm viện trưởng, khoa trưởng, giáo sư cùng hàng ngàn sinh viên.

        Không kể nội dung bài thuyết trình, thái độ của người thầy Nguyễn Văn Bông đã làm cho sinh viên cùng đồng sự của ông nể trọng, kính phục.

        Ðó là đức độ kẻ sĩ. Và mấy ai làm được? Ông không chọn thái độ ở ẩn như Phan Văn Trị, từ quan như Vũ Văn Mẫu. Lối xuất sử của Nguyễn Văn Bông làm cho ông trở thành con người nổi trội bấy giờ. Sau Cách Mạng 1 Tháng Mười Một, ông đảm nhận các chức vụ Viện trưởng Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Cố vấn cho Tối Cao Pháp Viện, Ủy viên Hội Ðồng Quản Trị Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam.

        Tới lúc này ông Viện Trưởng Nguyễn Văn Bông vẫn thường về quê, tìm món khô “hắc cấy”, món ngon đặc sản Vàm Láng của ông. Nghe ông thích thú kể chuyện con hắc cấy, chuyện làm gỏi da cá đuối mà tưởng chừng đang nói chuyện với lão nông, hay người đánh cá. Cung cách Nguyễn Văn Bông đã thâu hút mọi người và làm mọi người đến với ông. Rồi ông được mời hoạt động, làm chánh trị, bởi anh em thấy ở ông cái đức độ của con người lãnh tụ thật sư, có tấm lòng, có cái Tâm. Ông làm chánh trị như nhà tu hành thiền.

        3. Và bi kịch…

        Trên đường từ Học viện Quốc gia Hành chánh ở đường Trần Quốc Toản về nhà ở đường Phan Thanh Giản, khi xe tới ngã tư Cao Thắng – Phan Thanh Giản, ông bị kẻ khủng bố ném chất nổ sát hại! Bấy giờ là 12 giờ trưa Ngày 10 Tháng Mười Một năm 1971.

        Cô Út Lê Thị Thu Vân người quê Gò Công, thành hôn với ông Nguyễn Văn Bông tới lúc này được 8 năm, có với nhau hai con 8 tuổi và 5 tuổi!!! Ông Nguyễn Văn Bông ra đi, nói theo tạp chí Newsweek bấy giờ: giới luật pháp quốc tế mất đi một nhơn tài, lịch sử Việt Nam đi vào khúc quanh! Cái chết của ông Nguyễn Văn Bông, Giáo sư Viện trưởng Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, lãnh tụ của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, cũng như cái chết của Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Văn tới lúc phải được bạch hóa trước công chúng.

        Nguyễn Văn Bông, ông sanh ra nơi đất địa linh, ở đó có Trương Công Ðịnh hy sinh vì đại nghĩa; ông sống trên đường Phan Thanh Giản, tên của người Kinh Lược Sứ lấy cái chết cho ba quân được sống, ông nằm xuống trên đường Cao Thắng, tên của người chiến sĩ trí thức yêu nước…

        Nguyễn Văn Bông nằm xuống như một người chiến sĩ hy sinh ngoài mặt trận, xứng đáng được vinh danh. Nguyễn Văn Bông với những gì ở ông đã làm ông trở nên con người tựu nghĩa. Nếu Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký với tài năng và sự nghiệp trở thành bi kịch của cuộc đời thì trường hợp Nguyễn Văn Bông, tài năng và đức độ là bi kịch!!!

Little Saigon, 10/11/2006
        (Viết nhân ngày giỗ GS Nguyễn Văn Bông)
        Trần Văn Chi