CHẮC CÀ ĐAO… XỨ QUÊ XA LẮC ! (Brian Vu/ SaiGonTrongToi)

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

*** Địa Danh Miền Nam

May be an image of body of water and text

Hình Vàm rạch Chắc Cà Đao ở thị trấn An Châu, An Giang.

“Em là gái Chắc Cà Đao
Xứ quê xa lắm anh nào có hay
Thương anh còn một chút này
Gửi thuyền cho bến, gửi mây cho trời
Gặp đây là chút tình thôi
Cõng nhau đi trọn kiếp đời mai sau”…
Trong chúng ta có lẽ đã từng có một đôi lần trong đời nghe nhắc đến địa danh nghe lạ tai Chắc Cà Đao như để ví một nơi nào đó xa lắc, quê mùa, có khi chỉ với mục đích gây cười là chính, nhất là các tiểu phẩm hài miền Nam: “Nhà nó ở tuốt dưới miệt … Chắc Cà Đao!”. Vậy Chắc Cà Đao có thật không và nếu có thì ở đâu? (BV/Sài Gòn trong tôi)
Ngày xưa, cụm từ “Chắc Cà Đao” ngoài việc được dùng để chỉ một xứ sở xa lơ xa lắc ở đâu đó tuốt dưới miền Tây, còn được ám chỉ một nhân vật “quê mùa, thô kệch” lắm (thằng đó ở Chắc Cà Đao). “Mặc Cần Dưng” cũng vậy, tưởng như ba cái từ để trêu chọc qua lại, ấy vậy mà nó có thật. Thật ra hai cụm từ trêu ngươi ấy luôn đi liền với nhau bởi nó là hai địa phương cũng chẳng xa nhau lắm.
Dân thành phố, dân thị xã hay tỉnh lỵ nếu không gọị mấy anh chân lấm tay bùn ở đồng ruộng miền Tây là thằng “chắc cà đao’ thì cũng là thằng “mặc cần dưng”, nôm na lịch sự hơn thì gọi là anh “Tư Ếch”. Câu chuyện “Tư Ếch đi Sài Gòn” là câu chuyện dài theo kiểu “tiếu lâm đau đầu” khi nói về sự ngô nghê khờ khạo của những chàng nhà quê miền Tây ngày nào.
Nhưng Chắc Cà Đao và Mặc Cần Dưng ở đâu mà bị cho là quê mùa dữ vậy?
“Làng quê tên Mặc Cần Dưng
Hướng lên Châu Đốc nửa chừng cầu cao
Dưới kia là Chắc Cà Đao
Cách tám cây số không sao lạc đường”…
Thật ra Chắc Cà Đao và Mặc Cần Dưng là một địa phương có từ lâu đời của tỉnh An Giang, hai địa phương này chỉ cách Long Xuyên trong khoảng 10km trở lại.
Sau 1975, cả hai đều thuộc huyện Châu Thành. Mặc Cần Dưng là xã Bình Hòa, huyện Châu Thành. Sau này Bình Hòa chia thành 2 xã Bình Hòa và An Hòa. Còn Chắc Cà Đao trước là Hòa Bình Thạnh, huyện Châu Thành. Nay là thị trấn An Châu, tuy tên không còn nhưng chiếc cầu ngay thị trấn vẫn còn tên Chắc Cà Đao, như để hoài niệm về một thời xưa cũ. (BV/Sài Gòn trong tôi)
Về nguồn gốc tên gọi Chắc Cà Đao có nhiều giả thiết. Cụ Vương Hồng Sển trong cuốn Tự vị quốc âm miền Nam nói có hai cách lý giải:
– Ông Nguyễn Văn Đính cho rằng Chắc Cà Đao là do tiếng Khmer “chắp kdam” nghĩa là “bắt cua” vì vùng này xưa kia có nhiều cua.
– Nhà nghiên cứu Sơn Nam nói Chắc Cà Đao là từ tiếng Khmer “prek pedao”. “Prek” là rạch, “pedao” là một loại dây mây (trong Lịch sử khẩn hoang miền Nam thì Sơn Nam nói prek pedao là rạch có cây rừng mọc).
Cụ Vương Hồng Sển cho rằng ý kiến ông Nguyễn Văn Đính đúng hơn. Có lẽ vì so với Chắc Cà Đao thì “chắp kdam” gần âm hơn là “prek pedao”. Tuy nhiên, theo cách nói của ông Nguyễn Văn Đính thì ta biết “chắp kdam” là một động từ, mà trong việc đặt tên cho các địa danh, người ta ít sử dụng động từ mà thường sử dụng danh từ hơn. Do đó, cách lý giải của nhà nghiên cứu Sơn Nam lại nghe có vẻ hợp lý hơn.
Có dịp về ngang vùng Long Xuyên, ghé lại một nhà hàng bên đường, thưởng thức những món đặc sản vùng nước nổi như ốc, rắn, chuột đồng hoặc thịt trâu hấp hèm… bên cạnh những cọng hẹ mỏng tang, cọng bông súng giòn rụm, lại được nghe tiếng đàn kìm và sáu câu vọng cổ đặc sệt Nam Bộ mới thấy sự chân chất hồn nhiên ở cái xứ miệt vườn xa lắc này (BV/Sài Gòn trong tôi)
Những ai đi Châu Đốc thường ngang qua địa danh này, từ Long Xuyên theo quốc lộ 91 đến thị trấn An Châu thuộc huyện Châu Thành, chỉ hơn 8 cây số sẽ gặp một cây cầu tên là cầu Chắc Cà Đao, bắc ngang qua một con kinh cùng tên.
Vùng đất hai bên con kinh dài hơn 15 cây số này được gọi là làng Chắc Cà Đao, nhưng bây giờ ít ai dùng địa danh có nguồn gốc Khmer đó nữa, mà thích dùng cái tên gọi mới dễ nghe hơn, tùy vị trí, khi là thị trấn An Châu, khi là xã Hòa Bình Thạnh, thuộc huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
Làng quê tên Mặc Cần Dưng
Hướng lên Châu Đốc nửa chừng cầu cao.
Dưới kia là Chắc Cà Đao,
Cách tám cây số không sao lạc đường.
Xuống kinh qua tới bờ mương,
Nhà tôi mát rượi, cá lươn rất nhiều.
Nuôi nhiều ăn chẳng bao nhiêu,
Dành khi có khách sẽ chiêu đãi liền.
Mong sao gặp được bạn hiền,
Chén thù chén tạc thì tiên cũng hàng.
Bao giờ có dịp đi ngang,
Viếng Bà Chúa Xứ, ghé làng mình chơi…
Làng Chắc Cà Đao hay làng Hòa Bình Thạnh
Năm 1699, vua Chân Lạp là Nặc Thu (Ang Saur, có sách ghi Nặc Ong Thu – Chey Chettha IV) đem quân tiến công Đại Việt. Trước đó, năm 1689, anh trai của Nguyễn Hữu Cảnh là Nguyễn Hữu Hào đã theo lệnh chúa Nguyễn đi bình định Nặc Thu nhưng không thành công.
Chúa Nguyễn Phúc Chu lại cử Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống Binh, cùng với Phó Tướng Phạm Cẩm Long, Tham Tướng Nguyễn Hữu Khánh đem quân lính, thuyền chiến hợp cùng tướng Trần Thượng Xuyên lo việc đánh dẹp và an dân. Và thủy binh của Nguyễn Hữu Cảnh đã tiến thẳng đến thành La Bích (Nam Vang), đánh tan quân của Nặc Thu.
Sau khi vua Chân Lạp quy hàng, Nguyễn Hữu Cảnh cho thuyền ghé lại thăm và khích lệ dân chúng trong vùng, dù là người Khmer, Hoa hay Việt, hãy cùng nhau gìn giữ tinh thần thân thiện, tắt lửa tối đèn có nhau. Những hành động khoan dung, hòa nhã, thiết thực, những cử chỉ ưu ái thật tình của ông đã làm cho đồng bào vô cùng cảm mến.
Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), Nguyễn Hữu Cảnh kéo quân về đóng ở cồn Cây Sao (sử cũ gọi Cù lao Sao Mộc hay Tiêu Mộc hoặc châu Sao Mộc, sau dân địa phương nhớ công lao của ông, nên đã gọi là nơi này là Cù lao Ông Chưởng, nay thuộc Chợ Mới, An Giang), và báo tin thắng trận về kinh thành.
Một thời gian sau, ông bị bệnh, hai chân của ông bị tê bại, đi lại khó khăn, ăn uống không được. Gặp ngày Tết Đoan ngọ (mùng 5 tháng 5 Âm Lịch) ông miễn cưỡng ra dự tiệc để khích lệ tinh thần tướng sĩ, rồi sau đó bị trúng phong và thổ huyết, bịnh tình càng lúc càng trở nên trầm trọng.
Sau khi biết tin về bệnh tình của ông, Triều Đình ra lệnh cho ông kéo binh về.
Trước khi rút binh, ông triệu tập binh lính dưới trước tuyên bố, ai muốn giải giáp ở lại khai hoang lập nghiệp ở vùng đất này thì ở lại, khai khẩn được bao nhiêu sẽ tâu với triều đình cấp đất lập làng. (BV/Sài Gòn trong tôi)
Lúc đó, có một số binh sĩ xin được giải giáp ở lại vùng đất này để khai khẩn sinh sống; trong đó có 04 họ lớn là Lê, Lý, Nguyễn và Phan kéo đến vùng đất cặp sông Hậu này để khai khẩn và từ đó lập nên Làng Bình Phú, đứng đầu là quan Tuần Phủ Thái Văn Huấn dưới trướng Của Chưởng Binh Lễ Nguyễn Hữu Cảnh cai quản
Do địa hình phức tạp, rừng và sông ngòi chằng chịt, phương tiện giao thông khó khăn, nên hàng năm vào ngày giỗ của Quan Chưởng Binh Lễ (được lập đền thờ trong làng) nhiều vị quan chức các thôn đến trễ nên bị trách phạt.
Đến năm 1890 các vị hương chức ở thôn Mặc Cần Dưng xin phép Quan Phủ được tách làng lấy tên là Làng Bình Hòa. (BV/Sài Gòn trong tôi)
Sau đó, đến năm 1891, bốn dòng họ Lê, Lý, Phan và Nguyễn cũng xin được tách ra với làng Bình Phú và được chấp thuận. Họ lấy tên là Làng Hòa Bình Thạnh (lấy con rạch Chắc Cà Đao làm trung tâm)
Đến năm 1892 thì xây dựng ngôi Đình Làng để làm nơi làm việc của các Hương Chức và là nơi tụ tập sinh hoạt của dân làng.
Sau năm 1975 thì làng Hòa Bình Thạnh được tách ra làm ba Xã: An Châu, Hòa Bình Thạnh, Vĩnh Lợi. Cả ba xã này đều lấy Ngôi Đình Hòa Bình Thạnh làm nơi tụ tập sinh hoạt và tổ chức những hoạt động tín ngưỡng.
Đình thờ Thần Hoàng Bổn Cảnh và cũng là nơi thờ phượng và tưởng nhớ các bậc Tiền Nhân có công sáng lập Làng.
Hàng Năm cứ đến ngày 16-17-18 tháng 2 Âm Lịch, dân làng tập trung về Đình làng để tổ chức lễ hội cầu an, tưởng nhớ các bậc tiền nhân có công sáng lập Làng. Lễ Hội được Tổ chức suốt 3 ngày với sự đóng góp công sức và vật chất của dân làng, họ tụ tập vui chơi các trò chơi dân gian, ôn lại các câu hò … xem hát bộ và Cúng Thần Nông, Thần Hoàng bổn cảnh nguyện cầu cho Quốc Thái Dân An, Phong Hòa Vũ Thuận, mùa màng tươi tốt, dân làng được thụ hưởng sự ấm no hạnh phúc, nhà nhà an vui…. (Brian Vu/Sài Gòn trong tôi)