Người đầu tiên đặt nền tảng chữ Quốc Ngữ (tiếng Việt) là giáo sĩ người Bồ Đào Nha thuộc Dòng Tên Francisco de Pina (1585-1625). Giáo Sĩ Alexandre de Rhodes (1591-1660) nối tiếp công việc hoàn thiện hơn việc dùng chữ Quốc Ngữ, hoàn thành cuốn tự điển Dictionarium Annamiticium – Lusitanium – Latinium (Tự Điển An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh) năm 1651.
Vào cuối thế kỷ XIX, chữ Quốc Ngữ trở thành văn tự chính thức tại Nam Kỳ vào năm 1882, học giả Petrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898) khi làm quản nhiệm (ngày 16/9/1869) Gia Định Báo, tờ báo đầu tiên bằng chữ quốc ngữ ở miền Nam. Gia Định Báo ra đời ngày 15/4/1865, do người Pháp Ernest Potteau làm tổng tài (quản nhiệm), đến năm 1869 Trương Vĩnh Ký (Petrus Ký – Tiếng Latin là Petrus, tiếng Pháp là Pétrus) thay thế Ernest
Potteau. Gia Định Báo chủ trương: cổ động tân học, truyền bá quốc ngữ và giáo dục quốc âm.
Trước đó, chữ Hán và chữ Nôm được phổ biến rộng rãi nên từ khi có chữ Quốc Ngữ được quảng bá nên các bậc tiền nhân muốn khai phóng qua sách, báo… cho nền văn học đất nước.
Tại Sài Gòn, trường trung học Petrus Ký (Lycée Pétrus Trương Vĩnh Ký) được thành lập năm 1928, là một trong những ngôi trường nổi tiếng nhất ở miền Nam Việt Nam. Cổng trường Trung Học Petrus Ký có khắc hai câu đối của giáo sư Hán văn Ưng Thiều:
“Khổng Mạnh cương thường tu khắc cốt. Tây Phương khoa học yếu minh tâm!”, có tượng đồng bán thân của cụ ở giữa sân trường.
Vào đầu thế kỷ XX, học giả Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) nhà báo, nhà văn, dịch giả…có công đóng góp cho nền dịch thuật Việt Nam. Ông là chủ bút đầu tiên tờ Đăng Cổ Tùng Báo, ra đời ngày 28/3/1907, xuất bản bằng chữ quốc ngữ ở Bắc Kỳ.
Lục Tỉnh Tân Văn (1910), Đông Dương tạp chí (1913), Trung Bắc Tân Văn (1915, nhật báo đầu tiên)… Người đầu tiên dịch Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa từ chữ Hán ra chữ Quốc Ngữ năm 1909. Người đầu tiên dịch các tác phẩm văn học cổ điển Pháp của Victor Hugo, Honoré de Balzac, Alexandre Dumas, Molière, La Fontaine … ra tiếng Việt đã đã đăng
trên Đông Dương tạp chí và đã ấn hành, trong đó có Thơ Ngụ Ngôn La Fontaine Diễn Nôm (Les Fables de La Fontaine, 44 truyện) phổ biến rộng rãi, được trích đăng rất nhiều.
Đặc biệt với Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du dịch ra tiếng Pháp. Người đầu tiên đưa kịch nói (các tác phẩm của Molière) lên sân khấu nhà hát lớn Hà Nội năm 1920 (*).
(* Vương Trùng Dương: Bệnh Tưởng, Bi Kịch & Cuộc Sống trên trang web Đặc San Lâm Viên http://www.dslamvien.com/2022/02/benh-tuong-hai-kich-va-cuoc-song.html
Học giả Nguyễn Văn Vĩnh cũng là người sáng lập ra Hội Trí Tri và Hội Dịch Sách. Ngày 26/6/1907 ở Hội Trí Tri Hà Nội, ông đã diễn thuyết về Hội Dịch Sách, và phổ biến trên Đăng Cổ Tùng Báo.
Những tác phẩm Tây Phương qua dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh tiêu biểu vào tiền bán thế kỷ XX như: Thơ Ngụ Ngôn của La Fontaine (Fables de La Fontaine) Trẻ Con của Perrault (Les Contes de Charles Perrault), Mai-Nương Lệ-Cốt (Manon Lescaut) của Abbé Prévost, Ba Người Ngự Lâm Pháo Thủ (Les Trois Mouquetaires), của Alexandre Dumas,
Những Người Khốn Khổ (Les Misérables) của Victor Hugo, Miếng Da Lừa (La Peau de chagrin) của Honoré de Balzac., Guy-li-ve Du Ký (Les Yoyages de Gulliver) củaJonathan Swift, Tê-lê-mặc Phiêu Lưu Ký (Les Aventures de Télémaque) của Fénélon, Sử Ký Thanh Hoa (Le Parfum des Humanités) của Emile Vayrac, Chàng Gil Blax Xứ Xăngtizan (Gil Blas de Santillane) và Tục Ca Lệ (Turcaret) kịch của Lesage…
Bốn vở kịch nói của Molière: Trưởng Giả Học Làm Sang (Le Bourgeois Gentilhomme),
Giả Đạo Đức (Le Misanthrope), Bệnh Tưởng (Le Malade Imaginaire), Lão Hà Tiện (L’Avare).
Và, từ đó những tác phẩm Tây Phương đã được các học giả, nhà văn, nhà báo từ Bắc đến Nam được dịch sang tiếng Việt.
Trong quyển Nhà Văn Hiện Đại của Vũ Ngọc Phan, ấn hành năm 1941, quyển I, mục:
Những Nhà Văn Hồi Mới Có Chữ Quốc Ngữ từ trang 35 đến trang 190, tiên phong với Trương Vĩnh Ký, nhóm Đông Dương Tạp Chí với Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế Bính,
Nguyễn Đỗ Mục, nhóm Nam Phong Tạp Chí với Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Trọng Luật…
Theo nhà văn Vũ Ngọc Phan “Trong số những học giả Việt Nam theo Tây học ấy, người ta phải kể đến hai người có tiếng nhất là Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Trai (tức Paulus Của). Hai ông đã dùng chữ Quốc Ngữ để truyền bá học thuật về tư tưởng Âu Tây và soạn tự điển Việt Pháp để người Nam có thể dùng mà học tiếng Pháp. Việt Pháp Tự Điển của Paulus Của là một bộ tự điển mà gần đây cả người Bắc lẫn người Nam vẫn còn
dùng” (trang 37). Quan trọng nhất với Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, 2 cuốn, in tại Sài Gòn năm 1895 và 1896. Bộ sách nầy được in lại nhiều lần cho các thế hệ sau nầy tra cứu.
*
Trong phạm vi bài nầy, chỉ đề cập Tổng Quan Về Sách Dịch Văn Học Tây Phương Ở Miền Nam Việt Nam vì nói đến dịch thuật với tất cả tác phẩm từ Á sang Tây, Mỹ… bao quát, không thể tổng hợp trong bài viết. Gọi là Tây Phương nhưng thực ra chỉ vài nước ở Âu Châu… Nguyễn Văn Lục với bài viết 20 Năm Văn Học Dịch Thuật Miền Nam 1955-1975 trên tờ Hợp Lưu vào cuối năm 2004, giới thiệu tổng quát về sách dịch.
Nhà văn Võ Phiến (1925- 2015) năm 1975 định cư tại Hoa Kỳ, là người làm sống lại nền Văn Học Miền Nam. Với bút hiệu Tràng Thiên đã ấn hành:
Hăm Bốn Giờ Trong Đời Một Người Đàn Bà (của Stéfan Zweig) Sài Gòn, 1963), Các Trào Lưu Lớn Của Tư Tưởng Hiện Đại (của André Maurois) Sài Gòn, 1964), Truyện Hay Các Nước, tập 1 & II (cùng dịch với Nguyễn Minh Hoàng) Sài Gòn, 1965.
Năm 1999, ông ấn hành bộ sách Văn Học Miền Nam gồm 6 cuốn về truyện (3 cuốn), ký, tùy bút và kịch, thơ.
Cuốn sách Văn Học Miền Nam Tổng Quan, NXB Văn Nghệ năm 1988, vào thời điểm đó được đánh giá là tài liệu về Văn Học đáng tin cậy để sưu tầm.
Theo Võ Phiến phần sách dịch chiếm đến 60% số đầu sách (tên sách, tựa đề tác phẩm dịch thuật) được xuất bản tại miền Nam đến năm 1973, nó đã lên đến 80%. Và theo Trần Trọng Đăng Đàn, trong bài viết Văn Hoá, Văn Nghệ Nam Việt Nam 1954-1975, số dịch phẩm tại miền Nam trong 20 năm đó có thể được chia ra thành: Pháp 499 cuốn, Đài Loan và Hương Cảng 358 cuốn, Mỹ 273 cuốn, Nga 120 cuốn, Anh 97 cuốn, Nhật 71 cuốn, Ý
58 cuốn, Đức 57 cuốn. Các nước khác chiếm 38 cuốn. Như thế, các sách được dịch, bao gồm cả sách nghiên cứu và các sáng tác, nhưng chủ yếu là tiểu thuyết, đến từ cả Tây Phương, Mỹ Châu và Á Châu…
Những tác giả đã có công dịch thuật như Nguyễn Hiến Lê, Trương Bảo Sơn, Vũ Đình Lưu (Cô Liêu), Phạm Công Thiện (dịch các tác phẩm triết), Bùi Giáng, Phùng Khánh và Phùng Thăng, Nguyễn Hiến Lê, Tam Ích, Bửu Ý, Ngọc Thứ Lang, Huỳnh Phan Anh,
Nguyễn Hữu Hiệu, Đỗ Khánh Hoan, Mặc Đỗ, Trần Phong Giao, Hoài Khanh, Hoàng Hải Thủy (phóng tác)…
Trong quyển Văn Học Miền Nam 1954-1975 của Nguyễn Vy Khanh năm 2019, Chương 6 đề cập đến Dịch Thuật &; Văn Học nước ngoài, giới thiệu các dịch giả đóng góp.
Ngoài ra, nhiều dịch giả với một, hai tác phẩm trên nhiều lãnh vực rất phong phú, mở rộng kiến thức để nghiên cứu và giải trí…
Tư tưởng triết học Tây Phương được phổ biến ở miền Nam VN như Hiện Tượng Luận với Edmund Husserl khởi xướng, Merleau-Ponty, Gabriel Marcel, Heidegger, Karl Jaspers, Paul Ricoeur, Emmanuel Lévinas và Mikel Dufrenne…
Nhà thơ Bùi Giáng
(1926-1998) ấn hành 2 quyển về Martin Heidegger & Tư Tưởng Hiện Đại, Sài Gòn 1963, ông cho biết phải học thêm tiếng Đức để tra cứu tài liệu. Phạm Công Thiện dịch 2 tác phẩm của Martin Heidegger: Về Thể Tính Của Chân Lý, Sài Gòn, 1968); Triết Lý Là
Gì?, Sài Gòn, 1969)…
*
A.- Nobel Văn Chương Tây Phương & Tác Phẩm Dịch Thuật
Nobel Văn Chương (Văn Học) là một trong 6 bộ môn: Y Học ; Sinh Học, Hóa Học, Vật Lý, Kinh Tế ; Hòa Bình.
Giải Nobel Văn Chương đã được trao 114 lần từ năm 1901 đến 2021 cho 118 người (nam giới: 101 và nữ giới: 17).
Ngày 6/10/2022, Viện Hàn Lâm Thụy Điển thông báo giải
Nobel Văn Chương 2022 với nhà văn Pháp, bà Annie Ernaux, 82 tuổi. Đây là lần thứ 16 nền văn học Pháp có tên trên bảng vàng, nhà văn Annie Ernaux là phụ nữ Pháp đầu tiên đoạt Nobel Văn Chương và một trong những người cao tuổi nhất được vinh dự nầy.
1914 Không trao giải vì xảy ra Đệ Nhất Thế Chiến và 5 năm (1940-1944) không trao giải do xảy ra Đệ Nhị Thế Chiến.
Với các nhà dịch thuật ở Việt Nam rất quan tâm về giá trị các nhà văn đoạt Giải Nobel Văn Chương nên vào tiền bán kỷ XX đã dịch và giới thiệu ở trong nước.
Trong phạm vi bài nầy đề cập đến Nobel Văn Chương từ 1901 đến 1975 được dịch sang tiếng Việt trong 20 năm (1954-1975) tại miền Nam VN qua một số tác phẩm của các nhà văn Tây Phương nổi danh với Nobel Văn Chương. Hầu hết được dịch từ tiếng Anh, tiếng Pháp… Điển hình với các nhà văn:
1901: Nhà thơ Pháp Sully Prudhomme (1839-1907), tác phẩm tiêu biểu Stances et Poèmes, 1865 (Tứ Tuyệt & Các Bài Thơ). Không có bản dịch tiếng Việt, chỉ viết về tác giả và dịch vài bài thơ của ông trên các tạp chí.
1903: Nhà thơ Na Uy Bjornstjerne Bjornson (1832-1910), tác phẩm Sigurd Slembe,
1863 (Sigurd hung bạo) (*nt)
1904: Nhà thơ Na Uy Frédéric Mistral (1830-1914), thi phẩm Lis Isclo d'Or (Những Hòn
Đảo Vàng, 1876), Lou Tresor dóu Félibrige (Kho Báu Félibrige, 1878-1886), La Rèino
Jano (Nữ Hoàng Jano, 1890) (*nt)
1907: Nhà văn Vương Quốc Anh Rudyard Kipling (1865-1936), các tác phẩm Truyện Kể Núi Đồi (Plain Table from the Hills, 1886), Kim (1901), Chuyện Rừng Xanh (The Jungle Book, 1894), Chuyện Rừng Xanh 2 (The Second Jungle Book, 1895) (*nt)
1908: Nhà văn Đức Rudolf Christoph Eucken (1846-1926) (*nt)
1909: Nhà văn Thụy Điển Selma Lagerlöf (1858-1940), tác phẩm Truyền Thuyết Về Gösta Berlings (1891), Cuộc Du Hành Kỳ Diệu Của Nils Holgersson Ở Thụy Điển (Nils Holgerssons Underbara Resa Genom Sverige, 2 phần, 1906 và 1907) (*nt)
1910: Nhà thơ, nhà văn Đức Paul Johann Ludwig von Heyse (1830-1914), tác phẩm Die Kinder der Welt (Những Đứa Con Thế Giới, 1873), Im Paradiese (Nơi Thiên Đường,
1875) và Merlin (1892) (*nt)
1911: Kịch tác gia Bỉ Maurice Maeterlinck (1862-1949), tác phẩm tiêu biểu L'oiseau
bleu (Con Chim Xanh, 1909) (*nt)
1912: Kịch tác gia Đức Gerhart Hauptmann (1862-1949), tác phẩm Vor Sonnenaufgang (Trước Lúc Mặt Trời Mọc, 1889), Die Weber (Những Người Thợ Dệt, 1893) (*nt)
1915: Nhà văn Pháp Romain Rolland (1866-1940), ông viết về nhiều thể loại từ thi ca, âm nhạc đến kịch nghệ… biên khảo và phê bình. Musiciens d'Autrefois (Nhạc Sĩ ThờiXưa, 1908), Musiciens d'Aujourd'hui (Nhạc Sĩ Thời Nay, 1908), La Vie de Tolstoï (Cuộc Đời Tolstoy, 1911), Tác phẩm Jean – Christophe (1904-1912, 10 tập) và Au-Dessus De La Mêlée (Bên Trên Cuộc Chiến, 1915) đã góp phần chính trong Nobel Văn Chương.
Tuy không có sách dịch nhưng nhiều bài viết trên các tạp chí văn học về nhà văn nầy.
1916: Nhà thơ Thụy ĐiểnVerner von Heidenstam (1859-1940) (*nt).
1917: Nhà thơ Đan Mạch Karl Adolph Gjellerup (1857-1919), tác phẩm tiêu biểu
Pilgrimen Kamanita (Kamanita, Người Hành Hương, 1906) (*nt)
1917: Nhà thơ Đan Mạch Karl Adolph Gjellerup (1857-1919), tác phẩm tiêu biểu Pilgrimen Kamanita (Kamanita, Người Hành Hương, 1906) (*nt)
1917: Nhà văn Đan Mạch Henrik Pontoppidan (1857-1943) cùng với nhà thơ đồng hương. Những tác phểm tiêu biểu: Ung Elskov (Tình Yêu Chớm Nở, 1885), Det Forjættede Land (Miền Đất Hứa, 1891-1895), Dommens Dag (Ngày Phán Quyết,1895)… Tác phẩm lớn gồm 5 tập De Dødes Rige (Thế Giới Những Người Chết, 1912-1916) cho sự nghiệp văn chương của ông.
1919: Nhà thơ Thụy Sĩ Carl Spitteler (1845-1924), bộ sử thi Der Olympischer Frühling
(Mùa Xuân Olympia, 4 cuốn, 1900-1906)
1921: Nhà văn Pháp Anatole France (1844-1924): L'Histoire Contemporaine (ChuyệnThời Nay, 1897-1901), Đảo Chim Cánh Cụt (L’île des Pingouins, 1908), La Vie Littéraire (Đời Sống Văn Học, 1888-1892)
1925: Nhà văn Anh George Bernard Shaw (1856-1950), ông coi là nhà viết kịch Anh lẫy lừng ngay sau Shakespeare. Và các tiểu thuyệt tiêu biểu như: Immaturity (Non Nớt,1879), The Irrational Knot (Cuộc Hôn Nhân Không Hợp Lý, 1880), Love Among theArtists (Tình Nghệ Sĩ, 1881)…
1926: Nhà văn Ý Grazia Deledda (1871-1936). Tác phẩm La Madre (Người Mẹ, 1920) của bà tuy chưa dịch nhưng được ca ngợi qua các bài viết.
1927: Nhà nghiên cứu văn học & triết học Pháp Henri Bergson (1859-1941) với các tác phẩm tiêu biểu như L'Evolution Créatrice (Tiến Hóa Sáng Tạo, 1907), Matière et Mémoire (Vật Chất & Ký Ức, 1896)… Linh Mục Cao Văn Luận, Viện Trưởng Viện Đại
Học Huế đúc kết qua tác phẩm Henri Bergson, Năng Lực Tinh Thần.
1929: Nhà văn Đức Thomas Mann (1875-1955) được đánh giá là một trong những nhà văn nổi tiếng nhất của Đức. với các tác phẩm tiêu biểu: Der Zauberberg (Núi Thần, 1924), Buddenbrooks – Verfall Einer Familie (Gia Đình Buddenbrook, 1901), Der Tod in Venedig (Chết Ở Venice, 1913)…
1932: Nhà văn Vương Quốc Anh John Galsworthy (1867-1933), với The Forsyte Saga
(Truyện gia đình Forsyte, 1906-1921), A Modern Comedy, 1924-1928)
1933: Nhà văn Ivan Bunin (1870-1953), không quốc tịch, cư trú tại Pháp
1937: Nhà văn Pháp Roger Martin du Gard (1881-1958) với Jean Barois (1913), Les Thibault (Gia đình Thibault, 1922-1940)
1939: Nhà văn Phần Lan Frans Eemil Sillanpää (1888–1964), tác phẩm Nuorena Nukkunut (Thiếu Nữ Chết Trẻ, 1931), Hurskas Kurjuus (Cái Nghèo Thanh Cao, 1919), không có bản dịch.
1944: Nhà văn Đan Mạch Johannes Vilhelm Jensen (1873–1950), tác phẩm Den Lange Rejse (Đường Dài, 6 tập, 1908-1922), không có bản dịch.
1946: Nhà văn Đức Hermann Hesse (1877-1962) với các tác phẩm: Tuổi Trẻ Băn Khoăn
(Demian, 1919), Câu Chuyện Dòng Sông (Siddartha, 1922), Sói Đồng Hoang (De Steppenwolf, 1927), Hành Trình Về Phương Đông (Die Morgenlandfahrt, 1932) với những tác phẩm nổi tiếng của ông khi được giải Nobel Văn Chương năm 1946 nên được dịch ra tiếng Việt, quen thuộc với độc giả ở miền Nam VN. Ông là người uyên bác triết lý Đông Phương qua hai tác phẩm Siddartha (Câu Chuyện Dòng Sông, Phùng Thăng ;
Phùng Khánh dịch) và Die Morgenlandfahrt (Le Voyage du Matin, dịch sang tiếng Việt là Hành Trình Về Phương Đông), tác phẩm nầy trùng tên bộ sách của nhà văn Mỹ Baird Thomas Spalding, Nguyên Phong dịch Hành Trình Về Phương Đông. …
1947: Nhà văn Pháp André Gide (1869-1951). Ông là nhà văn nổi tiếng nhất ở thế kỷ XX, tác phẩm của ông được dịch từ trước như La Porte Étroite (Tiếng Đoạn Trường) do Đình Thạch dịch, Trung Bắc Tân Văn ấn hành năm 1937; La Symphonie Pastorale (Khúc Nhạc Đồng Quê), Đào Đăng Vỹ dịch, ấn hành năm 1954…
Các tác phẩm của ông như: Paludes, Les Nourritures Terrestres, Isabelle, L'École des Femmes, Robert, Œdipe… Đặc biệt với L'Immoraliste, 1902, La Porte Étroite, 1909, Les
Faux-Monnayeurs, 1926… được nhiều dịch giả cùng dịch.
1948: Nhà thơ Vương Quốc Anh Thomas Stearns Eliot (1888-1965) với các thi phẩm
The Love Song of J. Alfred Prufrock (Bản Tình Ca Của J. Alfred Prufrock, 1917), The
Waste Land (Đất Hoang, 1922), The Hollow Men (Những Kẻ Rỗng Tuếch, 1925), Ash
Wednesday (Ngày Thứ Tư Tro Bụi, 1930), Four Quartets (Bốn Khúc Tứ Tấu, 1935-
1945)… với thơ ít dịch nguyên thi phẩm mà chỉ dịch một số bài trên các tạp chí.
1950: Triết gia Vương Quốc Anh Bertrand Russell (1872-1970) – (Đề cập ở phần Khuynh Hướng Triết Học & Văn Học)
1951: Nhà văn Thụy Điển Pär Lagerkvist (1891–1974), tác phẩm Barabbas (1950), Gästhos Verkligheten (Vị Khách Của Thực Tại, 1925)
1952: Nhà văn Pháp François Mauriac (1885-1970). Tác phẩm Thérèse Desqueyroux
(Người Vợ Cô Ðơn) do Mặc Đỗ dịch năm 1956, giới thiệu với độc giả sau khi được giải Nobel Văn Chương. Các tác phẩm tiêu biểu của ông như: Le Nœud de Vipères (Ổ Rắn Độc), Le Mystère Frontenac (Bí Ẩn Nhà Frontenac), La Fin de la Nuit (Đêm Tàn), Les Chemins de la Mer (Những Con Đường Của Biển), La Pharisienne (Người Đàn Bà Đạo Đức Giả), Mémoires Intérieurs (Hồi Ký Nội Tâm)… được giới thiệu trên các tạp chí văn học.
1953: Sir Winston Churchill (1874–1965), chính trị gia của Vương Quốc Liên Hiệp Anh, tác phẩm viết về thời kỳ lịch sử Hồi Ức Về Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai (The Second World War, 6 tập, 1948-1953)
1955: Nhà thơ Iceland Halldór Kiljan Laxness (1902–1998) , tác phẩm Alþýdubókin (Cuốn Sách Loài Người, 1929), Sjálfstætt fólk (Những Người Độc Lập, 2 tập, 1935),
Heimsljós (Ánh Sáng Thế Giới, 4 tập, 1937-1940). Không có bản dịch tiếng Việt.
1956: Nhà thơ Tây Ban Nha Juan Ramón Jiménez (1881–1958) với toàn bộ thi phẩm.
Không có bản dịch tiếng Việt.
1957: Nhà văn Pháp Albert Camus (1913-1960). Ông là một trong những nhà văn ngoại
quốc được ảnh hưởng rất nhiều ở miền Nam VN.
Tác phẩm đầu tay L’Étranger (Người Xa Lạ) ra đời năm 1942, trở thành “hiện tượng”
trong văn chương Pháp với Chủ Nghĩa Hiện Sinh (Existentialisme), tác phẩm La Peste
(Dịch Hạch) viết năm 1938 nhưng sau đó hiệu đính lại mới ấn hành năm 1947. Trong văn
học, hai nhà văn Simone de Beauvoir (1908-1986) và J.P. Sartre (1905-1980) gặp nhau từ
năm 1929 và yêu nhau, sáng lập tờ báo Thời Mới (Les Temps Modernes) để truyền bá
Chủ Nghĩa Hiện Sinh trong trào lưu văn học. Kết thúc cuộc tình Simone de Beauvoir viết
cuốn Adieux: Một Lời Chia Tay Với Sartre (1981).
J.P Sartre mới là triết gia về Chủ Nghĩa Hiện Sinh, Albert Camus không phải là triết gia
nhưng đem chủ nghĩa nầy vào văn học. Cùng cổ xúy cho Chủ Nghĩa Hiện Sinh, tình bạn
giữa Albert Camus và J.B Sartre vào giữa thập niên 30, rạn nứt vào năm 1952… Và từ đó,
ông viết những tác phẩm nói lên “phi lý” của con người trong cuộc sống.
Những tác phẩm của Albert Camus vào thập niên 60 được dịch ra tiếng Việt và không xa
lạ gì với độc giả ở miền Nam VN. Bùi Giáng dịch nhiều tác phẩm của Albert Camus như:
Le Malentendu (Ngộ Nhận), Caligula (Bạo Chúa Caligula), L’Été (Mùa Hè, nhan đề Mùa
Hè Sa Mạc, Le Mythe de Sisyphe (Huyền Thoại Sisyphe), nhan đề Biển Đông Xe Cát,
L’Homme Révolté (Con Người Phản Kháng)…
La Chute (Sa Đọa), Djémila (Gió Về), L’Envers et L’Endroit (Bề Trái & Bề Mặt), Noces
(Giao Cảm), Trần Thiện Đạo dịch. La Femme Adultère (Người Đàn Bà Ngoại Tình),
Nguyễn Văn Trung dịch, L’Exil et le Royaume (Lưu Đày & Quê Nhà), Trần Phong Giao
và Vũ Đình Lưu dịch… Tác phẩm La Peste (Dịch Hạch), Hoàng Văn Đức dịch, 1966; Võ
Văn Dung dịch, 1971…
Có thể nói, sau hai cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Kẻ Xa Lạ (1942) và Dịch Hạch (1947), thì
tiểu luận Thần Thoại Sisyphus (Le Mythe de Sisyphe, 1942) là tác phẩm quan trọng bậc
nhất của Albert Camus.
Thần thoại về Sisyphus, tiểu luận triết học của Albert Camus với lập luận của điều phi lý
từ thời cổ đại xa xưa vẫn tồn đọng trong thời kỳ của Albert Camus. Tựa đề tiểu luận, vốn
là tên trong chương sau cùng, được gợi dẫn từ câu chuyện của chàng Sisyphus trong thần
thoại Hy Lạp. Theo đó, bắt đầu từ lập luận phi lý rằng đời sống của mỗi cá nhân, ngay cả
những cá nhân tự xác định cho mình một lý tưởng, mục đích cao đẹp, thường bị vây bủa
trong những hành động đôi khi rất hoài công và vô vọng. Vì vậy quan niệm về phi lý đã
bàng bạc trong tác phẩm cùa Albert Camus (*)
(* VTrD, trích trong bài viết Người Xa Lạ… Giữa Chúng Ta trên trang web https://t-
van.net/vuong-trng-duong-tan-man-dau-nam-2022-nguoi-xa-la-giua-chng-ta/ )
1958: Nhà văn Nga Boris Pasternak (1890–1960), tác phẩm Dr. Zhivago (đề cập phần
sau)
1959: Nhà thơ Ý Salvatore Quasimodo (1890–1960), thi phẩm La Terra Impareggiabile
(Đất Vô Song, 1958), không có bản dịch tiếng Việt.
1960: Nhà văn Pháp Saint-John Perse (1887-1975) với tác phẩm Anabase (1924), Những
Mốc Trên Biển (Amers, 1957)
1961: Nhà văn Nam Tư Ivo Andrić (1892-1975). Tác phẩm The Bridge on the Drina
(Chiếc Cầu Trên Sông Drina, 1945), Nguyễn Hiến Lê dịch
1954: Triết gia, nhà văn Pháp Jean Paul Sartre (1905-1980) được trao giải Nobel Văn
Chương năm 1964 nhưng ông từ chối và cho rằng “Một nhà văn không nên cho phép
mình trở thành người của một tổ chức”. Ông là triết gia nên đem tư tưởng “xiển dương”
vào văn chương để quảng bá. Những tác phẩm của ông đã được dịch: La Nausée (Buồn
Nôn), Les Mouches (Những Ruồi) Phùng Thăng dịch, Huis Clos (Kín Cửa) Trần Thiện
Đạo dịch, Les Jeux sont Faits (Sự Đã Rồi), Nguyễn Xuân Hoàng & Trần Phong Giao
dịch; Le Mur (Bức Tường). Với tác phẩm L'Être et le Néant (Hiện Hữu & Hư Vô) có
nhiều bài viết phân tích về quan điểm của ông sau Essay on Phenomenological Ontology
(Tiểu Luận Về Hiện Tượng Thực Chất Hiện Hữu). Nhà văn Huỳnh Phan Anh trong tác
phẩm Văn Chương & Kinh Nghiệm Hư Vô năm 1968 đã đề cập đến J.P Satre.
1963: Nhà thơ Hy Lạp Giorgos Seferis (1900–1971) Hy Lạp, không có bản dịch tiếng
Việt.
1965: Nhà văn Liên Xô (1905-1984) Liên Xô Liên Xô, tác phẩm Sông Đông Êm Đềm
(đề cập phần sau).
1970: Nhà văn Liên Xô Aleksander (1918–2008) với toàn bộ tác phẩm (đề cập ở phần
sau).
1972: Nhà văn Tây Đức Heinrich Böll (1917-1985) được đánh già là nhà văn phục hồi
nền văn học Đức…
(GS Phạm Văn Tuấn ở Úc ấn hành quyển sách ở Virginia (Hoa Kỳ) năm 2018: Nhà Văn,
Nhà Thơ & Tác Phẩm, giới thiệu các văn thi sỹ đoạt gải Nobel và nổi danh trên thế giới).
1974: Nhà văn Thụy Điển Eyvind Johnson (1900-1976), tác phẩm Strändernas Svall
(Sóng Biển, 1946), Krilon Romanren (Tiểu Thuyết Của Krilon, 1941-1943), Romanen
om Olof (Tiểu Thuyết Olof, 1934-1937). Không có bản dịch tiếng Việt.
(Danh sách Nobel Văn Chương (Văn Học) ở trên chỉ đề cập từ năm 1901 đến 1974 vì
liên quan đến giai đoạn ở miến Nam Việt Nam. Danh sách trên dựa vào trang web
Wikipedia và các websites khác để tóm lược)
B.- Dịch Giả Miền Nam VN Với Các Tác Phẩm Văn Chương Tây Phương
Nhân đây, đề cập khái quát đến vài dịch giả miền Nam VN với các tác phẩm về văn
chương Tây Phương.
– Nhà thơ Bùi Giáng (1926-1998). Ngoài tài hoa về thi ca, ông còn là dịch giả qua những
tác phẩm:
Cõi Người Ta của Saint-Exupéry, 1966; Trăng Tỳ Hải của Albert Camus, André Gide,
Martin Heidegger, 1966; Khung Cửa Hẹp của A. Gide, 1966; Hoa Ngõ Hạnh của
Shakespeare, 1966; Bạo Chúa Caligula của Albert Camus, 1967 – 1974; Kim Kiếm Ðiêu
Linh của Ngọa Long Sinh, 1967; Ngộ Nhận của A. Camus, 1967; Con Người Phản
Kháng của A. Camus, 1968; Mùa Hè Sa Mạc của A. Camus , 1968; Kẻ Vô Luân của A.
Gide, 1968; Orphélia Hamlet của Shakespeare, 1969; Hòa Âm Ðiền Dã của A. Gide,
1969; Sương Bình Nguyên của các tác giả Âu Mỹ, 1969; Hoàng Tử Bé của Saint-
Exupery, 1973; Mùi Hương Xuân Sắc của Gerald de Narval, 1974…
Ông dịch rất thoáng, có khi không theo nguyên tác mà theo ý văn để diễn đạt. Còn sáng
tác thơ tặng tác giả. Ông dịch Kim Kiếm Ðiêu Linh của Ngọa Long Sinh để học thêm chữ
Hán. Tác phẩm Nhà Sư Vương Lụy của nhà văn Trung Hoa, nhà sư tên là Tô Mạn Thù
(Su Manshu), Bùi Giáng dịch từ nguyên tác, Quế Sơn xuất bản năm 1969. (Có bản dịch
sang tiếng Anh The Lone Swan của Geoege Kin Leung… (*)
(* Vương Trùng Dương, bài viết Bùi Giáng, Ðại Lão Cái Bang cho Giai Phẩm Xuân
Bính Tý (1996). Trang web Đặc San Lâm Viên: http://www.dslamvien.com/2021/05/bui-
giang-dai-lao-cai-bang.html
– Dịch giả Nguyễn Hiến Lê (1912–1984). Ông là nhà văn, dịch giả, nhà nghiên cứu văn học… Ông đã sáng tác, biên soạn và dịch thuật nhiều cuốn sách từ Đông sang Tây thuộc
các lĩnh vực như giáo dục, văn học, ngữ học, triết học, lịch sử, du ký, gương danh nhân,
chính trị, kinh tế… Ông đã ấn hành khoảng một trăm tác phẩm biên khảo, sáng tác, dịch
thuật… về văn học, triết học, lịch sử, giáo dục, chính trị, kinh tế… đặc biết với guông
danh nhân và sách học làm người. Nhiều tác phẩm của ông được coi là “sách gối đầu
giường” cho giới trẻ.
Với các tác giả Tây Phương, ông đã dịch: Sống 24 Giờ Một Ngày của Arnold Bennett, ấn
hành ở Sài Gòn năm 1955; Kiếp Người của Somerset Maugham, năm 1962; Quê Hương
Tan Rã của C. Acheba, năm 1970; Cầu Sông Drina của I. Andritch, 1972; Thư Ngỏ Tuổi
Đôi Mươi của André Maurois, năm 1968; Thư Gởi Người Đàn Bà Không Quen của
André Maurois, 1970; Chinh Phục Hạnh Phúc của Bertrand Russell, 1971…
– Nhà văn Mặc Ðỗ (1917-2015). Ông tốt nghiệp luật song không hành nghề luật sư, làm
báo ngay từ Hà Nội với tờ Phổ Thông. Năm 1954, ông di cư vào Sài Gòn chủ trương
nhóm Quan Điểm và nhà xuất bản Quan Điểm
Người Vợ Cô Đơn (Thérèse Desqueyroux) của Francois Mauriac, Cảo Thơm 1966, Đất
Sống 1973); Tâm Cảnh của André Maurois, Văn 1967; Anh Môn (Alain-Fournier, Cảo
Thơm 1968); Một Giấc Mơ của Vicki Baum, Văn 1972; Con Người Hào Hoa (The Great
Gasby) của Francis Scott Fitzgerald; Vùng Đất Hoang Vu của Lev Tolstoy, Đất Sống
1973); Giờ Thứ 25 của C. Virgil Gheorghiu, Đất Sống 1973); Những Vinh Nhục Của
César Birotteau của Honoré de Balzac, Sài Gòn 1968.
– Tuy dịch vài tác phẩm nhưng được xem là tác phẩm dịch thuật có giá trị: Phùng Khành
& Phùng Thăng.
Dịch giả Phùng Khánh – Ni Sư Trí Hải (1938-2003) tên thật là Công Tằng Tôn Nữ Phùng
Khánh và dịch giả Phùng Thăng (1943-1975) là hai chị em ruột. Gia đình hoàng tộc rất
mộ đạo Phật. Thân phụ là cụ Nguyễn Phước Ứng Thiều, cháu nội của Tuy Lý Vương
Nguyễn Phước Miên Trinh.
Câu Chuyện Dòng Sông của Hermann Hesse (dịch chung với Phùng Khánh) năm 1965;
Buồn Nôn của J.P Sartre (Phùng Thăng dịch) năm 1967; Những Ruồi của J.P Sartre
(Phùng Thăng dịch) năm 1967; Sói Đồng Hoang của Hermann Hesse (Phùng Thăng dịch
chung với Chơn Hạnh) năm 1969. Kẻ Lạ Ở Thiên Đường của Simone Weil (Phùng
Thăng dịch). Tác phẩm nầy ấn hành năm 1973, trong phần giới thiệu, dịch giả bày tỏ tất
cả nỗi lòng tiềm ẩn (*).
(* Cùng tác gia trong bài viết Dịch Giả Phùng Thăng, Giáo Sư Triết Trung Học Trần Quý
Cáp Hội An trên trang web Việt Báo: https://vietbao.com/a309899/dich-gia-phung-thang-
1943-1975-co-giao-su-triet-trung-hoc-tran-quy-cap-hoi-an ).
– Dịch giả Trần Thiện Đạo (1933-2017) du học ở Pháp năm 1950 và định cư ở đây. Ông
là dịch giả, nhà văn và nhà phê bình văn học.
Ông đã dịch các tác phẩm: Cậu Hoàng Con (Le Petit Prince) của Saint Exupéry, Giao
Cảm (Noces) của Albert Camus, Bề Trái và Bề Mặt (L'Envers Et L'Endroit) của Albert
Camus, Tiểu Luận Của Albert Camus, Sa Đọa (La Chute) của Albert Camus, Kín Cửa
(Huis Clos) của Jean Paul Sartre, Phấn Đấu Cho Một Nền Tiểu Thuyết Mới (Pour un
Nouveau Roman) của Alain Robbe Grillet, Im Lặng Của Biển Cả (Le Silence De La Mer)
của Jean Bruller Vercors, Zadig của Voltaire, Ao Quỷ (La Mare Au Diable) của George
Sand,…
Ông đã nhiều lần lên tiếng về bản dịch văn học, điển hình như 50 trang phê phán Những
Ruồi (1967) của Phùng Thăng dịch Les Mouches của Jean-Paul Sartre. Ông phê phán
những câu văn dịch quá nô lệ ngoại ngữ nguyên tác. Điều nầy thể hiện sự thật trọng với
người dịch để có tác phẩm dịch thuật giá trị.
– Giáo sư Đỗ Khánh Hoan tốt nghiệp đại học Sydney, Úc, tiến sĩ văn chương đại học
Columbia, Mỹ. Giáo sư Anh Văn trường trung học Chu Văn An và trưởng ban Anh văn
đại học Văn khoa Sài Gòn.
Ông là người đầu tiên dịch và giới thiệu ba tập thơ của thi sĩ Ấn độ R. Tagore: Tâm Tình
Hiến Dâng (The Gardener) NXB An Tiêm, 1969; Lời Dâng & Tặng Vật, An Tiêm, 1972
(Thi hào Tagore 1981-1941, người đầu tiên Á Châu được giải Nobel Văn Chương năm
1913).
Dịch giả Đỗ Khánh Hoan biết nhiều ngoại ngũ nên đã dịch trường ca của Homer (Iliad và
Odyssey) với hơn 30,000 câu thơ trực tiếp từ tiếng Hy Lạp, Don Quixote từ tiếng Tây
Ban Nha, Yến Hội của Platon, Chân Dung Chàng Nghệ Sĩ Trẻ (J. Joyce), Bi Kịch
Shakespeare, Khung Trời Nhỏ Hẹp (S. Maugham), Cây Đàn Miến Điện (T. Michio),
Truyện Ngắn (A. Chekhov), Nông Trại Súc Vật (G. Orwell)…
– Nhà thơ Hoài Khanh (1934-2016), tự học, tự trau dồi sinh ngữ trở thành dịch giả, chủ
trương nhà xuất bản Ca Dao.
Với các tác phẩm dịch thuật tiêu biểu với 3 tác phẩm của của Herman Hesse: Hành Trình
Sang Đông Phương, 1967; Giáo Dục & Ý Nghĩa Cuộc Sống của Krishnamurti, 1969;
Nghệ Thuật Truyền Thống & Chân Lý của Walter Kaufmann, 1967; Tuổi Trẻ Băn
Khoăn, 1968; Quê Hương Tan Rã (Things Fall Apart của Chinua Achebe) Hoài Khanh và
Nguyễn Hiến Lê dịch, năm 1970; Đâu Mái Nhà Xưa, 1973.
Về âm nhạc với những tác phẩm Mozart: Cuộc Đời & Sự Nghiệp của Percy M.Young,
1972; Tchaikovsky: Cuộc Đời & Nghệ Thuật của Percy M.Young, 1972; Beethoven: Một
Phiến Tài Tình Thiên Cổ Lụy của J.W.N. Sullivan, Ca Dao xuất bản 1972… Sau khi đọc
và đem khắc ván in Kim Vân Kiều tân truyện ở phố Hàng Gai, Hà Nội, học giả Phạm
Quý Thích (1760-1825) – bạn của nhà thơ Nguyễn Du – viết bài “Thính Đoạn Trường
Tân Thanh Hữu Cảm”. Bài thơ có hai câu cuối:
“… Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy
Tân Thanh đáo để vị thùy thương”.
Hoài Khanh lấy câu đối để làm tựa đề cho tác phẩm quá tuyệt. Tôi tích nhạc cổ điển Tây
Phương nên cũng “nghiền ngẫm” các tác phẩm dịch thuật nầy.
– Huỳnh Phan Anh (1940 – 2020), nhà văn, dạy triết ở các trường trung học. Các tác
phẩm dịch thuât: Chuông Gọi Hồn Ai của Ernest Hemingway, 1972; Chuyến Viễn Hành
Trong Đêm của Heinrich Böll, 1973); Tình Yêu & Tuổi Trẻ của Valery Larbaud, 1973),
Tình Yêu & Lý Tưởng của Thomas Mann, 1974), Tình Yêu Bên Vực Thẳm của E. M.
Remarque; Tình Cuồng của Raymond Radiguet, dịch chung với Nguyễn Nhật Duật,
1973)…
Huỳnh Phan Anh chủ trương nhóm Đêm Trắng cùng với nhà xuất bản Đêm Trắng, ông
công tác với tạp chí Văn, tạp chí Vấn Đề, Khởi Hành… và đóng góp nhiều tiểu luận phê
bình cho các tạp chí này.
Sau năm 1975, ông ở lại Sài Gòn, dịch các tác phẩm của André Maurois, Georges
Simenon, Ernest Hemingway, Saint Exupéry, Erich Maria Remarque, Thomas Mann,
Claude Simon, Jostein Gaarder, Jean-René Huguenin, Arthur Rimbaud, Anne Philipe…
Năm 2002 Huỳnh Phan Anh định cư ở Mỹ, qua đời năm 2020 tại San Jose. Thọ 80 tuổi
(1940-2020).
– Nhà văn Hoàng Hải Thủy (1933-2020), năm 1952 được Giải Nhất Cuộc Thi Truyện
Ngắn của nhật báo Tiếng Dội. Ông chuyên phóng tác các tác phẩm ngoại quốc, điển hình
như Đỉnh Gió Hú (Wuthering Heights) của Emily Bronté; Chiếc Hôn Tử Biệt, (A Kiss
Before Dying) của Ira Levin; Đi Tìm Người Yêu (The Citadel) của A.J Cronin; Bóng
Người Áo Trắng (The Lady in White) của Wilkie Collins; Tìm Em Nơi Thiên Đường
(My Cousin Rachel của Daphne du Maurier); Anh Gù Nhà Thờ Đức Bà (Le Bossu de
Notre Dame) của Alexandre Dumas; Tiếng Ca Cá Sấu (Never Find Sanctuary); Yêu Mệt
(Le Repos du Guerrier của Lowell Bair – phóng tác 1969), Người Yêu, Người Giết (Le
Deuxième Souffle) của Rotten Tomatoes; … Hay nhất là tác phẩm Kiều Giang (Jane
Eyre) của Charlotte Brontë.
Tác phẩm One Hundred Years of Solitude (Cent Ans de Solitude) Garcia Marquez dày
khoảng 800 trang, ông bỏ ra 60 ngày dịch là Trăm Năm Hiu Quạnh… nhưng khi đưa đi
kiểm duyệt bị cấm vì Garcia Marquez “thân Cộng, chống chiến tranh Việt Nam, chống
Mỹ”…
Ông là nhà văn, nhà báo có sức viết mạnh nhất ở miền Nam VN, có khi chỉ một năm, ông
vừa viết vừa phóng tác và ấn hành đến bảy tác phẩm. Ông có nhiều bút hiệu, khi định cư
ở Virginia, với bút hiệu Công Tử Hà Đông, mỗi tuần viết một bài trong chủ đề “Viết Ở
Rừng Phong” tổng cộng 700 bài.
(*) VTrD bài viết Nhà Văn Hoàng Hải Thủy “Vĩnh Biệt Rừng Phong”! trang web Việt
Báo:
https://vietbao.com/a306042/nha-van-hoang-hai-thuy-vinh-biet-rung-phong-
*
C.- Chủ Nghĩa Hiện Sinh: Triết Học & Văn Học
Vào thời kỳ Hy Lạp cổ đại (trước công nguyên), các trường phái triết học xuất hiện nổi
tiếng với các nhà toán học như: Thalès (624-547), Pythagore (570-496) rồi đến Héraclite
(544-483), Xénophone (570-478), Parménide (540-470), Sophocles (496-406),
Empédocle (490-430), Aristophanes (445-385)… Nổi tiếng và ảnh hưởng lớn tư tưởng
triết học cho đến nay như: Socrate (469-399) với Chủ Nghĩa Duy Tâm, Platon (428-348,
học trò của Socarte), Democrite (460-370, Chủ Nghĩa Duy Vật)…
Trải qua hai thiên niên kỷ, các trường phái triết học Âu Châu mới được thình hành với:
Chủ Nghĩa Duy Tâm (chủ quan & khách quan), Chủ Nghĩa Hiện Thực, Chủ Nghĩa Duy
Danh, Chủ Nghĩa Duy Lý (khai thác từ Parménide, triết gia, nhà toán học Pháp René
Descartes (1596–1650) được xem là cha đẻ của triết học hiện đại), Chủ Nghĩa Kinh
Nghiệm… Chủ Nghĩa Hoài Nghi (điển hình Blaise Pascal 1623-1662) cuốn Pensées là
một kiệt tác), David Hume (1711-1776) ông được coi như là sáng lập ra trường phái thực
nghiệm của Anh (British Empiricism), Chủ Nghĩa Lý Tưởng (điển hình với George
Berkeley (1685- 1753) với quan niệm “Esse est Percipi” (tồn tại là được tri giác), dựa vào
đó Friedrich Hegel (1770-1831), Karl Marx (1818-1883) khai thác cho chủ thuyết của họ,
Chủ Nghĩa Thực Dụng với hai triết gia Mỹ Charles Peirce (1839-1914) và William James
(1842- 1910) ảnh hưởng sang Âu Châu… Và đến Chủ Nghĩa Hiện Sinh.
Ảnh hưởng quan trọng nhất của từ Tây Phương đến miền Nam VN với Chủ Nghĩa Hiện
Sinh (Existentialism), ra đời ở Đức cuối chiến tranh thế giới thứ nhất với chủ thuyết về
Hiện Tượng Luận (như đã đề cập ở trên) với Martin Heidegger (1889-1976) và Karl
Jasper (1883-1969), Merleau Ponty (1908-1961) sau đó Chủ Nghĩa Hiện Sinh phổ biến
rộng rãi với Jean Paul Sartre (1905-1980), Garbie Marcel (1889-1978) với Le Mystère de
l'Être (Huyền Nhiệm Hữu Thể), Être et Avoir (Hiện Hữu & Sở Hữu) (1918-1933), Albert
Camus (1913-1960), … Từ triết học liên quan và ảnh hưởng đến văn học với các nhà văn
đề cao về Chủ Nghĩa Hiện Sinh.
Như đã đề cập ở trên trong Nobel Văn Chương Tây Phương & Tác Phẩm Dịch Thuật, hai
nhà văn nầy có ảnh hưởng sâu đậm và qua những tác phẩm được phổ biến trên thế giới.
Sartre không những là lý thuyết gia mà còn dùng tác phẩm văn chương để nói lên quan
điểm nên ảnh hưởng sâu rộng đến cuộc sống trong xã hội, đặc biệt là trong giới trẻ. Ngay
tự đề La Nausée (Buồn Non) nói lên phi lý trong cuộc sống vô nghĩa, không có câu trả
lời.
Tác phẩm L’Étranger (Người Xa Lạ) mô tả hình ảnh của chàng trai vô cảm không hề nhỏ
một giọt nước mắt trong đám tang của mẹ mình. Khi gây ra án mạng chàng không hiểu vì
sao bản thân mình lại bóp cò. Sau khi bị kết án, chàng lại an ủi mình rằng “dù sao, đời
cũng không đáng sống”. Cuối cùng ở ngục tù, chàng mong rằng vào ngày chịu tử hình, sẽ
có một đám đông người tới coi, họ sẽ chào đón chàng.
Trong cuộc sống, loại người nầy cũng thường xảy ra, gọi là bệnh tâm thần (Pháp:
Maladie Mentale, Anh: Mental Illness). Tài hoa của nhà văn là biến mẩu người bất bình
thường trong tác phẩm L’Étranger trong thực tại xã hội.
Những tác phẩm của Albert Camus vào thập niên 60 được dịch ra tiếng Việt và không xa
lạ gì với độc giả ở miền Nam VN. Bùi Giáng dịch nhiều tác phẩm của Albert Camus như:
Le Malentendu (Ngộ Nhận), Caligula (Bạo Chúa Caligula), L’Été (Mùa Hè, nhan đề Mùa
Hè Sa Mạc, Le Mythe de Sisyphe (Huyền Thoại Sisyphe), nhan đề Biển Đông Xe Cát,
L’Homme Révolté (Con Người Phản Kháng)…
La Chute (Sa Đọa), Djémila (Gió Về), L’Envers et L’Endroit (Bề Trái & Bề Mặt), Noces
(Giao Cảm), Trần Thiện Đạo dịch. La Femme Adultère (Người Đàn Bà Ngoại Tình),
Nguyễn Văn Trung dịch, L’Exil et le Royaume (Lưu Đầy & Quê Nhà), Trần Phong Giao
và Vũ Đình Lưu dịch… Tác phẩm La Peste (Dịch Hạch), Hoàng Văn Đức dịch, 1966; Võ
Văn Dung dịch, 1971…
Có thể nói, sau hai cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Kẻ Xa Lạ (1942) và Dịch Hạch (1947), thì
tiểu luận Thần Thoại Sisyphus (Le Mythe de Sisyphe, 1942) là tác phẩm quan trọng bậc
nhất của Albert Camus.
Thần thoại về Sisyphus, tiểu luận triết học của Albert Camus với lập luận của điều phi lý
từ thời cổ đại xa xưa vẫn tồn đọng trong thời kỳ của Albert Camus. Tựa đề tiểu luận, vốn
là tên trong chương sau cùng, được gợi dẫn từ câu chuyện của chàng Sisyphus trong thần
thoại Hy Lạp. Theo đó, bắt đầu từ lập luận phi lý rằng đời sống của mỗi cá nhân, ngay cả
những cá nhân tự xác định cho mình một lý tưởng, mục đích cao đẹp, thường bị vây bủa
trong những hành động đôi khi rất hoài công và vô vọng. Vì vậy quan niệm về phi lý đã
bàng bạc trong tác phẩm cùa Albert Camus (*)
(* VTrD, trích trong bài viết Người Xa Lạ… Giữa Chúng Ta trên trang web https://t-
van.net/vuong-trng-duong-tan-man-dau-nam-2022-nguoi-xa-la-giua-chng-ta/ )
Jean Paul Sartre (1905-1980) được trao giải Nobel Văn Chương năm 1964 nhưng ông từ
chối và cho rằng “Một nhà văn không nên cho phép mình trở thành người của một tổ
chức”. Ông là triết gia nên đem tư tưởng “xiển dương” vào văn chương để quảng bá.
Những tác phẩm của ông đã được dịch: La Nausée (Buồn Nôn), Les Mouches (Những
Ruồi) Phùng Thăng dịch, Huis Clos (Kín Cửa) Trần Thiện Đạo dịch, Les Jeux sont faits
(Sự Đã Rồi), Nguyễn Xuân Hoàng & Trần Phong Giao dịch; Le Mur (Bức Tường);
L'Être et le Néant (Hiện Hữu & Hư Không),
Đề cập đến J.P Sartre, nói thêm về học giả, triết gia Trần Đức Thảo (1917-1993).
Trong quyển Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc của Hoàng Văn Chí, ấn hành năm 1959 tại
Sài Gòn được xem là tài liệu đầu tiên viết về văn nghệ sỹ ở miền Bắc sau năm 1954:
Chương 12: Các nhà học giả, theo tác giả Hoàng Văn Chí: “Lúc ông còn học ở trường
Lycée Albert Sarraut, ông đã tỏ ra hết sức thông minh. Các thầy dạy ông, nhất là ông Ner
đã kêu lên là không chấm nổi bài của ông. Ông đỗ tú tài triết học năm 1935, và năm sau
ông đỗ đầu trong kỳ thi vào trường Normale Supérieure ở bên Pháp. Sau đó ông đỗ thạc
sĩ về triết học và dạy ở Sorbonne.
Ở bên Pháp ông nghiên cứu thêm về triết học, xã hội học, viết nhiều bài trong các tạp chí
văn học. Lúc đầu ông theo chủ nghĩa “Existentialisme” của Jean Paul Sartre, nhưng từ
1946 ông thiên về chủ nghĩa Mác, gia nhập Đảng Cộng Sản Pháp, và viết báo đả kích ông
Jean Paul Sartre. Ông này kiện ông tại toà, nhưng toà chưa xử, thì ông Thảo đáp tầu đi
Mạc Tư Khoa, rồi thẳng đường về Bắc Việt (năm 1951).
Về đến nhà, ông bị giữ trong một khu rừng hẻo lánh trong chiến khu Việt Bắc và công tác
người ta giao cho ông là dịch những truyền đơn địch vận từ tiếng Việt sang tiếng Pháp…
Trần Đức Thảo là điển hình của một nhà trí thức say mê chủ nghĩa cộng sản vì nghiên
cứu chủ nghĩa ấy trên sách vở. Sự say mê đó đã tiêu tan từ ngày ông bước chân về nước
và ngày nay sau kinh nghiệm Cải Cách Ruộng Đất ông đã hoàn toàn tỉnh ngộ…
Mặc dầu ông Thảo đã hy sinh địa vị cao quý ở Pháp để trở về nước tham gia kháng chiến,
ngày nay ông vẫn bị quy là phản động số một, tay sai của đế quốc”>
Trần Đức Thảo đậu thủ khoa Thạc Sĩ Triết Học (Arégation de Philosophie) tại Pháp lúc
mới 26 tuổi vào năm 1942. (Trước năm 1975 ở miền Nam VN, văn bằng Agrégé gọi là
Thạc Sĩ, sau nầy ở trong nước văn bằng Master chỉ là Cao Học nhưng gọi là Thạc Sĩ).
Với luận án Phương Pháp Hiện Tượng Luận Của Husserl, ông được xem là triết gia về
lãnh vực nầy.
Cuối năm 1951 ông trở về miền Bắc, năm 1956-1957, ông bị liên lụy trong phong trào
Nhân Văn – Giai Phẩm khi công bố hai bài báo bàn đến một số vấn đề về tự do, dân chủ.
Ông không được trọng dụng và dần dà bị thất sủng từ đó cho đến năm 1991, ông sang
Pháp chữa bệnh, mất tại Paris năm 1993. Ông viết cuốn tiểu luận Triết Lý Đi Về Đâu (in
ở Pháp năm 1950) để phản biện với J.B Sartre, quyển sách nầy trước năm 1975 đại học
Văn Khoa Sài Gòn có in cho sinh viên nghiên cứu. Trần Đức Thảo nổi tiếng khi tranh cãi
với Jean-Paul Sartre trên tạp chí Les Temps Modemes ở Pháp được đánh giá ở thế thượng
phong.
Hồi ký Trần Đức Thảo: Những Lời Trăng Trối (Trăng viết có chữ g) do nhà báo Tri Vũ
Phan Ngọc Khuê thực hiện, ấn hành tại Hoa Kỳ năm 2014, dày 436 trang. Hiện có bán
trên Amazon. Đây là tài liệu trung thực trong quãng đời 40 năm của ông ở Việt Nam…
một nhân tài về triết học và chứng nhân thời đại.
– Nhà văn Simone de Beauvoir (1908-1986) với cuộc tình giữa bà và Jean Paul Sartre,
không chính thức đã gây nhiều bút mực. Trong khoảng 30 tác phẩm thì cuốn Deuxième
Sexe ấn hành 1949 đã trở thành đề tài gây tranh cãi, phê phán thái độ kiềm toả của gia
đình và xã hội gây ra sự bất bình đẳng giữa nam nữ.
Các tạp chí văn học ở Sài Gòn đã viết nhiều bài về Simone de Beauvoir nhưng (hình như)
chưa có dịch phẩm nào ấn hành.
Trong cuộc trò chuyện Giữa Đất Trời Giao Hưởng giữa Thụy Khuê và Hồ Trường An
cùng ở Pháp khi đề cập đến Simone de Beauvoir vào năm 2006. Thụy Khuê nhận định:
“Tư tưởng của Simone de Beauvoir đã dẫn đầu cho phong trào “giải phóng” phụ nữ trên
thế giới. Nói đúng hơn, nhờ triết thuyết của Beauvoir mà cả một thế hệ phụ nữ, đã tự giải
phóng mình ra khỏi những kiềm toả của gia đình và xã hội…
Beauvoir cho rằng chỉ có thể chấm dứt tình trạng nam nữ bất bình đẳng, nếu người phụ
nữ tự ý thức được quyền lợi và trách nhiệm của mình, đạp đổ những phỉnh lừa và áp đặt
trong giáo dục gia đình và xã hội. Một khi đã ý thức được, thì chính người phụ nữ sẽ tìm
cách tháo gỡ, tự lập, không hạ mình để trở thành femme-objet, được người đàn ông cung
phụng, nhưng đồng thời cũng trở thành nô lệ…”
– Nhà văn Pháp Françoise Sagan (1935-2004), gần 50 tác phẩm văn chương của bà trong
đó có một số theo trào lưu hiện sinh đã ảnh hưởng từ phương Tây đến miền Nam VN.
Nhiều bài viết về tư tưởng của bà đồng tính luyến ái (tuy lập gia đình), phóng túng, tự do,
thác loạn, sống buông thả… qua những bài viết trên các tạp chí ở Sài Gòn đã một thời
gây sóng gió.
Tác phẩm đầu tay vào năm 1954 Bonjour Tristesse (Buồn Ơi Chào Mi) do Nguyễn Vỹ
dịch năm 1959 và sau đó những tác phẩm của bà được phổ biến qua các dịch phẩm: Lê
Huy Oanh dịch Buồn Ơi, Bắt Tay) ấn hành năm 1970. Tác phẩm Un Certain Sourire (Có
Một Nụ Cười) do Nguyễn Minh Hoàng dịch; Dans un Mois, dans un An (Một Tháng
Nữa, Một Năm Nữa) Bửu Ý dịch năm 1973; Les Merveilles Nuages (Những Đám Mây
Huyền Diệu), Đinh Bá Kha dịch năm 1973… Un Peu de Soleil dans l'Eau Froide (Chút
Mặt Trời Trong Nước Lạnh); Aimez-vous Brahms? (Anh có yêu Brahms?)…
Giữa thập niên 60, những nhà văn nữ Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị
Hoàng (Hoàng Đông Phương), Lệ Hằng qua vài tác phẩm, nhiều người cho rằng đã ảnh
hưởng phần nào trào lưu hiện sinh của Francoise Sagan.
Tuy ở trong hoàn cảnh chiến tranh nhưng nền tản tự do tại miền Nam đã cho phép các lý
thuyết, trào lưu văn học này được giới thiệu và phát triển ở đây, thậm chí với những
khuynh hướng trái chiều nhau.
Lý thuyết và chủ nghĩa hiện sinh không chỉ được phổ biến ở đại học còn xuất hiện trong
sách báo, tác phẩm văn chương. Ngay cả trào lưu Hippie thịnh hành ở Sài Gòn với các
ăm mặc, đầu tóc xuề xòa, nhạc rock, rượu chè… tuy có vẻ lập dị nhưng cũng không bị
cấm đoán.
Vào thế kỷ 19 được coi là “Thời Kỳ Hoàng Kim” của văn học Nga (nửa thuộc Âu, nửa
thuộc Á). Những nhà văn nổi tiếng trong thời kỳ nầy với nhiều tác phẩm được dịch sang
tiếng Pháp, tiếng Anh nên được phổ biến trên thế giới. Điển hình với hai nhà văn Fyodor
Dostoyevsky và Leo Tolstoy, vài tác phẩm đã được dịch tiếng Việt vào tiến bán thế kỷ
XX và sau nầy ở miền Nam VN.
Nhà văn Fyodor Dostoyevsky (1821-1881) tác phẩm Crime and Punishment, Crime et
Châtiment (Tội Ác & Hình Phạt); The Possessed, Les Possédés (Lũ Người Quỷ Ám);
Notes from Underground; Les Carnets du Sous-sol (Thạch Chương, nhạc sĩ Cung Tiến
dịch Hồi Ký Viết Dưới Đường Hầm)…
Nhà văn Leo Tolstoy (1828-1910) với The Brothers Karamazov, Les Frères Karamazov
(Anh Em Nhà Karamazov); War and Peace (Chiến Tranh & Hòa Bình)…
Các nhà văn trong thời kỳ Liên Xô hầu như không dịch các tác phẩm của các nhà văn
phục vụ cho chế độ. Chỉ có nhà văn Boris Pasternak (1890-1960). Tác phẩm Bác Sĩ
Zhivago ra đời năm 1957 (tiếng Anh: Doctor Zhivago, tiếng Pháp: Docteur Jivago) được
giải Nobel Văn Chương năm 1958 nhưng tác giả đang sống trong chế độ CS Liên Xô nên
không được sang Thụy Điển nhận giải và bị Hội Các Nhà Văn Xô Viết (The Soviet
Writers Union) kết tội là kẻ phản động, loại ra khỏi tổ chức!. (Tháng 12 năm 1989, con
trai của Boris Pasternak là nhà văn Evguenii đã được mời sang Thuỵ Điển nhận giải
thưởng thay ông, với những nghi thức long trọng như lễ trao giải chính thức)…
(Nguồn tin cũng cho rằng trong danh sách các ứng cử viên của giải Nobel Văn Chương
lúc đó còn có nhà văn Mikhail Solokhov nhưng không được đoạt giải. Sông Đông êm
đềm (Tikhy Don) là bộ tiểu thuyết vĩ đại nhất của nhà văn Nga Mikhail Aleksandrovich
Sholokhov. Với tác phẩm này, Sholokhov đã được tặng Giải Nobel văn học năm 1965.
Tác phẩm Dr. Zhivago đã được Trường Văn và Song Tích phỏng dịch năm 1959 nên độc
giả ở Miền Nam VN đã biết qua vì vậy khi cuốn phim nầy được trình chiếu, trở thành
hiện tượng, khán giả đợi chờ, sắp hàng mua vé. Tựa đề cuốn phim (hình như Mai Thảo
đặt) Vĩnh Biệt Tình Em. Sau đó bản dịch Bác Sĩ Zhivago, Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn
Hóa xuất bản, 1969. Vĩnh Biệt Tình Em, Nguyễn Hữu Hiệu dịch, Sài Gòn, Tổ hợp Gió,
1974. Bác sĩ Zhivago, Nguyễn Hữu Hiệu dịch, Sài Gòn, nhà xuất bản Hoàng Hạc, đầu
năm 1975.
Trong tác phẩm nầy, tôi cảm hứng viết bài: Lara, Người Tình Muôn Thuở, nhân vật nữ
trong tác phẩm Bác Sĩ Zhivago.
(VTrD, trang web Việt Báo: https://vietbao.com/a291720/lara-nguoi-tinh-muon-thuo
Cho đến khi Alexander Solzhenitsyn được giải Nobel Văn Chương năm 1970 và bị trục
xuất ra khỏi Liên Xô. Hầu hết các tác phẩm của ông đã được dịch ra tiếng Việt. Bài viết
“Solzhenitsyn, Chiến Hữu Văn Nghệ” của tôi đăng tải trên Đặc San Ức Trai của Trường
ĐH.CTCT Đà Lạt năm 1974 đề cập đến những tác phẩm của ông. Khi ở Mỹ tôi đã viết lại
(VTrD bài còn lưu trữ trên trang web T.Vấn & Bạn Hữu: https://t-van.net/vuong-trng-
duong-alexander-solzhenitsyn-chien-huu-van-nghe/
Kết
Tổng Quan Về Sách Dịch Văn Học… chỉ đề cập đến một số tác giả tiêu biểu ở những
quốc gia trong khu vực Tây Phương được các dịch giả nêu trên (cũng chỉ là tiêu biểu) vì
có rất nhiều dịch giả đã đóng góp trong hai thập niện (1954-1975) ở miền Nam Việt Nam
không thể nào liệt kê hết. Hầu hết các tác phẩm của những quốc gia với nguyên tác của
đất nước họ được dịch ra tiếng Pháp, tiếng Anh nên các dịch giả ở miền Nam VN dựa
theo bản dịch đó.
Thật ra, việc sưu tầm tài liệu để viết về đề tài nầy, nếu ở trong nước có thể tham khảo
trong các thư viện (nhưng hình như sau năm 1975, một số đã bị loại) may ra ở các nơi
bán sách cũ…
Tại Mỹ, đại học Cornell, tiểu bang New York, với hệ thống thư viện rất lớn (gồm trên 20
thư viện; với công trình sưu tập khổng lồ là trên 7 triệu tài liệu in (printed materials, gồm
cả sách và tạp chí) và nhiều lãnh vực khác trên thế giới. Với tài liệu của miền Nam VN
may mắn được lưu trữ nơi đây. Trong hai thập niên (1991-2022) nhà văn Trần Hoài Thư
nhờ tài liệu ở các thư viện nầy đã thực hiện được 100 tập san Thư Quán Bản Thảo, làm
sống lại văn chương miền Nam.
Với tôi, đây không phải là biên khảo hoàn chỉnh mà là bài viết theo sự gợi ý của GS
Thomas Engelbert, Trưởng Khoa Việt Học và Viện Nghiên Cứu Á Phi, thuộc Đại học
Hamburg… qua phần dịch ra ngoại ngữ của ông (ông thông thạo rất nhiều ngoại ngữ,
trong đó có 3 Việt, Miên, Lào).
Trong thời gian qua, ông và tôi thường liên lạc với nhau qua email, ông am tường và
thích nền văn học ở miền Nam VN, có những câu hỏi của ông về vài nhà văn mà tôi
không thể ngờ ông đã đọc và đặt ra các câu hỏi.
Miền Nam Việt Nam trong 20 năm lâm vào hoàn cảnh chiến tranh nhưng trong lãnh vực
Văn Học Nghệ Thuật, Dịch Thuật đã cống hiến cho nền Văn Hóa đa dạng, phong phú là
niềm hãnh diện vô cùng cho đất nước.
Vương Trùng Dương