Đã 43 năm trôi qua, sự việc như mới ngày nào, vì vết thương đau nhức trong lòng người Việt quá sâu….bài viết của Trần Đông Phong sưu tầm những sự kiện mười (10) ngày cuối cùng của Tháng Tư Đen năm 1975. Dưới đây là diễn tiến ngày 28, 29 và 30/04/1975 – Ngày đau thương nhất của lịch sử dân tộc!
NGÀY THỨ HAI: 28/4/1975
“Trao Quyền” Cho Dương Văn Minh
Có một số tác giả và cả Frank Snepp trong cuốn Decent Interval đã nói rằng Cụ Trần Văn Hương có ao ước được làm tổng thống trong một tuần lễ, do đó Cụ muốn kéo dài cho đến chiều 28 tháng 4 mới giao quyền lại cho ông Dương Văn Minh để cho thời gian Cụ làm đúng 7 ngày như Cụ từng ao ước.
Điều này hoàn toàn không đúng vì người quyết định làm lễ bàn giao vào ngày hôm sau chính là Dương Văn Minh. Ông Trần Văn Đôn có kể lại trong Việt Nam Nhân Chứng rằng tối hôm trước ông có nói với ông Dương Văn Minh là nên “nhận liền nhiệm vụ để bắt tay vào việc” thì ông Minh nói rằng “5 giờ chiều mai”. Ông Đôn nhận xét rằng sở dĩ ông Minh muốn đợi đến 5 giờ chiều hôm sau là vì “ông coi ngày giờ tốt trước khi nhận việc”. Trong một bài được đăng trên báo diễn Đàn phụ Nữ, ông Trần Văn Lắm, cựu chủ Tịch Thượng Viện đã kể lại với Tiến sĩ Lâm Lễ Trinh rằng tối 27 tháng 4, ông Lắm đến báo tin với Cụ Hương về việc Lưỡng Viện Quốc Hội đã biểu quyết đồng ý để TT Trần Văn Hương từ chức và trao quyền lại cho Dương Văn Minh rồi sau đó đến gặp ông Minh và đề nghị nên làm lễ bàn giao vào hồi 9 giờ sáng ngày hôm sau 28 tháng 4. Ông Lắm kể lại rằng ông Dương Văn Minh đi qua phòng bên cạnh để bàn luận với Trung Tướng Mai Hữu Xuân là người rất tin bói toán, sau đó ông Minh ra nói với ông Lắm rằng “9 giờ sáng không được tốt, bàn giao lúc 5 giờ rưỡi’ chiều đi”. *186 .
Ông Trần Văn Đính, thứ nam của Cố TT Trần Văn Hương quả quyết rằng Cụ Hương không bao giờ nói rằng Cụ “muốn làm tổng thống trong một tuần lễ” vì Cụ không bao giờ có ý muốn làm tổng thống và các ông Trần Văn Đôn, Trần Văn Lắm kể lại như trên thì việc bàn giao chức vụ tổng thống đúng một ngày sau khi quốc hội biểu quyết không phải là ý của Cụ Hương mà đó là quyết định của Dương Văn Minh vì quá tin vào tướng số và nghe theo lời cố vấn của Trung tướng Mai Hữu Xuân.
Theo Tiziani Terzant tác giả cuốn sách ” Giải phóng!: The Fall and Liberation of Saigon,” người ký giả Ý bị trục xuất ra khỏi Việt Nam trước đó ít lâu và vừa mới trở lại Sàigòn sau khi ông Thiệu từ chức, thì lễ bàn giao được thông báo với báo chí là sẽ diễn ra vào lúc 10 giờ sáng, sau đó lại được hoãn đến 3 giờ chiều và cuối cùng thì dời lại lúc 5 giờ chiều. Terzani nói rằng sở dĩ có sự trì hoãn như vậy là vì Dương Văn Minh gặp khó khăn trong việc thành lập tân chính phủ. Sau khi có tin Dương Văn Minh lên thay Cụ Trần Văn Hương, giới quan sát tại Sài gòn tiên đoán rằng hai người có thể được ông Minh chỉ định làm thủ tướng là Nghị sĩ Vũ Văn Mẫu theo phe Phật giáo Ấn Quang hay là Nghị sĩ Vũ Văn Huyền, thuộc phe Thiên chúa giáo. Cả hai người ai cũng muốn làm thủ tướng. Cuối cùng thì Dương Văn Minh chọn Nghị sĩ Vũ Văn Mẫu vì ông Mẫu là người có nhiều liên hệ đến phe Hoà giải Hoà Hợp Dân Tộc của Phật giáo Ấn Quang, còn Luật sư Nguyễn Văn Huyền thì làm Phó Tống thống.
Theo bài phóng sự tường thuật lễ bàn giao tổng thống tại Dinh Độc Lập chiều 28 tháng 4 năm 1975 của Đài Phát thanh Sài gòn thì buổi lễ bắt đầu vào lúc 5 giờ chiều với sự hiện diện của khoảng 200 người gồm đại diện Thượng và Hạ Viện, Tối Cao Pháp Viện, Giám Sát Viện và một số tổng bộ trưởng trong chính phủ Nguyễn Bá Cẩn. Trong buổi phóng sự truyền thanh cuối cùng này của đài Phát Thanh Sài gòn, phóng viên của đài nói rằng: “Thưa quý thính giả, vào lúc này thì bên ngoài Dinh Độc Lập, chúng tôi nhận thấy trời đã bắt đầu mưa và Sài gòn đang trải qua một buổi chiều u ám như hoàn cảnh hiện tại của đất nước” .
Trong bài diễn văn cuối cùng, Tổng thống Trần Văn Hương nói:
” Thưa quý vị,
“Bữa nay là cái ngày đã từ lâu rồi quý vị phải có mà ngày nay đã có, tức là đã đáp ứng nguyện vọng của tôi từ lâu rồi.
“Khi tổng thống tiền nhiệm trao nhiệm vụ cho tôi, tôi vẫn biết sức già, dầu muốn dầu không, tuổi trời đã cao, sức đã mòn, tất nhiên là không thể nào đảm trách được một nhiệm vụ lớn lao trong khi mà nước nhà đã trải qua một buổi khó khăn vô cùng không thể trưởng tượng được. Bởi vậy cho nên trong lòng tôi vốn mong mỏi rằng dầu thế nào cũng phải có được một người ra lãnh cái trách nhiệm này để lo cho việc nước. Gọi là cứu vớt phần nào, cái gì gọi là quyền lợi, cái gì gọi là danh dự của nước Việt Nam Cộng Hoà của chúng ta.
“Khi tôi đến trao đổi ý kiến với Đại tướng Dương Văn Minh, điểm làm tôi thắc mắc là điểm pháp lý bởi vì nếu tự nhiên tôi đem cái quyền của tôi trao lại cho Đại Tướng thì như vậy, về phương diện pháp lý, không hợp lý chút nào. Điểm đó, tôi cùng Đại tướng đã có thảo luận. Sau khi ra ngoài lưỡng viện tôi cũng có trình bày và lưỡng viện, sau khi thảo luận hai ngày thì đã tìm ra được giải pháp mà đây tôi tin là giải pháp đáp lại chỗ mong mỏi của mọi người.
“Thưa quý vị, điểm thắc mắc về pháp lý hết rồi thì về mặt đó chúng ta không còn băn khoăn chi nữa, thì dầu muốn dầu không cái chuyện lớn lao hiện giờ không còn là chuyện pháp lý nữa, thì việc làm sao cho nước VNCH dầu tình hình có khó khăn đến đâu đi nữa, thì cũng phải giữ phần nào cái danh dự của tổ tiên chúng ta.
“Thưa với Đại Tướng, dù muốn dù không, một chương lịch sử đã giờ qua rồi, những chương sẽ viết tới đây sẽ do nơi tay Đại Tướng mà bây giờ có hỏi ngay ra rằng Đại Tướng sẽ viết những gì, tôi thấy là Đại Tướng cũng băn khoăn, không thể trả lời. Nhưng tôi biết rằng với thiện chí của Đại Tướng đã sẵn có, thế nào việc làm sau này không đến nỗi phụ lòng tin cậy của tất cả đồng bào, của quốc hội đã hoàn toàn đặt nơi Đại tướng. Đường đi nó có khác, nó đã khác, bởi vì triều đại đã thay đổi. Chúng ta bây giờ không nghĩa là phải luôn luôn đổ xương máu, chúng ta không phải nghĩ là chúng ta phải đánh tới người chiến sĩ cuối cùng, tới viên đạn cuối cùng khi mà còn có một biện pháp nào, một giải pháp nào có thể đem lại hoà bình mà không đến nỗi tổn thương quá sức danh dự của nước nhà: Bởi vậy cho nên đường lối có lẽ là ở trong khuôn đặt sẵn như thế đó .
“Thưa với Đại Tướng, nhiệm vụ của Đại Tướng rất là nặng. Khi Đại tướng ra gánh vác việc này tôi thấy rõ ràng là Đại Tướng không những có một thiện chí không mà thôi, Đại Tướng còn phải có những can trường gì mới dám đảm nhận như vậy và tôi cũng mong mỏi thế nào cho Đại Tướng thành công. Vả lại, đặt lại vấn đề, giải pháp chiến đấu để giữ giải pháp dung hoà, ôn hoà, nghĩa là quên hết tất cả những gì gọi là căm thù để đem lại trước hết sự hoà giải, hòa hợp rồi tới hoà bình để cùng nhau sống yên mưu đồ chuyện tái tạo nước nhà. Theo tôi nghĩ, con đường là con đường đó.
“Thưa với Đại Tướng, xoá hận căm thù không phải là căm thù đối với ở ngoài, mà tôi cũng xin phép nói là chúng ta cũng nên xoá căm thù tất cả những gì gọi là căm thù ở bên trong. Trước kia, có lẽ những chỗ sai biệt đâm ra nếu là người Việt Nam thành thật thương nước, thì tất nhiên người đó dù muốn dù không cũng phải lo cho nước, yêu nước. Nhưng tiếc có một nỗi đồng sàng mà có nhiều khi dị mộng,cho nên nghĩ như vậy mà cái lòng nó nghĩ khác nhau. Việc làm khác nhau nên sinh ra xích mích, sanh ra đến cái chỗ có thể gọi là căm thù, thì tôi thành khẩn yêu cầu Đại Tướng bao nhiêu những việc gì có thể gọi là căm thù nội bộ, Đại Tướng vui lòng ráng thế nào xoá bỏ hết. Vả lại trong bộ máy của chế độ nào đều có những người phụng sự cho chế độ đó. Nếu chế độ kế tiếp mà còn nghĩ đến những việc trước, tìm ra chuyện ân oán giang hồ gây chuyện thù nữa, thì những người bất kỳ ở chế độ nào, tôi nghĩ làm sao mà dám tận tâm với chề độ đó khi nghĩ đến chề độ sau này có thể trả thù trả oán.
“Cái chỗ mong mõi của tôi là như thế và tôi cũng hết sức thành khẩn yêu cầu Đại Tướng nên nghĩ đến tiền đồ của nước nhà, nên nghĩ về sinh mạng, sống còn của đất nước này, làm thế nào cho việc hoà giải khởi sự trước ở trong nước này trước khi ra nước ngoài.
“Còn một điểm nữa có lẽ là điểm chót. Tất nhiên là Đại Tướng sẽ mang hết sức mình mà làm, nhưng tôi cũng nhìn nhận lòng mình dầu có thiện chí đến đâu nhưng sức mình nó có hạn. Đại Tướng cũng là người, Đại tướng không phải là một vị thiêng liêng nào có phép mầu cho nên chỉ phán một lời là mọi chuyện đều đấy như ý muốn được. Tất nhiên là Đại tướng phải ráng sức, chuyện Đại Tướng ráng sức mà thành công hay không thành công, đó là một việc tôi tưởng phần lớn không phải tùy nơi Đại Tướng. Nhưng nếu Đại tướng thành tâm vì nước để lo cho nước, ráng vãn hồi hoà bình lại để dân sống được yên, làm thế nào cho máu đừng đổ, thịt đừng rơi thì cái công của đãi tướng đối với hậu thế sẽ lưu lại đời đời. Dầu thế nào, tôi thiết nghĩ rằng không bao giờ mà đất nước này người ta có thể quên đại tướng.
Tôi xin cám ơn quý vị”. *187
TT Trần Văn Hương trao chức TT cho Dương Văn Minh ngày 27/04/1975
Trong Decent Interval, Frank Snepp cho biết trong cuốn Đại Thắng Mùa Xuân, Văn Tiến Dũng nói rằng “chiều 28 tháng 4 bộ tư lệnh chiến dịch Hồ chí Minh phân tích tình hình toàn bộ ờ Sài Gòn và thấy rằng phe địch rất hoang mang, bộ chỉ huy mất trật tự trong hai ngày đầu của chiến dịch, các mũi tiến quân của ta vẫn hoạt động theo đúng kế hoạch. Do đó Văn Tiến Dũng ra lệnh cho cuộc tổng tấn công phải được khởi sự vào sáng ngày 29/4 để tiến về Sài Gòn. Lệnh này đã được gởi đến mọi đơn vị cũng như thông báo cho Hà Nội. Tối hôm đó Lữ đoàn Chiến xa 203 của CSBV với nhiệm vụ tiến thẳng vào thủ đô Sài Gòn đã được lệnh xuất từ Biên Hoà, tắt đèn tiến theo quốc lộ số 1 hướng về Sài Gòn”* 191
TT Trần Văn Hương trao chức TT cho Dương Văn Minh ngày 27/04/1975
Trong khi Dương Văn Minh đang chuẩn bị tổ chức lễ trao quyền tại Dinh Độc Lập thì Cộng sản đã ra lệnh cho cựu trung úy không quân Nguyễn thành Trung, người sĩ quan phản bội đã lấy phi cơ A-37 oanh tạc Dinh Độc Lập vào hồi đầu tháng 4 rồi lái phi cơ theo Việt Cộng, hướng dẫn một đoàn năm chiếc phản lực cơ A-37 từ Nha Trang bay vào oanh tạc Sài gòn. Việc này có nghĩa là tuy đã được biết Dương Văn Minh sắp sửa lên nhận chức tổng thống để thương thuyết theo sự đòi hỏi của Cộng sản như ông ta đã rêu rao, những “người anh em bên kia” của ông vẫn ra lệnh cho phi cơ của chúng bay vào oanh tạc Sài gòn. Trong cuốn Đại Thắng mùa Xuân, Văn Tiến Dũng đã nói rằng “đó là một cuộc tấn công được phối hợp một cách tuyệt vời”.
Ngay sau khi Dương Văn Minh trở thành tổng thống VNCH, ngoài việc phi cơ của Cộng sản oanh kích, một cơn giông bão lớn chưa từng thấy đã trút xuống thành phố Sài Gòn với những tiếng sấm nổ còn lớn hơn cả tiếng pháo kích của hoả tiễn 122 ly của Cộng sản. Người dân Sài Gòn lúc đó nhiều người đã cho rằng đó là điềm trời, đó là “ông trời cũng khóc cho số phận của Miền Nam”.
Trong khi những người ủng hộ tân “Tổng Thống Dương Văn Minh đang rất lạc quan với viễn ảnh người được xem là một trong những nhân vật lãnh đạo hàng đầu của “lực lượng thứ ba” sẽ bắt đầu những cuộc thương thuyết với những “người anh em bên kia” để đem lại hòa bình cho phần còn lại của miền Nam thì Hà Nội lại xem ông Minh “không còn là dại diện cho lực lương thứ ba” nữa.
Ngay hôm đó, Bộ Chính Trị Đảng Lao Động đã gửi cho “anh Sáu Dân” tức là ông Võ Văn Kiệt cùng “P.10 và các Khu ủy, B.76, N. 50* là các Ban, Ngành” một bức điện văn khẩn Số 505/TV đề ngày 28 tháng 4 năm 1975 nói về việc Dương Văn Minh lên làm “tổng thống” như sau:
“1. Trước nguy cơ thất bại hoàn toàn, quân dân ta sắp đánh thẳng vào sào huyệt cuối cùng của chúng, đế quốc Mỹ đã thay Thiệu, nay thay Hương đưa Dương Văn Minh lên làm tổng thống với ý đồ thương lượng với ta hòng cứu vãn phần còn lại của chế độ Sài Gòn.
Dương Văn Minh ra nhận chức tổng thống trong lúc này không còn là đại diện cho lực lượng thứ ba… việc làm của Dương Văn Minh nằm trong âm mưu của Mỹ, đồng thời cũng phù hợp với lập trường chính trị của phe nhóm Minh là không muốn cho chế độ Sài Gòn sụp đổ hẳn, muốn ngăn cản thắng lợi quang vinh của dân tộc trong giờ phút lịch sử hiện nay.
“Ý đồ này đã thể hiện rõ trong nội dung bản tuyên bố của Dương Văn Minh khi nhận chức tổng thống lúc 16 giờ 50 ngày 28 tháng 4 trong đó không đả động gì đến Mỹ, không đề cập đến 2 yêu cầu cơ bản của ta nêu trong bản tuyên bố của Chính phủ cách mạng lâm thời ngày 26 tháng 4, lại kêu gọi ngừng bắn ngay tức khắc các cuộc tấn công lẫn nhau “, kêu gọi quân đội ngụy “giữ vững hàng ngũ, giữ vững vị trí” để hoàn thành nhiệm vụ mới là bảo vệ phần đất còn lại.
“kêu gọi ngừng tấn công, hòa giải, hòa hợp đòi thi hành hiệp định Pari một cách chung chung lúc này là thực hiện âm mưu của Mỹ, ngăn chận quân dân ta đánh sụp đỗ hoàn toàn chế độ thối nát Sài Gòn hiện nay.
2. Như thông tri số 10/TT.75 ngày 27 tháng 4 năm 1975 của Thường Vụ đã vạch rõ: “trong tình hình ngụy quyền đang trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn, bất cứ tên tay sai nào lên … dù có tuyên bố thi hành Hiệp định Paris, hòa bình, hòa hợp dân tộc hay thế nào đi nữa đều phục vụ cho âm mưu Mỹ, trở thành tay sai Mỹ”.
Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân kiên quyết thực hiện quyết tâm không gì lay chuyển của ta là đánh bại hoàn toàn Mỹ-Ngụy, đánh sụp chế độ thối nát Sài Gòn, công cụ của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, giải phóng toàn bộ miền Nam, thống nhất đất nước yêu quý của chúng ta. Chúng ta kiên quyết đẩy mạnh tân công và nổi dậy đến toàn thắng theo kế hoạch đã định, không có gì thay đổi.
Tình hình Hương đổ, Minh lên …, bọn tay sai và bộ máy kìm kẹp bên dưới càng hoang mang rệu rã chính là điều kiện rất thuận lợi cho ta để dành toàn thắng.
..Chỉ có một con đường đi đến hòa bình độc lập thật sự tự do dân chủ, cơm áo và hòa bình dân tộc là đập tan mọi âm mưu của Mỹ và lật đổ hoàn toàn ngụy quân, ngụy quyền, dành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân”*192
Trong khi tân “Tổng Thống” Dương Văn Minh đang thành lập tân nội các để chờ đợi nói chuyện với “người anh em bên kia” thì ông ta không biết rằng Cộng sản đã không còn xem ông ta như là đại diện của “lực lương thứ ba và tệ hại cho ông hơn nữa là họ xem việc ông nhận chức “tổng thống” như là “phục vụ cho âm mưu của Mỹ, trở thành tay sai của Mỹ và muốn ngăn cản thắng lợi quang vinh của dân tộc trong giờ phút lịch sử hiện nay”.
Cũng trong ngày Dương Văn Minh nhậm chức, tại Hà Nội, “anh Văn” tức Võ Nguyên Giáp đã đại diện cho Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương gửi điện văn số 135B/TK ngày 28 tháng 4 năm 1975 đến các cán bộ, chiến sĩ, đảng viên và đoàn viên tại miền Nam như sau:
“1. Các anh chuyển lời động viên vắn sau đây đến cán bộ và chiến sĩ, đảng viên và đoàn viên:
“Bộ Chính tri và Quân Ủy Trung ương gởi lời chào quyết thắng đến toàn thể cán bộ và chiến sĩ, đảng viên và đoàn viên, các đồng chí hãy anh dũng tiến lên giành toàn thắng cho chiến dịch lịch sử mang tên Bác Hồ vĩ đại “
2.Trong giờ phút lịch sử này, thường vụ Quân ủy chúc các anh khỏe và giành toàn thắng cho chiến dịch.
VĂN*193
Cộng sản Hà Nội không hề nhắc đến việc thương thuyết với tân “Tổng Thống” Dương Văn Minh của miền Nam cả.
——–
Chú thích:
*186: tuần báo Diễn Đàn Phụ Nữ số 161 năm 1997
*187 Nhật Báo Người Việt, số 5990 ngày 2 tháng 5 năm 2002
*188: Tiziano Terzani: sđd. trang 40-41.
*189: oliver Todd: sđd, trang 354
*190: Nguyễn Khắc Ngữ: Những Ngày cuối Cùng Của VNCH, Nhóm Nghiên Cứu Sử địa xuất bản, Montréal, Canada 1979, trang 350
*191: Frank Snepp: sđd, trang 470
* Ghi chú: P.10 là Sài Gòn-Gia Định, B.76 là Tây Ninh và N.50 là Bình Phước (Long An.)
*192 Văn kiện Đảng (CSVN): trang 320-321.
*193 Văn kiện Đảng (CSVN): trang 323
NGÀY THỨ BA: 29/4/1975
Vào lúc 4 giờ Sáng ngày 29, Cộng quân pháo kích nhiều trái đạn đại bác 130 ly và hoả tiễn 122 ly vào khu vực phi trường Tân Sơn Nhứt, Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH và Bộ Tư Lệnh Hải Quân ở Bến Bạch Đằng. Cuộc pháo kích này đã gây nhiều tổn thất quan trọng tại phi trường Tân Sơn Nhứt: một chiếc C-130 của Không Lực Hoa Kỳ bị trúng đạn khi sắp sửa cất cánh, hai chiếc C-130 khác chở người ty nạn may mắn đã cất cánh trước đó chừng vài ba phút và hai binh sĩ Thủy Quân lục Chiến Hoa Kỳ, hạ sĩ Darwin Judge và bạ sĩ Charles McMahon, vừa mới được đưa đến Sài Gòn cách đó 10 ngày để phụ trách về an ninh cho chiến dịch di tản Mỹ kiều, bị tử thương trong vòng đai phòng thủ phi trường. Hai binh sĩ này là hai người Mỹ cuối cùng bị thiệt mạng trong lịch sử Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam trong hai thập niên.
Một điều đáng chú ý là dường như McMahon là một cái tên định mệnh: người Mỹ đầu tiên bị chết tại Việt Nam là Trung Tá Peter Dewey, nhân viên của cơ quan tình báo OSS, là một người Mỹ rất ủng hộ Việt Minh, ông ta đã nhiều lần lên tiếng phản đối người Pháp và tiếp xúc trực tiếp với các đại diện của Việt Minh, do đó đã bị người Pháp yêu cầu phải rời khỏi Sài Gòn. Vào ngày 26 tháng 9 năm 1945, Trung Tá Dewey phải trở về Ấn Độ, tuy nhiên vì máy bay bị trục trặc, ông từ phi trường Tân Sơn Nhứt lái xe trở về Sài Gòn ăn trưa và đã bị tự vệ của Việt Minh tưởng lầm là người Pháp cho nên bắn chết tại cầu McMahon, lúc đó người Việt Nam gọi là cầu “Bạc Má Hồng”, sau này là cầu Công Lý. Đúng 30 năm sau thì người Mỹ cuối cùng bị giết chết tại phi trường Tân Sơn Nhứt vì đạn pháo kích của quân Cộng sản Bắc Việt vào rạng sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975 là một hạ sĩ quân đội Mỹ cũng mang tên là McMahon, cái tên mà người Việt ngày xưa đã gọi là “bạc má hồng”.
Sau trận pháo kích này, kế hoạch di tản người Mỹ và người Việt ty nạn bằng phi cơ C-130 xem như là bị huỷ bỏ hoàn toàn vì phi trường Tân Sơn Nhứt đã bị hư hại nặng nề.
Đến 10 giờ 30 sáng, Tướng Homer Smith, Tuỳ Viên Quân Lực tại Sài Gòn, gọi điện thoại cho Đô Đốc Noel Gayler, Tổng Tư Lệnh Quân lực Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương tại Honolulu báo cáo rằng phi trường Tân Sơn Nhứt không còn ở trong tình trạng sử dụng được nữa. Tin này được trình lên cho Bộ Trưởng Quốc Phòng James Schlesinger đang tham dự phiên họp đặc biệt của Hội Đồng Nội Các tại Bạch Cung và ông ta đã phúc trình ngay cho Tổng Thống Ford. Vào lúc 7 giờ sáng tại Washington tức là 7 giờ tối tại Sài Gòn, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia đã triệu tập một phiên họp khẩn cấp dưới quyền chủ toạ của Tổng Thống Gerald Ford với sự hiện diện của Ngoại Trưởng Henry Kissinger, Bộ Trưởng Quốc Phòng James Schlesinger, Đại Tướng George Brown, Chủ Tịch Bộ Tham Mưu Liên Quân (Jcs) và ông William Colby, Tổng Giám Đốc Cơ Quan Tình Báo CIA. Phiên họp đặc biệt này nhắm vào việc tìm giải pháp hữu hiệu để di tản những người Mỹ còn lại ở Sài Gòn. Ngoại trưởng Kissinger bác bỏ đề nghị sử dụng khu trục cơ để hộ tống cho phi cơ vận tãi C-130, ông nói rằng nên thận trọng không có những hành động tấn công gây hấn để gây hiểu lầm cho Hà Nội trong lúc này. Sau cùng thì hội đồng chấp thuận đề nghị dung hoà của Đại Tướng George Brown, đó là thử dùng 7 phi cơ C-130 từ Phi Luật Tân và Thái Lan bay đến phi trường Tân Sơn Nhứt, nếu những phi cơ này còn đáp xuống được thì chiến dịch di tản bằng phi cơ có cánh sẽ tiếp tục, tuy nhiên trong trường hợp phi đạo không còn sử dụng được thì phải quay sang sử dụng kế hoạch cuối cùng, đó là kế hoạch “Frequent Wind: option-IV”.
Đến 9 giờ 45 sáng, Tổng Thống Ford đã triệu tập một phiên họp đặc biệt của Hội Đồng Nội các tại Bạch Cung. Mở đầu phiên họp, Tổng Thống Ford nói rằng “trong hai tuần lễ vừa qua, Hoa Kỳ đã gặp phải rất nhiều khó khăn. Tuy cho đến giờ này thì việc di tản đang diễn ra một cách tốt đẹp nhưng chúng ta cũng vẫn chưa thoát ra đước những khó nhăn có thể xảy ra. Mục tiêu của chúng ta là ngăn không để cho hổn loạn xẩy ra tại Nam Việt Nam rồi sẽ gây ra nguy hiếm cho việc di tản của người Mỹ, ngăn chận những hoạt động của Bắc Việt và giữ cho tình hình được ổn định nhằm hoàn tất cuộc di tản.
“Ngoại trưởng Kissinger phúc trình rằng cho đến giờ này (9 giờ 45 tối tại Sài Gòn), chỉ còn có khoảng tư 300 đến 400 người Mỹ còn đang hoạt động trong khuôn viên toà đại sứ Hoa Kỳ và trong hơn hai ngày qua, có hơn 4,650 người đã được di tản ra khỏi Sài Gòn, nâng tổng sổ người được Hoa Kỳ di tản lên đến con số gần 45,000 người, trong số này chỉ có từ 500 đến 600 là người Mỹ.
“Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger báo cáo rằng còn có khoảng 700 người tại trụ sở của Văn Phòng Tùy Viên Quân Lực Hoa Kỳ tại Tân Sơn Nhứt nhưng phi cơ vận tãi C 130 không thể đáp xuống được nữa, do đó phải di tản bằng trực thăng từ trên sân thượng của toà đại sứ. Ông cho biết thêm rằng vấn đề này cũng gặp phải khó khăn vì chỉ có hai chiếc trực thăng có thể đáp xuống cùng một lúc và quân Bắc Việt đã bắn vào trực thăng di tản.
“Ngoại Trưởng Kissinger nói rằng mặc dù Tổng thống Ford đã ra lệnh là chỉ di tản người việt Nam nếu các phi cơ vận tãi C-130 còn đáp xuống được phi trường Tân Sơn Nhứt và trong trường hợp không còn sử dụng phi cơ C-130 nữa thì chỉ di tản người Mỹ mà thôi, tuy nhiên tại Sài Gòn Đại Sứ Martin và thiếu Tướng Homer Smith đã quyết định vẫn tiếp tục di tản cả những người Việt Nam còn đang có mặt trong toà đại sứ Hoa Ky.
“Tổng Thống Ford nhấn mạnh rằng ông muốn phải di tản ít nhất là tủ 43,000 cho đến 45,000 người Việt Nam ra khỏi miền Nam Việt Nam.
“Bộ Trưởng Morton hỏi Tổng thống Ford: “những người Việt Nam được di tản này sẽ được đưa đi đâu và trong số này có bao nhiêu người là thuộc thành phần “chuyên nghiệp và có học” (white collar)?
Tổng thống Ford trả lời rằng Bộ ngoại Giao đang lo giải quyết vấn đề này và sẽ có 3 căn cứ quân sự tại Hoa Kỳ đang được chuẩn bị để đón người tỵ nạn. Tổng thống Ford cũng cho biết rằng theo Ngoại trưởng Kissinger thì một số các quốc gia khác đã được Hoa Kỳ tiếp xúc để đón tiếp một số người ty nạn, tuy nhiên có lẽ Hoa Kỳ sẽ đón nhận 90 phần trăm số người này.
“Ngoại trưởng Kissinger nói rằng cũng khó mà biết rõ được số người tỵ nạn có đủ trình độ Nghề nghiệp” và “học vấn” là bao nhiêu tuy nhiên ông đoán chắc rằng có lẽ con số này cũng khá cao. Về đề nghị của Bộ Trưởng Norton dự định đưa một số khoảng 5,000 người tị nạn Việt Nam sang Lãnh Thổ Giám Hộ tại Thái bình Dương (Pacific trust Territories) của Hoa Kỳ, nơi đó có lẽ sẽ cần đến tài năng của những người ty nạn này thì Ngoại Trưởng Kissinger nhận xét rằng “đó có vẻ là một ý kiến bay”.
Đó là những chi tiết về phiên họp đặc biệt của Hội Đồng Nội Các Hoa Kỳ sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975 và Tổng Thống Ford tuyên bố bế mạc phiên họp vào lúc 10 giờ rưỡi sáng, tức là 10 giờ rưỡi tối tại Sài Gòn, khoảng hơn 12 tiếng đồng hồ trước khi Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng” *194
Sáng ngày 29 tháng 4, ‘”thủ tướng” Vũ Văn Mẫu đã đọc đi đọc lại liên tục trên Đài Phát thanh Sài Gòn một bản thông cáo của tân Tổng thống Dương Văn Minh yêu cầu người Mỹ rút ra khỏi Việt Nam trong 24 tiếng đồng hồ. Bản thông cáo đó là Văn thư Số 033-TT/VT của Phủ Tổng Thống nguyên văn như sau:
“Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà
Kính gởi: ông Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Thưa ông Đại Sứ
Tôi trân trọng yêu cầu ông Đại Sư vui lòng chỉ thị cho nhân viên của Cơ Quan Tùy Viên Quân Sự DAO rời khỏi Việt Nam trong 24 tiếng đồng hồ kể từ ngày 29-04-1975 để vấn đề Hoà bình Việt Nam sớm được giải quyết.
Trân trọng kính chào ông Đại Sư
SAIGON, ngày 28 tháng 4 năm 1975
Ký tên và đóng dấu:
Việt Nam Cộng Hoà
Tổng Thống
Đại Tướng Dương Văn Minh “
Đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin đã phúc đáp như sau:
“Thưa Tổng Thống,
Tôi đã nhận được văn thư nói trên và tôi đã ra chỉ thị thi hành đúng như lời yêu cầu của Tổng Thống.
Tôi tin rằng Tổng thống sẽ ra lệnh cho các lực lượng quân đội của chính phủ cộng tác trên mọi phương diện để giúp cho sự triệt thoái của các nhân viên Tòa Tuỳ Viên Quân Lực được dễ dàng và trong an toàn.
Tôi cũng xin bày tỏ sự hy vọng rằng Tổng thống sẽ can thiệp với phía bên kia để họ có thể cho phép các nhân viên Toà Tùy viên Quân Lực Hoa Kỳ được ra đi trong sự an toàn và trật tự.
Xin chúc Tổng thống đươc mọi sự lành.
Grabam Martin
Đại sứ Hoa Kỳ “
“Tổng thống“ Dương Văn Minh hân hoan đuổi được người Mỹ ra đi và hy vọng rằng sẽ có triển vọng để nói chuyện với “người anh em bên kia” của ông thì vào lúc 10 giờ sáng ngày hôm đó, Lê Duẩn đã gửi một điện văn “gửi anh Sáu, anh Bảy, anh Tuấn, anh Tư, đồng điện anh Tấn” như sau:
1– Các anh ra lệnh cho quân ta tiếp tục tiến công vào Sài Gòn theo kế hoạch; tiến quân với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ thành phố, tước vũ khí quân đội địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống cự của chúng.
2- Công bố đặt thành phố Sài Gòn-Gia Định dưới quyền của ủy Ban Quân Quản do tướng Trần Văn Trà làm chủ tịch. “
Sẽ có điện tiếp, nhận được điện trả lời ngay.
BA *195
Như vậy thì Bộ Chính Trị Cộng sản Bắc Việt đã có quyết định “giải tán chính quyền các cấp của tổng thống “Dương văn Minh và đập tan triệt để mọi sự chống cự của chúng” chứ không hề nói đến hai chữ “bàn giao” mà ông Dương Văn Minh cùng với nhóm Hòa Giải Hòa Hợp của ông đang mong đợi.
Sau khi phúc trình về Bộ Tổng Tư Lệnh Thái Bình Dương tại Hawaii, Tướng Smith trình cho Đại sứ Martin biết về vấn đề phi trường Tân Sơn Nhứt không còn có thể sử dụng được cho phi cơ vận tãi C-130 và ông Martin cuối cùng phải nhượng bộ vì cho đến ngày 29 tháng 4, ông đại sứ vẫn cương quyết chống lại lệnh di tản tức khắc tất cả người Mỹ ra khỏi Việt Nam của Bộ Ngoại Giao. Thâm ý của Đại sứ Martin là giữ người Mỹ lại để di tản càng nhiều người Việt Nam ra khỏi Sài Gòn thì càng tốt chừng đó. Đại sứ Martin gọi điện thoại thông báo cho Ngoại Trưởng Kissinger và ông Kissinger trình ngay cho tổng Thống Gerald Ford. Chỉ trong vòng vài phút, TT Ford ra lệnh cho thi hành Chiến dịch “Frequent Wind option IV” tức là kế hoạch di tản toàn bộ người Mỹ ra khỏi Việt Nam vào lúc 10 giờ 51 phút sáng tại Sài Gòn.
Trước đó, vào lúc 1 giờ sáng giờ Washington tức là khoảng 1 giờ trưa ngày 29 tháng 4, Đại sứ Martin nhận được bức điện văn “thượng khẩn” số White House 50782 ngày 29 tháng 4 nguyên văn như sau:
“Nơi gửi: White House
Nơi nhận: Toà Đại Sứ Hoa Kỳ-Saigon
Ngoại trưởng Henry A . Kissinger
Gửi đến: Đại Sứ Graham Martin
1.”Tổng thống đã chủ tọa một phiên họp của Hội đồng An ninh Quốc Gia và đã có những quyết định sau đây:
A. Nếu ngày hôm nay mà phi trường Tân Sơn Nhứt còn có thể sử dụng được cho các loại phi cơ có cánh (phi cơ vận tãi C-130 ) thì ông Đại sứ được phép cho di tản những người Việt Nam được xếp vào thành phần có thể bị nguy hiếm đến tính mạng. Cho đến cuối ngày hôm nay ông đại sứ phải cho di tản tất cả nhân viên người Mỹ tại phi trường Tân Sơn Nhứt cũng như là tất cả những nhân viên ngoại giao tại tòa đại sứ, ngoại trừ một thiểu số tối cần thiết cho nhiệm vụ di tản.
B. Ông Đại Sứ không được tiết lộ cho ai biết rằng hôm nay là ngày cuối cùng loại phi cơ vận tải C-130 sẽ được sử dụng để di tản từ phi trường Tân Sơn Nhứt.
C. Nếu phi trường trở thành bất khiển dụng đối với phi cơ vận tãi và trở thành nguy hiểm nếu bị Cộng sản pháo kích, ông Đại Sứ phải tức khắc cho di tản tất cả – lặp lại: tất cả- người Mỹ tại văn phòng Tùy Viên Quân Lực DAO và toà đại sứ bằng phương tiện trực trăng. Nếu cần thì các phi cơ chiến đấu vì các phi cơ chiến đấu sẽ yểm trợ và hoả lực sẽ được sử dụng để phòng vệ trong trường hợp các trực thăng bị tấn công trong khi thi hành việc di tản.
2. Đô Đốc Gayler, Tư lệnh Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương, sẽ nhận được lệnh tương tự từ Bộ Quốc Phòng.
Trân trọng
Henry A . Kissinger. *196
Trong khi bản thông cáo của “Tổng Thống” Dương Văn Minh đòi người Mỹ phải triệt thoái nhân viên của DAO được “Thủ Tướng” Vũ Văn Mẫu đọc đi đọc lại nhiều lần trên đài phát thanh Sài Gòn thì trên đài phát thanh của Quân lực Hoa Kỳ tại Việt Nam được gọi tắt là AFRS, vào buổi trưa một ngày cuối tháng 4 nóng bức, người xướng ngôn viên đọc đi đọc lại nhiều lần lời nhắn: “Mother wants you to call home” (Mẹ muốn con gọi về nhà) và người dân Sài Gòn được nghe bản nhạc “I’m Dreaming of a White Christmas “ (Tôi mơ một Giáng Sinh Đầy Tuyết Trắng) phát đi phát lại liên tục trong ngày hôm đó. Lời nhắn và bản nhạc này là mật hiệu báo cho tất cả mọi người Mỹ tại Sài Gòn biết rằng Chiến Dịch Frequent operation IV đã khởi đầu và tất cả mọi công dân Hoa Kỳ đều phải đến những điểm hẹn đã ấn đinh sẵn từ trước để được di tản ra khỏi Việt Nam.
Trong ngày 29 tháng 4, hàng trăm trực thăng C-53 và C-46 đã từ Hạm Đội Thứ Bảy ngoài khơi bờ biển Việt Nam bay đến Sài Gòn di tản hàng chục ngàn người Mỹ và người Việt Nam đang tập trung tại các địa điểm như Văn Phòng DAO ở Tân Sơn Nhứt, các cao ốc của người Mỹ và nhất là toà đại sứ Hoa Kỳ trên đại lộ Thống Nhất. Đại sứ Graham Martin không chịu di tản vì ông muốn ở lại toà đại sứ để kéo dài thời gian nhằm di tản thêm một số người Việt Nam dù rằng Ngoại trưởng Kissinger đã nhiều lần ra lệnh cho ông phải ra đi càng sớm càng tốt.
Vào lúc 11 giờ 40 tối 29 tháng 4, một toán chuyên viên chất nổ của Thuỷ Quân lục chiến Hoa Kỳ đã phá nổ toàn bộ Tòa Tùy Viên Quân Lực DAO, tức là Bộ Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Việt Nam gọi tắt là MAC-V trước năm 1973, nơi mà trong hơn 10 năm đã từng là biểu hiệu của sự cam kết của Hoa Kỳ với trên nửa triệu quân nhằm chống lại âm mưu thôn tính Miền Nam Việt Nam của Cộng sản Bắc Việt. Sự phá huỷ cơ sở này, trước đây được giới báo chí gọi là “Ngũ giác Đài Phương Đông” (Pentagon East) là dấu hiệu cho biết rằng đối với người Mỹ, chiến tranh Việt Nam đã kết thúc.
Cựu Tổng Thống Trần Văn Hương Không Chịu Di Tản
Trong ngày 29 tháng 4, dù rất bận rộn trong việc di tản hàng chục ngàn người Mỹ và người ty nạn Việt Nam, Đại sứ Martin cũng đã tìm cách đến gặp Cụ Trần Văn Hương, cựu Tổng Thống VNCH tại Phủ Phó Tổng Thống trên đường Công Lý lần chót. Theo Giáo sư Nguyễn Ngọc An, bạn thâm giao của Cụ Hương thì cuộc gặp gỡ này đã diễn ra như sau:
“Cũng ngày đó, 29 tháng 4 nam 1975, Đại sứ Hoa Kỳ, ông Martin đến tư dinh đường Công Lý với một tham vụ sứ quán nói tiếng Pháp, Đại khái đại sứ nói:
“Thưa Tổng Thống, tình trạng hiện nay rất nguy hiểm. nhân danh chính phủ Hoa Kỳ, chúng tôi đến mời Tổng Thống rời khỏi nước, đi đến bất cứ xứ nào, ngày giờ nào với phương tiện nào mà Tổng Thống muốn. Chánh phủ chúng tôi cam kết bảo đám cho Ngài một đời sống xứng đáng với cương vị tổng thống cho tới ngày Tổng Thống trăm tuổi già”
Tổng Thống Trần Văn Hương mỉm cười trả lời:
“Thưa Ngài Đại Sứ tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đã đến đỗi như vậy Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông đại sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cám ơn ông đại sứ. Nhưng tôi đã suy nghĩ kỷ và quyết định dứt khoát ở lại nước tôi. Tôi cũng dư biết rằng Cộng sản vào được Sài Gòn, bao nhiêu đau khổ nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lãnh đạo đứng hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại để chia xẻ với họ một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nổi thống khổ của người dân mất nước.
Cám ơn ông Đại Sứ đã đến viếng tôi”.
Khi nghe câu: “les États Unis ont aussi leur part de responsibilités (Hoa Kỳ cũng có phần trách niệm trong đó), Đại Sứ Martin giựt mình nhìn trân trân Ông Trần Văn Hương.
Năm 1980, ông thuật lại với tôi: “Dứt câu chuyện, on se sépare sans même se serrer la main” (chúng tôi từ giã nhau mà cũng chẳng có hề bắt tay nhau). *197
Đây không phải là lần đầu tiên cụ Trần Văn Hương từ chối lời mời di tản ra ngoại quốc. Trong cuốn hồi ký “Saigon et Moi”, cựu đại sứ Pháp Mérillon cho biết rằng trước ngày 28 tháng 4 năm 1975, ông ta có chuyển lời mời cụ Trần Văn Hương sang sinh sống ở Pháp sau khi giao quyền lại cho Dương Văn Minh thì cụ đã trả lời như sau:
“Ông đại sứ à, tôi đâu có ngán Việt Cộng. Nó muôn đánh, tôi sẽ đánh tới cùng. Tôi chỉ sợ mất nước, sống lưu đày ở xứ người ta. Nếu trời hại nước tôi, nước tôi mất, tôi thề sẽ ở lại đây và mất theo nước mình”.
Cựu Đại úy Nguyễn Văn Nhựt, sĩ quan tùy viên của Phó Tổng Thống Trần Văn Hương cho người viết biết vào những ngày cuối cùng trong tháng 4 năm 1975, Cụ Trần Văn Hương đã nói với các anh em phục vụ tại Phủ Phó Tổng Thống rằng “thấy các em còn trẻ tuổi mà phải chịu hy sinh gian khổ vì chiến tranh “qua” rất thương, tuy nhiên sổ phận của đất nước mình là như vậy, mình phải đánh cho tới cùng.”
Sau khi bàn giao chức vụ tổng thống cho Dương Văn Minh, tối 28 tháng 4, cụ Trần Văn Hương đã dọn ngay về tư gia ở trong đường hẻm đường Phan Thanh Giản, tuy nhiên qua sáng ngày hôm sau, 29 tháng 4, cụ phải trở lại Dinh Phó Tổng Thống ở đường Công Lý một lần cuối cùng để tiếp kiến đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin khi ông Martin đến từ giã cụ.
Trong một cuộc tiếp xúc với Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên, cựu phó thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa tại Westminster vào cuối năm 2005, Bác sĩ Viên có cho người viết biết rằng vào sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, ông và bà Trần Văn Văn có đến thăm Cụ Trần Văn Hương một lần cuối và Cụ Hương đã nói với hai người rằng hai vị đại sứ Pháp và Hoa Kỳ có đến mời ông đi tị nạn nhưng ông đã từ chối lời mời của họ.
Vào năm 1978, khi Việt Cộng trả lại “quyền công dân” cho Dương Văn Minh, các anh em đang bị tù “học tập cải tạo” đều bị đi xem hình ảnh và phim chiếu lại cảnh cựu “Tổng thống” Dương Văn Minh đang hồ hỡi hân hoan đi bầu quốc hội “đảng cử dân bầu” của Cộng sản.
Cụ Trần Văn Hương cũng được Cộng sản trả lại “quyền công dân” nhưng cụ đã từ chối. Cựu Tổng Thống VNCH Trần Văn Hương đã gửi bức thư sau đây đến các cấp lãnh đạo chính quyền Cộng sản:
” .. hiện nay vẫn còn có mấy trăm ngàn nhơn viên chế độ cũ, cả văn lẫn võ, từ Phó Thủ tướng, Tổng Bộ trưởng, các tướng lãnh, quân nhân công chức các cấp các chính trị gia, các vị lãnh đạo tôn giáo, đảng phái đang bị tập trung cải tạo, rĩ tai thì ngắn hạn mà cho đến nay vẫn chưa thấy được được về.
“Tôi là người đứng đầu hàng lãnh đạo Chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa, xin lãnh hết trách nhiệm một mình. Tôi xin chính phủ mới thả họ về hết vì họ là những người chỉ biết thừa hành mạng lệnh cấp trên, họ không có tội gì cả. Tôi xin chính phủ mới tha họ về sum họp với vợ con, còn lo làm ăn xây dựng đất nước.
“Chừng nào những người tập trung cải tạo được về hết, chừng nào họ nhận được đầy đủ quyền công dân, chừng đó tôi sẽ là người cuối cùng, sau họ, nhận quyền công dân cho cá nhân tôi”.
Cụ Trần Văn Hương không hề nhận “quyền công dân” của Cộng sản và cho đến khi từ trần vào năm 1981 thì cụ vẫn còn là công dân của Việt Nam Cộng Hòa.
————
Ghi chú:
*194: “cabinet Meeting Minutes. April 29. 1975. Giải mật ngày 12 tháng 1o năm 199o. Tài liệu “Box 4, James E. Connor Files,” lưu trữ tại Thư Viện Gerald Ford tại Grand Rapids, tiểu bang Michigan.
*195: Văn kiện Đảng (CSVN): trang 324.
*196: “Secretary of State Henry Kissinger’s Cable on President Ford’s Decisions on the Saigon Evacuation, April 29, 1975.” (Công Điện của Ngoại Trưởng Henry Kissinger về Quyết Định của Tổng Thống Ford trong việc Di Tản Sài Gòn ngày 29 tháng 4 năm 1975). Tài liệu giải mật ngày 10 tháng 1 năm 2000, lưu trữ tại Thư Viện Gerald Ford, Grand Rapids, Michigan.
Cuối Cùng NGÀY THỨ TƯ: 30 tháng 4 năm 1975!!!!!
Cuộc di tản vẫn tiếp tục trong đêm cho đến rạng ngày 30 tháng 4, tuy nhiên con số người Mỹ còn lại ở Sài Gòn vẫn còn nhiều. Vào lúc 1 giờ 30 sáng, Ngoại trưởng Kissinger ra lệnh cho Tòa đại sứ Mỹ phải kết thúc việc di tản vào lúc 3 giờ 45 sáng, giờ Sài Gòn, và Đại sứ Martin phải ra đi trên chuyến trực thăng trước chuyến bay cuối cùng. Tuy nhiên đến 3 giờ 45 sáng, vẫn còn có trên 400 người tại toà đại sứ Mỹ trong đó có cả Đại sứ Martin. Vào lúc 4 giờ 20 sáng, Đô Đốc Gayler đã quyết định kết thúc cuộc di tản và tất cả các phi công đều nhận được lệnh như sau: “Đây là lệnh của Tổng thống Hoa Kỳ và lệnh này phải được chuyển lại bởi bất cứ phi công trực thăng nào liên lạc được với Đại Sứ Graham Martin. Chỉ có người Mỹ mới được phép di tản và Đại Sứ Martin phải đáp chuyến trực thăng đầu tiên. Phi cơ chở đại sứ Martin phát đi ám hiệu “Tiger, Tiger, Tiger” để báo cho biết rằng ông Martin đã được di tản”.
Vào lúc 4 giờ 58 sáng ngày 30 tháng 4, Đại Sứ Martin “bị hộ tống” lên trực thăng mang tên là Lady Ace 09, trên chiếc trục thăng này một phân đội Thuỷ Quân Lục Chiến đã được lệnh bắt giữ ông đại sứ để áp tãi lên phi cơ nếu ông ta còn chống lại lệnh di tản. Đại Sứ Hoa Kỳ Graham Martin đã cố tình cưỡng lại lệnh của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nhưng ông lại là ân nhân của một số người Việt Nam vì nếu không có ông thì họ không có may mắn được di tản ra khỏi Sài Gòn trong những ngày cuối cùng của tháng 4 năm 1975. Theo Ngoại Trưởng Kissinger thì Đại Sứ Martin đã phối hợp di tản được 6,000 người Mỹ và trên 50,000 người Việt Nam ra khỏi Sài Gòn.
Sau khi Đại Sứ Martin bị hộ tống lên trực thăng, trong toà đại sứ lúc đó vẫn còn gần 200 người Mỹ mà trong số đó có 170 người là lính Thuỷ Quân Lục Chiến có nhiệm vụ bảo vệ cho chiến dịch di tản. Cuộc di tản vẫn tiếp tục cho đến đúng 7 giờ 53 phút sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975 thì chiếc trực thăng CH-46 cuối cùng mới rời khỏi sân thượng của toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn mang theo Trung sĩ Juan Valdez, người lính Mỹ và cũng là người Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam.
Chuyến phi cơ trực thăng cất cánh khỏi sân thượng của tòa đại sứ Mỹ vào hồi 7 giờ 53 phút sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975 này đánh dấu sự kết thúc của chính sách “ủng hộ miền Nam Việt Nam chiến đấu chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản trong vùng Đông Nam Á của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ qua 5 đời tổng thống: Eisenhower, Kennedy, Johnson, Nixon và Ford trong hơn 20 năm. Đối với người Mỹ, cuộc chiến tranh đã chấm dứt nhưng đối với một số người Việt Nam thì cuộc chiến vẫn chưa tàn. Vào ngày 30 tháng 4, có một số chiến sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn tiếp tục chiến đấu dù rằng trong vô vọng.
Dương Văn Minh Ra Lệnh Đầu Hàng
Vào lúc 10 giờ 24 sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, “Tổng thống” Dương Văn Minh đã đọc nhật lệnh trên đài phát thanh Sài Gòn ra lệnh cho tất cả mọi quân nhân thuộc Quân Lực VNCH phải buông súng đầu hàng. Ông Dương Văn Minh đã tuyên bố như sau:
“Đường lối, chủ trương của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hòa hợp hòa giải gữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu của người Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và ở đậu thì ở đó.
“Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ Chính Phủ Cách Mãng Lâm Thời Cộng Hòa miền Nam ngưng nổ súng, vì chúng tôi ở đây đang chờ gặp Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự, tránh sự đổ máu vô ích cho đồng bào.”
“Thủ tướng “Vũ Văn Mẫu cũng đọc lời kêu gọi mọi tầng lớp dân chúng hãy chào mừng “ngày Hoà bình cho Dân tộc Việt Nam” và ra lệnh cho mọi công chức phải trở về nhiệm sở. Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Tổng Tham Mưu Phó Quân Lực VNCH nhân danh Trung tướng Vĩnh Lộc, Tổng Tham Mưu trưởng (vắng mặt), ra lệnh cho tất cả mọi quân nhân các cấp phải nghiêm chỉnh thi hành lệnh của ” tổng thống” Dương Văn Minh về vấn đề hưu chiến.
Dương Văn Minh cũng đưa ra lời kêu gọi những “người anh em bên kia” hãy ngưng mọi hoạt động gây hấn và ông ta nói rằng chính quyền của ông đang chờ đợi được gặp gỡ chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam để cùng thảo luận về “buổi lễ bàn giao quyền hành và để tránh đổ máu cho nhân dân”. Dương Văn Minh không hề đề cập đến cũng như không đưa ra lời kêu gọi nào với Cộng sản Bắc Việt, lúc đó dường như ông cố tình làm như không biết việc chính Cộng sản Bắc Việt mới là những người lãnh đạo hàng ngũ những “người anh em bên kia” của ông.
Ông Dương Văn Minh chỉ kêu gọi những “người anh em bên kia” trong cái gọi là “chính phủ cách Mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam”, chắc là ông ta đã nghĩ đến những người lãnh đạo trong cái chính phủ này như Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh tấn Phát, Nguyễn Thị Bình v.v, nhưng ông ta không biết rằng những người mà ông ta kêu gọi đó không hề có một quyền hành nào, còn những kê có quyền hành lúc đó như Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, Phạm Hùng, ba ủy viên Bộ Chính trị đại diện cho Hà Nội đang thực sự nắm toàn quyền trong chiến dịch Hồ Chí Minh thì ông ta không có đả động tới.
Thượng Tướng Bắc Việt Văn Tiến Dũng, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Nhân Dân Bắc Việt và đồng thời cũng là Tư Lệnh Chiến trường Miền Nam Việt Nam lúc đó đang nghe lời kêu gọi của Dương Văn Minh trên đài phát thanh Sài Gòn. Ngay sau đó, thay vì tiến về Sài Gòn để “bàn giao” như lời kêu gọi của Dương Văn Minh, Văn Tiến Dũng đã ra lệnh cho “tất cả các quân đoàn, các vùng quân sự và mọi đơn vị các cấp phải tiến càng nhanh càng tốt đến các mục tiêu đã được chỉ định ở sâu trong các đô thị cũng như các tỉnh, kêu gọi địch quân đầu hàng, giao nạp vũ khí và bắt giữ tất cả các sĩ quan từ cấp thiếu tá trở lên; đập tan ngay tức khắc mọi mưu toan kháng cự”.
Ông “Tổng Thống” Dương Văn Minh không thể nào biết được rằng trưa ngày hôm đó, Bộ Chính Trị và Quân ủy Trung ương đã gửi điện văn số 516/TV ra lệnh cho các cấp lãnh đạo Chiến dịch Hồ Chí Minh phải “bắt địch đầu hàng vô điều kiện”:
“vấn đề hiện nay là bắt địch đầu hàng không điều điện chứ không phải cử người thương lượng với địch để ngưng bắn tại chỗ như có nơi đã làm.
Những nơi địch chịu đầu hàng: ta kéo quân vào bắt địch, hạ vũ khí và tước vũ khí của chúng, giải tán quân đội và bộ máy chính quyền của địch, phát động quần chúng truy kích, tiêu diệt bọn gian ác và phản động còn ẩn nấp chống lại ta.
Những nơi địch không chịu đầu hàng: ta cần phát động quần chúng nổi dậy, kêu gọi binh sĩ khởi nghĩa kết hợp với mũi tấn công đánh vào các điểm then chốt của địch, tiêu diệt những đơn vị ngoan cố chống lại ta, buộc chúng phải đầu hàng không điều kiện.
Phải đặc biệt chú ý chiếm lĩnh, khống chế các sân bay không để chúng sử dụng các máy bay để chống lại ta và tẩu thoát”.*198
Ngoài bức điện văn nói trên, chính Võ Nguyên Giáp thay mặt cho Bộ Chính Trị và Quân ủy Trung ương cũng đã gửi bức điện văn số 151 ngày 30 tháng 4 năm 1975 gửi cho “anh Sáu” tức là Lê Đức Thọ, “anh Bảy” tức là Phạm Hùng, “anh Tuấn” tức là Văn Tiến Dũng, “anh Tư” tức là Trần Văn Trà và “anh Tấn” tức là Lê Trọng Tấn nội dung như sau:
“Theo ý kiến của Bộ Chính Trị và Quân ủy trung ương,
1.việc chỉ đạo Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn-Gia định (kể cả những mệnh lệnh, tuyên bố) giao cho Trung Ương Cục và Quân Ủy Miền phụ trách.
2.Hôm nay sẽ ra một lời kêu gọi của Bộ Chỉ Huy Quân giải Phóng. Chúng tôi đang dự thảo và cho phát.
3.Có thể dùng Dương Văn Minh để kêu gọi các đơn vị của địch hạ vũ khí, nhưng không phải với tư cách Tổng thống mà chỉ với tư cách một người đã sang hàng ngũ nhân dân.
4. Sẽ tuyên truyền lớn về thắng lơi giải phóng Sài Gòn-Gia Định, nhưng nhấn mạnh cuộc chiến đấu đang tiếp tục nhằm hoàn toàn giải phóng miền Nam. Đã chỉ thị chuẩn bị ngày mừng chiến thắng, sau khi hoàn thành việc giải phóng miền Nam sẽ tổ chức thống nhất cả nước. Anh Tố Hữu sẽ có điện cho các Anh.
5. Mười một giờ đã nhận được tin ta cắm cờ trên Dinh Độc Lập.
Gửi các anh lời chúc đại thắng lợi.
Các anh Bộ chính Trị rất vui, rất vui . . .
VĂN*199
Như vậy thì trước khi xe tăng của Cộng sản Bắc Việt ủi cổng sắt- đã được mở rộng- để vào chiếm Dinh Độc Lập, nơi mà ông “Tổng thống” Dương Văn Minh cùng với các ông “phó Tổng thống” Nguyễn Văn Huyền, “thủ tướng” Vũ Văn Mẫu cùng với một số nhân viên trong “nội các” của họ để chờ “bàn giao” cho Cộng sản thì các giới lãnh đạo ở Hà Nội đã quyết định không coi ông như là “tổng thống” mà chỉ là “một người đã sang hàng ngũ nhân dân,” tức là một kẻ đầu hàng, “đầu hàng không điều kiện” như đã nòi trong văn thư số 505 cùng ngày. Các sĩ quan Cộng sản cấp dưới cũng đã nhận được lệnh này cho nên đối với họ thì những người tự nhận là tổng thống, phó tổng thống, thủ tướng v.v… đang ngồi trong Dinh Độc Lập chỉ là những kẻ đầu hàng mà thôi. .
Bởi vậy, vào lúc 12 giờ 15 trưa ngày 30 tháng 4, khi chiến xa mang số 879 của Lữ Đoàn Thiết Giáp 203 của quân đội cộng sản Bắc Việt ủi sập hàng rào sắt tiến thẳng vào Dinh Độc Lập, “Tổng thống” Dương Văn Minh thấy vị sĩ quan Cộng Sản đeo đầy sao vàng trên cầu vai nền đỏ, vì không biết cấp bậc của quân đội Nhân dân miền Bắc nên ông Minh tưởng rằng đang đứng trước một tướng lãnh cao cấp:
“Thưa Quan Sáu, tôi đã chờ ông từ ban sáng để trao quyền cho ông”.
Viên sĩ quan Bắc Việt chỉ huy đoàn chiến xa này là Thượng Tá Bùi Tùng đã dùng danh từ “mày tao” xằng giọng hách dịch và đanh đá lên tiếng:
“Mày dám nói trao quyền hả? Mày chỉ là một kẻ cướp quyền và một bù nhìn. Mày làm gì có quyền nào để trao cho tao? Chúng tao lấy được quyền đó bằng khẩu súng này đây.
Ngoài ra tao xác nhận với mày là tao không phải là tướng mà chỉ là một trung tá ủy viên chính trị của một đơn vị chiến xa. Kể từ bây giờ tao cấm mày bông được ngồi xuống!” *200
Người thuật lại những lời đối thoại trên là cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa, một người rất thân cận với ông Dương Văn Minh. Vào năm 1963 ông là Thiếu Tá ngành Thiết giáp, đã theo tướng Dương Văn Minh đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm và đã được Dương Văn Minh tin cậy cử vào phái đoàn đi vào Chợ Lớn “đón” ông Diệm. Trên đường về Bộ Tổng Tham Mưu, Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu đã bị giết trên xe thiết vận xa M-113 và từ đó cho đến nay, có nhiều người vẫn còn có nghi vấn là ông Dương Hiếu Nghĩa có thể là một trong những người có trách nhiệm trong cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Chắc chắn rằng ông Dương Hiếu Nghĩa không phải là kẻ thù hay có hiềm khích với ông Dương Văn Minh mà đặt điều viết lại sự đối thoại trên đây nếu chuyện đó không có thật.
Chiều hôm đó, Cộng sản không cho phép Dương Văn Minh đọc lời đầu hàng tại Dinh Độc Lập tức là Phủ Tổng Thống của VNCH, họ đã áp giải ông đến đài phát thanh Sài Gòn để đọc lời kêu gọi như sau:
“Tổng Thống chính quyền Sài Gòn kêu gọi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa hạ vũ khí, đầu hàng vô điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bổ chính quyền Sài Gòn, từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn. Từ trung ương đến địa phương trao lại cho chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam”.
Ngay buổi chiều ngày 30 tháng 4, Đài Phát Thanh Giải Phóng loan báo kể từ nay, thành phố Sài Gòn được cải danh là “thành Phố Hồ Chí Minh”.
Kể từ ngày hôm đó, ngày 30 tháng 4 năm 1975, Sài Gòn đã mất tên, Sài Gòn không còn nữa.
Kể từ ngày hôm đó, Quốc gia Việt Nam Cộng Hoà không còn nữa.Và cũng kể từ ngày hôm đó, tại Miền Nam Việt Nam Tự Do cũng không còn nữa.
Chú Thích:
*197: G.S. Nguyễn Ngọc An: “Cụ Trần Văn Hương” đăng trên Báo Thời Luận, không rõ ngày.
*198: Đại Thắng Mùa Xuân, trang 329-331.
*199: Văn kiện Đảng (CSVN): trang 332-333.
*200 Dương Hiếu nghĩa : “Hồi Ký Dang Dở,” kể lại theo lời của Trung Tá Nguyễn Văn Binh, cựu Quận Trưởng Gò Vấp, cựu dân biểu, có mặt tại Dinh Độc Lập vào trưa ngày 3o tháng 4 năm 1975 khi quân Bắc Việt chiếm Sài Gòn. Xuân Thời Luận, Califonia 2004, trang 141.