“70 NĂM NHÌN LẠI, HỒI ỨC CỦA NHÀ BÁO TRẦN PHONG VŨ VỀ CUỘC DI CƯ “KHÔNG TIỀN KHOÁNG HẬU” CỦA NGÓT MỘT TRIỆU ĐỒNG BÀO MIỀN BẮC NĂM 1954″ (VietLife TV July 20th. 2025)

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

Đây là đề tài quan trọng liên hệ tới lịch sử cận đại của dân tộc Việt Nam được VietLife TV thực hiện nhân tưởng niệm Hòa Hội Genève năm 1954 chia đôi đất nước, xô đẩy ngót 1 triệu đồng bào miền Bắc phải rời bỏ quê hương vào miền Nam tìm Tự Do.

 Nội dung Chương Trình chia ra làm 3 chủ đề chính:

Được phát hình hôm nay,Chúa Nhật, ngày 20 tháng 7, là ngày cách nay chẵn 70 năm, cộng sản Bắc Việt cùng với Thực Dân Pháp đã đơn phương ký kết Hiệp Định Genève, chia đôi lãnh thổ Việt Nam.

 Về chủ đề mở đầu VietLife TV sẽ thay mặt quý khán thính giả nêu lên những câu hỏi về thời thơ ấu của nhà báo Trần Phong Vũ tại quê hương Nội Ngoại của ông là Huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, một giải đất màu mỡ sát cửa biển Ba Lạt do Doanh Điền Sứ Nguyễn Công Trứ khai hoang kiến lập thế kỷ 19.

Tiếp theo là những năm loạn lạc vì cuộc thế chiến thứ hai, cùng với vụ cướp chính quyền năm 45 của Mặt Trận Việt Minh, danh xưng trá hình của CSVN. Bước chân lưu lạc, xa gia đình để chắp nối con đường học vấn trễ tràng của ông qua nhiều địa phương thuộc các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Bùi Chu, Phát Diệm Ninh Bình cho đến ngày bước chân xuống tàu Mỹ ở Cảng Hải Phòng vào miền Nam tìm tự do.

Những khó khăn, trở ngại nào do cộng sản dựng lên để ngăn chặn cuộc di cư của đồng bào? Những nơi ông đi qua, những cảnh ngộ ông đối mặt, tất cả đều phản ánh hoàn cảnh chung về cuộc sống ba chìm bảy nổi của ngót một triệu đồng bào miền Bắc trước ngày phải xa lìa tất cả để vào Nam.

  –Chủ đề thứ hai: nhà báo Trần Phong Vũ gợi lại những kỷ niệm đẹp về tài năng, đức độ, mưu trí, và viễn kiến phi phàm về hiểm họa cộng sản của một Hương chức cấp Tổng trong gia tộc ông. Những tình tiết ly kỳ, hấp dẫn trong câu chuyện này không chỉ là chuyện cá nhân. Trái lại nó mang giá trị chung, giúp thế hệ sau hiểu được những nét đẹp tuyệt vời tiềm tàng trong giới lãnh đạo hạ tầng cơ sở tại miền Bắc Việt Nam ta trước ngày đất nước bị cắt chia thành hai mảnh!

  –Chủ đề thứ ba:Tưởng niệm chẵn 70 năm biến cố đất nước bị chia đôi. Đây là cơ hội nhà báo họ Trần sẽ giúp chúng ta khai quật lại những khía cạnh tiêu cực, cũng như tích cực trong cuộc dời cư “không tiền khoáng hậu” của ngót một triệu đồng bào ta từ miến Bắc vĩ tuyến vào miền Nam.

 Đâu là những khó khăn, trở ngại ban đầu mà chính quyền non trẻ do chí sĩ Ngô Đình Diệm lãnh đạo phải giải quyết để ổn định đời sống của cá triệu đồng bào với cả trăm ngàn trẻ em ở tuổi măng sữa mà tuyệt đại đa số phụ huynh của chúng vốn là nông dân rời miền Bắc vào Nam với hai bàn tay trắng? Đấy là chưa kể tới việc giải quyết công ăn, việc làm và nơi cư ngụ cho tập thể đông đảo các gia đình quân nhân, công chức, lao động, tiểu thương khi ấy?

 Giữa tình trạng gần như tuyệt vọng của một chính quyền vốn đang phải đối diện với những thử thách vô cùng cam go, cay nghiệt vì tệ nạn sứ quân do những mưu toan thâm độc của Thực dân Pháp trong giai đoạn thoái trào của chúng tạo nên, thì phép lạ nào, cơ may nào đã giúp cho miền Nam tồn tại trong hai thập niên sau? Không những tồn tại để vinh dự hiện diện cùng năm châu, bốn biển, cụ thể là các quốc gia lân bang như Thái Lan, Tân Gia Ba, Đại Hàn qua sự ra đời sớm sủa của hai nền Cộng Hòa Việt Nam văn minh, tiến bộ sau đó.

 Đẩy suy nghĩ xa hơn, nó còn là động lực thần kỳ giúp khai thông và dung hóa giữa hai lối sống và hai nền văn minh tuồng như hoàn toàn trái nghịch nhau. Một bên là 1 triệu người miền Bắc ngàn đời khư khư ôm ấp những tập tục cổ truyền, khép kín, cần kiệm, gắn bó với chòm xóm khuất lấp sau lũy tre xanh và bên kia là trên 10 triệu đồng bào miền Nam vốn được tắm gội nền Văn Minh Lúa Nước (hay còn gọi là Nền Văn Minh Miệt Vườn) của tiền nhân lại sớm đươc tiếp nhận tinh thần phóng khoáng, bao dung của văn minh phương tây.

               Từ 1954 đến 1975, do những bất đồng về nhiều phương diện như phong tục, tập quán, cung cách xử sự và cách phát âm khác nhau trong ngôn ngữ Việt giữa người dân hai miền, thời gian đầu đã nảy sinh những ngộ nhận dẫn tới những xung khắc không ai muốn.

 Nhưng thật may mắn. Chỉ trong vòng không đầy 10 năm sau, nhờ những tiếp xúc thường xuyên trong công việc làm ăn, sinh sống hàng ngày giữa người lớn và nhất là giữa con em họ tại học đường, dần dà, mọi hiểu lầm ngày một giảm thiểu. Đồng bào miền Bắc nhận ra tâm tính hồn nhiên, dễ dãi, quảng đại, sẵn sàng cưu mang, giúp đỡ tha nhân của tuyệt đại đa số bà con miền Nam. Trong khi ấy, người dân ‘miệt vườn” cũng học được ở tập thể người Bắc lối sống căn cơ, ngăn nắp, cẩn trọng, cần kiệm, nhất là cung cách xử sự, giáo dục con cái trong gia đình.

Chính sự kiện này đã trở thành nguyên động lực giúp khai thông và dung hóa giữa hai lối sống và hai nền văn minh tuồng như hoàn toàn trái nghịch nhau như đã đề cập trên đây. Từ đấy bất ngờ tạo nên một mối gìây tương tác diệu kỳ, nối kết hai đối tượng lại thành một khối dân đồng nhất, không phân biệt Bắc Nam, mà ảnh hưởng tích cực của nó không chỉ ngừng lại ở biến cố 30 tháng Tư, 21 năm sau.

Theo quan điểm của nhà báo họ Trần, nhờ có cuộc di cư của ngót một triệu đồng bào miền Bắc năm 54, đã tạo nên hiệu ứng tích cực cho cả hai trường hợp sau đây khi cộng sản cưỡng chiếm được miền Nam.

 -Trường hợp thứ nhất, số lượng đồng bào Việt gốc Nam liều chết vượt biên, vượt biển đi tìm tự do ở hải ngoại sau 30 tháng tư 75 đã lên cao một cách ngoạn mục dị thường nhờ bài học kinh nghiệm đắt giá về bản chất dã man, tàn độc của CS tìm thấy nơi tập thể bà con Việt di cư gốc Bắc. Cũng nhờ những trải nghiệm quí ấy đã  dẫn tới trường hợp thứ hai.

Vì những lý do bất khả kháng, một số không nhỏ bà con, bất kể Bắc/Nam, đã bị kẹt lại quê hương sau biến cố 75.  Khác chăng là lúc này, đám đông người Việt gốc Nam không còn nhẹ dạ, cả tin như trước nữa. Họ đã thật sự trưởng thành về mặt chính trị, về ý thức công dân. Đấy là lý do khiến trong nửa thế kỷ qua, dù trên danh nghĩa, Bắc Bộ Phủ đã cướp được miền Nam để huênh hoang vỗ ngực tự nhận là đã thống nhất được đất nước. Nhưng thực tế khác hẳn. Mọi mưu toan “Bắc Kỳ Hóa” guồng máy cai trị toàn miền Nam, cách riêng thành phố mang tên họ Hồ, đã thất bại không chỉ một lần. Dù bọn đầu sỏ ở Bắc Bộ Phủ không muốn, nhưng nếp sinh hoạt về mọi mặt của miền Nam, từ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đểu khác xa Hà Nội, khiến tỷ lệ dân số, đặc biệt giới trí thức, bao gồm giới văn nghệ sĩ bỏ miền Bắc vào sinh sống ở miền Nam ngày càng gia tăng.