YÊU QUÝ 2 CHỮ ‘VIỆT NAM”, NHƯNG “VIỆT NAM” NGHĨA LÀ GÌ ? (Nguyễn Chương Mt)

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

Đây là LẦN ĐẦU TIÊN trong suốt lịch sử cả ngàn năm, Tàu đã phải từ bỏ cách gọi truyền kiếp “An Nam” đối với nước Việt chúng ta!

1/ Không ít người bây giờ vẫn tưởng “Việt Nam” nghĩa là nước Nam của người Việt. Hoặc là, qua một số em sinh viên trẻ cho tôi biết ở trường giải thích: “Việt Nam” nghĩa là nước Việt nằm về phương Nam (so với Trung Quốc). Mắc giống gì mà danh xưng một quốc gia lại đi lấy một quốc gia khác làm “hệ qui chiếu”? Coi, quốc gia của người Hàn nằm về phía đông nước Tàu, họ đâu giải thích nước họ là … “Hàn Đông”.

Để rồi, hệt như có một làn gió mát mẻ, hết sức khỏe khoắn sau khi tôi may mắn tìm hiểu được ý nghĩa đích xác của quốc hiệu “VIỆT NAM” vào buổi chào đời.

“Việt” trong quốc hiệu “Việt Nam” 越 南, té ra không phải làm một với “Việt” trong quốc hiệu “Đại Việt” 大 越 gì ráo (mặc dù nhìn vô mặt chữ hệt nhau)! Mà “Việt” đàng nào cũng có cái hay, nhưng lại không giống nhau.

2/ VIỆT NAM trở thành quốc hiệu chính thức, lần đầu tiên, là vào đời vua Gia Long, năm 1804.

Trước đó, theo dòng lịch sử qua các đời Lý, Trần, Lê… cho dù mang quốc hiệu “Đại Việt” nhưng nước Tàu mặc kệ, họ cứ gọi xứ sở (lấy Thăng Long làm kinh đô) là “An Nam”.
Chỉ tới đời Gia Long sau khi đặt quốc hiệu “Việt Nam” (với Huế làm kinh đô), bên Tàu mới từ bỏ cách gọi truyền kiếp “An Nam” mà gọi nhứt quán luôn là “Việt Nam”!
Đời nay chúng ta mỗi khi hãnh diện về hai chữ “Việt Nam” thì nên nhớ tới cái danh xưng đó do vua Gia Long đặt ra, đừng uống nước mà quên luôn cái nguồn quốc hiệu đó từ đâu, đừng bị nhiễm thói ăn cháo đái bát.

3/ Ban đầu, năm 1802, vua Gia Long đặt tên nước là “Nam Việt”, sai sứ sang Tàu nói họ bỏ cách gọi “An Nam” đi, từ rày trở đi nên gọi là: 南 越 Nam Việt.

Nhưng nhà Thanh e ngại hai chữ 南 越 (Nam Việt) lặp lại y chang quốc hiệu “Nam Việt” mà Triệu Vũ Đế (Triệu Đà, năm 204 TCN – năm 137 TCN) đặt ra, bấy giờ lãnh thổ không chỉ có Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam (đồng bằng sông Hồng cho tới Hà Tĩnh) mà bao trùm luôn Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây).

(Mở ngoặc nói thêm: Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi viết:
“Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc
Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương”
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”. TRIỆU ở đây tức Triệu Đà, rồi Đinh Tiên Hoàng, Lý Thái Tổ, Trần Thái Tông thảy đều xưng “đế”.
Thời Quang Trung hoàng đế cũng đã có ý định đòi lại Lưỡng Quảng, do các triều đại nước ta như nhà Trần, nhà Lê, nhà Nguyễn… trong rất nhiều thế kỷ đều coi Triệu Đà nằm trong dòng chính sử nước Việt đã từng sở hữu Lưỡng Quảng).

4/ Để tránh sự e ngại từ nhà Thanh, vua Gia Long đã đổi “Nam Việt” thành VIỆT NAM (越 南). 

Dầu “Nam Việt” hoặc “Việt Nam” cũng đều chung ý nghĩa. Trịnh Hoài Đức (1765-1825), sử gia nổi tiếng sống dưới thời vua Gia Long, có mặt trong đoàn sứ qua Tàu đàm phán với nhà Thanh, cho biết:
“Việt Nam là quốc hiệu thích hợp để chỉ một lãnh thổ thống nhứt giữa Đàng Trong với Đàng Ngoài”, và diễn giải ý nghĩa của quốc hiệu này là: “chúng ta sở hữu đất của Việt Thường trước, và vùng An Nam được thêm vào sau đó”.

Hai chữ VIỆT NAM là sự kết hợp giữa VIỆT (THƯỜNG) với (AN) NAM.

5/ Việt Thường là xứ mô? 

Theo những sách cổ xưa như “Hậu Hán thư”, “Thượng thư đại truyện”, “Tư trị thông giám cương mục” thì nước Việt Thường 越 裳 nằm về phía nam Giao Chỉ.
Trong cuốn “Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập” xác định tên gọi VIỆT THƯỜNG “là tên cổ của xứ Champa”!

Một nguồn khác cho biết cách gọi “Việt Thường” là để chỉ lãnh thổ về phía nam của Giao Chỉ, bao gồm cả Phù Nam (sau này trở thành vùng Thủy Chân Lạp).

Trịnh Hoài Đức viết: “chúng ta sở hữu đất của Việt Thường 越 裳 trước”, để ghi nhận các bậc tiền nhân của vua Gia Long (là các Chúa Nguyễn) đã hùng cứ tại Đàng Trong (Champa, Thủy Chân Lạp), sau đó Nguyễn Phước Ánh (vua Gia Long) đã “thêm vào vùng An Nam 安 南 ” là xứ lấy Thăng Long làm kinh đô (tức Đàng Ngoài).

* THAY LỜI KẾT

“Việt” (trong “Đại Việt” 大 越 ) dùng để chỉ Việt tộc. Còn “Việt” (trong “Việt Nam” 越 南 ) tuy cùng mặt chữ nhưng được lấy từ trong danh từ kép “Việt Thường” 越 裳 (định danh về địa lý).

Ghép chữ “Việt” (trong “Việt Thường”) với “Nam” (trong “An Nam”) thành quốc hiệu VIỆT NAM, là sự ghi nhận đàng hoàng về nguồn gốc của từng vùng lãnh thổ!

Qua đó, vua Gia Long cho thấy niềm hãnh diện trước việc thống nhứt Đàng Trong với Đàng Ngoài. Lãnh thổ nước ta LẦN ĐẦU TIÊN trải rộng từ bắc chí nam, theo đường cái quan đi từ Quảng Ninh cho tới mũi Cà Mau thành đường cong chữ S.
Tắt một lời, VIỆT NAM là quốc hiệu mang ý nghĩa về SỰ HỢP NHỨT LÃNH THỔ (bao gồm nhiều cộng đồng dân tộc; chứ không nói riêng cho tộc Việt).

Ý nghĩa nêu trên của hai chữ VIỆT NAM, thiệt hay hết sức, độc đáo hết sức trong tinh thần hợp quần các cộng đồng dân tộc ./.
——————————————————————————
(*) Một số nguồn tài liệu cho rằng hai chữ “Việt Nam” đã từng xuất hiện trong thư tịch xưa kia… XIN CHÚ Ý: “VIỆT NAM” trở thành QUỐC HIỆU (tên nước) thì chỉ bắt đầu vào đời vua Gia Long mà thôi. Mặt khác, ý nghĩa của QUỐC HIỆU “VIỆT NAM” phải dựa trên cách giải thích từ Nhà Nguyễn (là triều đại đã đặt ra quốc hiệu này), như trong bài đã dẫn ra, mang ý nghĩa về SỰ HỢP NHỨT LÃNH THỔ.
Bản đồ nước Việt Nam sau khi thống nhứt sơn hà vào năm 1802, để ý có “Thuận Thành trấn”, theo sắc lịnh của vua Gia Long, là khu vực tự trị dành cho cộng đồng người Cham; có “Nam Bàn” (cao nguyên miền trung, bây giờ gọi là “Tây nguyên”) gồm một vài tiểu quốc, nổi bật nhứt là tiểu quốc J’rai, họ chịu sự bảo trợ của nhà Nguyễn, nơi đây ngược dòng lịch sử xa xưa cũng thuộc Champa.