XUNG ĐỘT UKRAINE CÓ HÀM Ý LỚN NHẤT CHO VIỆT NAM

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

Một sự tính toán sai lầm trên Biển Đông có thể dễ dàng leo thang chiến tranh

Cuộc chiến của Nga ở Đông Âu đã khiến các nhà quan sát an ninh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương so sánh cảnh ngộ của Ukraine với cảnh ngộ của Đài Loan khi phải đối đầu Trung Cộng.

Đúng là Ukraine và Đài Loan đều là các quốc gia dân chủ đang xung đột với một cường quốc láng giềng theo chủ nghĩa Cộng Sản và độc tài. Và lập luận của Vladimir Putin, rằng Ukraine không phải là một quốc gia có chủ quyền, dường như đang lặp lại lời của Tập Cận Bình và các nhà lãnh đạo Trung Cộng trước ông ta, rằng Đài Loan chỉ là một tỉnh nổi loạn và ngày “thống nhất” rồi sẽ đến, hoặc bằng các biện pháp hòa bình, hoặc bằng cách biện pháp quân sự nếu cần thiết.

Tuy nhiên, ngoài những điểm tương đồng đáng chú ý này, chẳng còn gì có thể đem ra so sánh giữa Ukraine và Đài Loan. Một phép so sánh hữu dụng hơn sẽ là với một quốc gia Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương khác đó là Việt Nam.

Cũng là một nước theo “xã hội chủ nghĩa”, do độc Đảng Cộng Sản cai trị, nhưng Hà Nội đang chịu áp lực ngày càng lớn từ Trung Cộng, đặc biệt là xung quanh các tuyên bố chủ quyền chồng chéo ở Biển Đông. Dù Trung Cộng không đe dọa sẽ xâm lược Việt Nam, như Nga đã đe dọa Ukraine, đụng độ dữ dội giữa hai quốc gia châu Á này đã từng diễn ra. Một sự cố từ trên biển tràn vào đất liền, phá vỡ nền hòa bình kéo dài hàng thập niên ở biên giới chung của hai bên, không phải là điều không thể tưởng tượng được. Thậm chí một tình hình như vậy còn có nhiều khả năng xảy ra hơn so với một cuộc xâm lược nhắm vào Đài Loan.

Việt Nam hiện không có liên minh an ninh với bất kỳ cường quốc hoặc nằm trong liên minh quân sự nào, và đó chính là điều khiến Ukraine trở nên dễ bị tổn thương. Chính sách đối ngoại không liên kết của Hà Nội kể từ sau khi Chiến Tranh Lạnh kết thúc có nghĩa là Trung Cộng có thể tấn công họ mà không sợ bị các quốc gia mạnh hơn trả đũa. Dù quan hệ Việt-Mỹ đã phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây, trên ngoại giao quan hệ đối tác “toàn diện” của Washington với Hà Nội thực ra là cấp độ ngoại giao còn thấp.

Sự sụp đổ của Liên Xô khiến Việt Nam cảm thấy không muốn tham gia các liên minh, đến mức Hà Nội thậm chí không có cả liên minh an ninh với đàn anh lâu đời là Nga. Điều này thực sự khiến Việt Nam trở nên đơn độc ở Biển Đông. Để so sánh, Philippines cũng có các tuyên bố chủ quyền chồng lấn với Trung Cộng, nhưng nước này vẫn có thể dựa vào quan hệ đồng minh với Hoa Kỳ bởi Hiệp Ước Bất Tương Xâm giữa hai nước từ năm 1951.

Phải thừa nhận rằng Đài Loan cũng không có liên minh với Mỹ hoặc bất kỳ cường quốc nào khác. Tuy nhiên, kể từ khi Mỹ cắt đứt quan hệ ngoại giao với Đài Bắc, thể theo ý Bắc Kinh năm 1979, mọi chính quyền Washington đều hỗ trợ Đài Loan với những vũ khí cần thiết để phòng thủ theo quy định của Đạo Luật Quan Hệ Đài Loan (Tawain Relations Act). Hơn nữa, mới tháng 10 năm ngoái, Tổng thống Mỹ đã hai lần khẳng định Mỹ sẵn sàng bảo vệ Đài Loan, nếu Trung Cộng tiến hành một cuộc tấn công quân sự nhắm vào quốc đảo này. Việt Nam không thể có kỳ vọng như vậy.

Việt Nam, giống như Ukraine, trước đây cũng đã từng bị tấn công bởi Trung Cộng nước láng giềng lớn hơn của mình. Nga chiếm Crimea vào năm 2014, và còn xâm nhập vào khu vực biên giới Donetsk và Luhansk của Ukraine. Tương tự, Trung Cộng đã chiếm một phần quần đảo Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng hòa vào năm 1974, và từ chối trao trả quần đảo này sau khi Việt Nam thống nhất dưới chế độ cộng sản. Sau đó, vào năm 1979, Quân đội Trung Cộng tiến hành xâm lược để “dạy cho Việt Nam một bài học” vì đã can thiệp vào Campuchia chống lại Khmer Đỏ do Trung Cộng hậu thuẫn.

Mạng xã hội Việt Nam đã xôn xao về những điểm tương đồng này kể từ khi khủng hoảng Nga-Ukraine bắt đầu. Theo một bình luận gần đây, điều duy nhất đã cứu Việt Nam khỏi bị xâm lược toàn diện bởi Trung Cộng là nhờ liên minh với một Liên Xô có vũ khí hạt nhân, mà nay đã không còn tồn tại.

Bắc Kinh liên tục thực hiện các lựa chọn quân sự chống lại Việt Nam. Ví dụ, vào năm 1988, Trung Cộng đã chiếm đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa từ tay Việt Nam. Trong vòng 10 năm gần đây, Trung Cộng cho xây dựng các căn cứ quân sự trên các đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa và xây dựng căn cứ quân sự trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Ngày nay Trung Cộng là quốc gia sở hữu lực lượng hải quân đông nhất thế giới, cũng như lực lượng hải cảnh và ngư binh lớn nhất khu vực, Trung Cộng thường xuyên tuần tra các khu vực tranh chấp và ép buộc tàu thuyền của đối phương ra khỏi khu vực. Vào đầu tháng 3/2022, quân đội Trung Cộng đã tiến hành một đợt tập trận trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, nhiều khả năng là để trục vớt một chiếc máy bay quân sự [của Mỹ] bị rơi, mà không có sự cho phép của Hà Nội.

Trong khi đó, việc thành lập ít nhất một, mà có thể là hai, căn cứ của quân đội Trung Cộng trên đất liền gần khu vực biên giới Việt-Trung đã đưa lên công khai vào năm ngoái – đó là một căn cứ hoả tiễn và bãi đậu máy bay trực thăng. Luật biên giới đất liền mới của Bắc Kinh đã được thông qua vào năm 2021, khuyến khích việc phòng vệ tích cực các đường biên giới của Trung Cộng bằng vũ lực, gợi ý rằng các đơn vị quân đội Trung Cộng hoạt động ngoài các căn cứ này có thể được trao quyền để gây thêm áp lực đối với Việt Nam.

Đài Loan cũng phải đối mặt với các mối đe dọa ngày càng tăng, đặc biệt là từ các máy bay chiến đấu của Trung Cộng thường xuyên xâm nhập vào vùng nhận dạng phòng không của hòn đảo này. Tuy nhiên, Trung Cộng chưa bao giờ thực hiện bất kỳ hành động quân sự trực tiếp nào chống lại Đài Loan, kể từ khi chính phủ Trung Hoa Quốc Dân Đảng chạy ra đây vào cuối giai đoạn chiến tranh Quốc-Cộng năm 1949. Điều này không có nghĩa là không xảy ra chiến tranh nào giữa hai bờ eo biển.

Trong các năm 1954-1955 và 1958, quân đội Trung Cộng từng pháo kích vào các tiền đồn quân sự của Đài Loan tại hai đảo Kim Môn và Mã Tổ gần bờ của Trung Cộng. Ngoài ra, vào các năm 1995 và 1996, Bắc Kinh đã phóng hoả tiễn gần Đài Loan để phản đối chuyến thăm Hoa Kỳ của Tổng thống Đài Loan đương nhiệm lúc đó, Lý Đăng Huy. Tuy nhiên, nhìn chung, Bắc Kinh đã hạn chế thực hiện các hành động quân sự chống lại chính đảo Đài Loan. Nhưng chúng ta không thể nói điều tương tự về Việt Nam.

Trung Cộng có lẽ cũng mong đợi dễ dàng và nhanh chóng đánh bại Việt Nam trong một cuộc xung đột vũ trang thông thường, chẳng khác gì kỳ vọng của Nga trước chiến tranh, tin rằng lực lượng Ukraine thực sự kém cỏi. Trung Cộng hiện có một lợi thế quân sự áp đảo so với Việt Nam về hoả tiễn đạn đạo và hoả tiễn hành trình, oanh tạc cơ, chiến đấu cơ, tàu ngầm, các hạm đội  hay các lĩnh vực khác.

Sau khi công bố tăng ngân sách quốc phòng 7.1% vào đầu tháng này, ngân sách quốc phòng của Bắc Kinh vào khoảng 230 tỷ USD, gấp 32 lần ngân sách ước tính 7 tỷ USD của Việt Nam. Hơn nữa, Trung Cộng đã liên tục đầu tư vào canh tân quân đội, đặc biệt là để tăng cường khả năng hợp đồng tác chiến giữa các quân binh chủng, cuối cùng biến quân đội Trung Cộng, dưới sự hướng dẫn của ông Tập, trở thành lực lượng “đẳng cấp thế giới.” Lực lượng Việt Nam còn thua xa Trung Cộng về mọi mặt có thể hình dung được.

Ngược lại, Đài Loan đã đầu tư rất nhiều vào việc mua sắm hoặc tự chế tạo các vũ khí phòng thủ  giá rẻ có khả năng cản đường nỗ lực của Bắc Kinh nhằm chinh phục hòn đảo này. Đài Loan đang sở hữu nhiều hoả tiễn đất đối không, như các khẩu đội hoả tiễn Patriot và hoả tiễn hành trình chống chiến hạm của Mỹ cung cấp cho Đài Loan.

Đài Loan cũng được hưởng lợi từ sự ủng hộ kéo dài hàng thập niên cho việc mua sắm các hệ thống vũ khí tối tân của Mỹ, bao gồm cả mua 66 máy bay chiến đấu F-16V vào năm ngoái, nhằm tăng cường khả năng không chiến và tuần tra. Đài Loan đã đặt ưu tiên vào hợp đồng tác chiến giữa các bộ phận của lực lượng quân sự, cũng như hoàn thiện khả năng tham chiến về không quân và hải quân, trong khi Việt Nam lại không có các ưu tiên như vậy, do đó có thể làm suy yếu khả năng hợp đồng tác chiến của VN.

Về mặt địa lý, việc chinh phục Đài Loan có lẽ sẽ phức tạp hơn nhiều so với việc xâm lược Ukraine trên đất liền. Nga đã tập trung quân dọc theo biên giới và xua quân qua địa hình phần lớn là bằng phẳng. Trong khi đó, Trung Cộng sẽ phải tiến hành một chiến dịch đổ bộ vào Đài Loan bằng đường biển và có thể sẽ dễ bị tổn thương khi đi qua Eo biển. Đường biên giới chung trên đất liền của Việt Nam với Trung Cộng, tương tự như Ukraine với Nga, không đặt ra bất kỳ thách thức địa hình đặc biệt khó khăn nào.

Không có phép so sánh nào là hoàn hảo, nhưng so sánh Nga-Ukraine với Trung Cộng-Đài Loan sẽ là một thiếu sót nghiêm trọng. So sánh đúng hơn nên là với quan hệ Trung Cộng-Việt Nam, đi kèm với một tính toán sai lầm ở Biển Đông có thể leo thang thành một cuộc xung đột trên đất liền.

Kết luận này có hai hàm ý. Một mặt, Washington có lẽ sẽ an tâm hơn khi biết rằng Đài Loan không dễ bị tổn thương như Ukraine. Mặt khác, người Mỹ có thể muốn để ý nhiều hơn tới khả năng dễ bị tổn thương của Việt Nam.

Tác giả: Derek Grossman là nhà phân tích quốc phòng cao cấp của RAND Corporation. Trước đây, ông từng là cố vấn tình báo tại Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ.

Theo biên dịch của Nguyễn Thị Kim Phụng (nghiencuuquocte.org)