BÚT KÝ: HÀNH TRÌNH VƯỢT BIỂN ĐÔNG!
“Kim Oanh Journey through the East Sea,”
Năm 1976 vừa xong bậc trung học tui rời Vĩnh Long, lần đầu tiên ba anh em tui vượt biên cùng với mười bảy người bạn chí thân. Vừa xuống ghe lớn chúng tui đã bị bắt và đưa về nhà lao Rạch Giá trong nỗi lo âu sợ hãi.
Trong nhà giam, muôn vấn đề về vệ sinh đối với phụ nữ đỡ hơn nam giới. Buổi chiều, phụ nữ được thả ra sân chơi, nhìn qua bên phía nhà của nam giới, tui nhận diện được anh và em tui qua ô cửa sổ nhỏ. Chúng tui trao đổi bằng cách ra dấu và biểu hiện bằng ánh mắt.
Đêm đêm tui cầu nguyện Đất Trời, Ông Bà đã qua đời, phù hộ cho anh em tui được thoát tai nạn này.
Một buổi trưa đang mơ màng ngủ trong cơn nửa mê nửa tỉnh, những người cùng phòng đánh bài, trò chuyện lao xao, tui cố giương đôi mắt nhưng không thể được. Bỗng một hình ảnh lung linh ở khung cửa sổ, trên nóc phòng giam. Hình bóng người thanh niên, vận áo dài khăn đóng, gương mặt thanh tú và hiền từ. Tui cố vùng dậy thì thoáng nghe tiếng nói: “Tên tui là….. (xin cho tui được giấu tên) tui chết vì tội vượt biên ở Kiên Lương, Rạch Giá, tui sẽ phù hộ cô suốt cuộc đời ” và bóng hình ấy biến mất. Khi choàng tỉnh, tui rất lo âu, sợ sệt. Nơi đây tui quen chị Ánh, Chị rất thương tui vì chị thấy tui thường hay khóc một mình. Tui đem giấc mơ kể chị nghe, chị cho biết, cách nay vài tháng có một chuyến tàu của sinh viên, giả dạng là một đoàn văn công đi trình diễn văn nghệ, bị bại lộ. Cả đoàn cùng nhau đốt tàu và tự thiêu ngoài khơi, chị ức đoán cách ăn mặc của người trong giấc mơ là người trong chuyến hải hành này. Chị khuyên tui, đừng lo sợ, mỗi khi ăn cơm hãy gọi tên người ấy và lập lại lời người nói, mời người về dùng cơm và cầu nguyện những gì tui ước muốn.
Thế là từ đó tui luôn cầu, khấn nguyện cho anh em tui được ra khỏi phòng tối. Một tuần lễ sau anh và em tui được ra ở hội trường. Tui vô cùng mừng rỡ. Lại tiếp tục khấn cầu. Tuy là hy vọng rất mong manh nhưng tui vẫn khấn nguyện cho chúng tui được sớm thả ra. Ồ điều ấy khó lắm! Vì chúng tui đang trong lứa tuổi lao động nên trước khi được tha, bắt buộc phải đi lao động ở U Minh ít nhứt một năm. Sau 2 tháng 10 ngày bị giam, nhóm tui được gọi tên tập họp. Lòng nghĩ thầm đi U Minh thôi! Nhưng một phép nhiệm màu, mười bảy người trong nhóm được “khoan hồng”. Thiệt tui không ngờ là điều này có thể xảy ra.
Sau đó, gia đình tui vẫn lần lượt ra đi. Tui lại tiếp tục cầu nguyện cho anh chi em tui ra đi thành công tui sẽ ở lại với Ba Má, được thế tui mãn nguyện lắm rồi. Thế là mỗi chuyến anh, chị, em của tui đều đến nơi bình an. Duy chỉ có tui thất bại, lầm lũi trở về. Rồi chờ đêm thiệt khuya mới dám vào nhà. Má tui bảo: mỗi lần nghe tiếng gõ cửa trong đêm, lòng Má đau như cắt vì biết rằng con đi không thành. Ba Má đã đổ không biết bao công lao, khó nhọc, vơ vét những gì có thể bán đổi lấy vàng để lo cho tui, thất bại là mất tiền. Với năm lần thất bại. Ba Má phải vay mượn, nhứt quyết cho tui ra đi.
Một hôm Má tui hỏi:
– Con đã cầu nguyện như thế nào? nói cho Má nghe?
– Con cầu cho tất cả anh chị em ra đi được bình an con ở lại với Ba Má.
Má tui không nói lời nào, Má nấu một mâm cơm chay và khấn Người đã phù hộ cho tui xin lỗi người khuất mặt mà tui đã gặp trong giấc mơ. Má xin được lấy lại lời tui khấn. Mong Người giúp tui ra đi được bình an, nếu có thương tui người hãy giúp cho con tui được hạnh phúc về sau. Và Má tôi bảo:
– Từ nay con đừng cầu xin người ấy nữa, hãy để cho Người ra đi thanh thản.
Vào tháng O5 năm 1979, trời chưa kịp sáng tui một lần nữa rời gia đình. Có người hướng dẫn tui đến bến đò Rạch Sỏi. Một chiếc đò nhỏ, tất cả mười ba người. Tui cảm thấy lo với con số 13. Thiệt vậy, đò vừa ra khỏi vùng khám xét, bỗng nhiên tắt máy và trôi theo con nước, tất cả lo âu, hồi hộp. Chúng tui bắt buộc phải nằm dài xuống lòng đò, một tấm bạt được phủ lên che kín. Hai người trong nhóm thay phiên nhau sửa máy. Tui cầu nguyện Trời Phật Ông Bà che chở cho chúng tui.
Tiếng máy nổ, có lẽ không lớn bằng mười ba tiếng thở phào nhẹ nhỏm. Đò tiếp tục chạy, từ từ thấy biển khơi. Một chiếc tàu thiệt dài khoảng mười mét hiện ra trước mắt. Chúng tui lên tàu cả gia đình chủ tàu, tài công đều là anh em ruột. Trong nhóm người đi đa số là họ hàng gần trừ ra hai gia đình còn lại, và tui không có họ hàng với chủ ghe. Như vậy trong ghe này tui là người đơn độc. Hoà, cậu thanh niên đưa chúng tui đến ghe lớn, vội vàng bỏ chiếc đò nhỏ xin chủ ghe đi theo. Tổng cộng bốn mươi hai người.
Vừa vui lại vừa khóc! Lần này là vĩnh viễn xa… xa tất cả những người thương, xa quê hương và biết đến bao giờ mới có ngày trở lại? Sau đó nỗi lo ngại lại xâm chiếm lòng. Rồi đây chúng tui sẽ đi đâu và về đâu?
Nhưng tui đã từng suy nghĩ ra đi là tìm cái sống trong cái chết, vì vậy sẵn sàng chấp nhận một bị bắt hoặc tệ hại hơn là bỏ mình ngoài biển khơi. Nghĩ như thế mới mong có đủ can đảm và cương quyết ra đi.
Chiếc ghe tui vừa lên, đã đi đánh cá lâu ngày trên biển nên trên tàu có sẵn rất nhiều thực phẩm. Mấy hầm tôm, cá, mực tươi. Mực khô, tép khô, gạo nước đều đầy ấp. Chủ tàu họ lo cơm nước rất chu đáo cho những người trong chuyến đi này. Riêng tui không ăn được vì bị say sóng.
Ngày đầu ra khơi, lo lắng, bồn chồn lẫn háo hức, không ai ngủ được, khi đêm đến tất cả lên boong tàu trò chuyện và tui được dịp làm quen những người đồng hành. Gia đình anh Hai, anh Ba, gia đình anh Tư, anh Năm, vợ chồng anh tài công (anh Mài và chị Ánh), gia đình chú Tuấn, vợ chồng anh Phở, vợ chồng Dũng Thắm, còn lại tất cả còn độc thân là chú Tuấn, Anh Cường, Thường, Diếng, Giỏi, Hòa, Hùng, Liêm, bốn đứa con gái, Hà, Nguyên, Hồng và tui.
Lúc biển yên gió lặng, cùng nhau phân công, ai biết nói Anh ngữ để có thể giúp mọi người khi tới nơi. Trong nhóm có anh Dũng nhận trách nhiệm này, anh Ba, anh Cường là người Hoa có thể nói Quang Thoại, và Quảng Đông. Anh Ba rất vui tính, anh trò chuyện để trấn an mọi người, anh kể sự tích chiếc tàu, rất linh thiêng, con gái của bà chủ tàu trước đó đã chết ngay cột tàu. Khi gia đình anh mua về họ luôn luôn khấn cô gái ấy. Trên ghe có một tượng Phật Bà thiệt cao, được thờ trước đầu tàu để độ hộ cho gia đình anh mỗi chuyến ra khơi. Ngoài ra anh còn một lọ nước làm phép. Anh bảo khi gặp nguy cơ chỉ cần thoa lên tóc thì nói đối phương sẽ nghe. Cho nên anh rất có niềm tin. Đêm đó nhìn dáng của mọi người cùng hướng mắt ra vùng biển bao la, lòng tui như chỉ rối, lắc đầu xua đi khối nặng đang đè trong não tui cố gắng dỗ giấc ngủ, ngủ bình yên sau một ngày hoang mang sợ hãi.
Ngày sau, ghe vẫn im đìm lướt sóng, hai bên hong ghe có hai đàn cá đi theo…xa khơi bắt đầu thấy những mảnh ván đồ đạc nổi trôi. Một nỗi lo sợ bao trùm. Có lẽ một chiếc tàu nào đã đắm gần đây. Khoảng xế chiều, ghe đi cũng khá xa hướng về Malaysia. Thình lình anh tài công bỏ ống nhìn, thông báo có hai chiếc tàu thiệt lớn từ xa tiến đến với tốc độ rất nhanh, anh sợ với tốc độ này đụng phải, ghe sẽ bị vỡ tan.
Tất cả anh em chủ tàu chuẩn bị chống trả vì họ có mang theo rất nhiều súng đạn. Theo kinh nghiệm đi biển họ biết đó là hải tặc. Nhưng các bà vợ của họ khóc xin năn nỉ chồng đừng chống trả. E rằng hải tặc có súng lớn hơn bắn lại, sẽ chết hết. Các bà khóc quá nên các ông buông tay.
Tui thiệt nhanh, nhảy vội xuống hầm tàu lấy dầu nhớt bôi vào mặt mình cho xấu xí đi vì hai chị tui đi trước viết thư về căn dặn khi gặp hải tặc một là làm đàn bà có con nhỏ, hai là làm một đứa con nít, thấy ai có con thì bế đại như thế mới mong thoát thân.
Trời ơi! Khi hai chiếc tàu cập vào chúng tui như người đã chết rồi. Tất cả đứng im như pho tượng. Bọn chúng chỉ có cái khố che thân, mặt mày dữ dằn, tay cấm búa, dao, mã tấu, thiệt kinh khiếp vô cùng. Tui thấy chị Tư có hai đứa con nhỏ, tui vội vàng bế đứa nhỏ nhứt của chị, vừa lúc ấy chúng đã tràn ngập lên tàu. Chúng chia chúng tui ra làm ba nhóm: đàn bà con nít, đàn ông con trai và con gái.
Tui bế đứa nhỏ, nên chúng đẩy tui vào nhóm đàn bà. Chúng thay nhau lục soát khắp tàu, khắp nơi trên cơ thể của từng người, chúng vơ vét vàng bạc, nhưng có lẽ điều chúng mừng nhứt là những khẩu súng đạn và thực phẩm tươi dưới hầm. Bọn họ quên chúng tui trong giây phút, chỉ lo vơ vét hết thực phẩm tươi về tàu. Thời gian sợ hải và kinh hoàng kéo dài rất lâu.
Bỗng nhiên chúng ra dấu mang nhóm con gái sang tàu chúng. Khiếp đảm và vô cùng tuyệt vọng! …Lúc này tui chỉ biết cầu nguyện mà thôi và tui quên đi những gì Má tui dặn dò, tui cầu xin linh hồn Người đã phù hộ cho tui dạo trước. Xin người thứ lỗi cho tui, ra đi mà không dám nói, giờ nếu thương tui xin giúp tất cả muôn người thoát nạn và những người con gái kia không bị làm ô nhục, tui rất cám ơn. Và từ xa xuất hiện thêm chiếc tàu thứ ba, đang tiến dần tới. Tui biết là khó sống hôm nay. Tui khấn nguyện xin Đức Mẹ, Ông Bà, Người phù hộ, nếu chết thì cho tui được chết trên bờ, để Ba Má tui còn biết con mình bỏ xác nơi đâu, cầu cho những người con gái kia được thả về ghe của mình, đừng bắt họ đi và được bình an. Tui nguyện thề sau này tui sẽ vào đạo. Thế rồi tui ngất đi không còn biết gì nữa.
Khi tỉnh lại, tui cảm nhận có mùi dầu Nhị Thiên Đường ở mũi. Cạnh tui là một người đàn ông trung niên ăn mặc bình thường. Ông nhanh tay dúi vào tay tui một cuộn giấy tròn nhỏ, linh cảm đây là người tốt, tui vội giấu vào trong búi tóc tui. Ông ta hỏi tui có biết Anh ngữ không, tui gật đầu, ông ta vội nói: “Tui là một thương buôn ở Singapore có hai con. Sau này cần gì tui giúp.”
Người thương buôn đưa cho tui một thau cháo, tui không dám ăn, tui sợ có thuốc mê, không còn nói được chỉ biết lắc đầu kinh hãi. Nhìn chung quanh các bạn gái đã về lại tàu, Tất cả đều bình an. Bọn hải tặc chỉ còn lảng vảng vài tên, lo vơ vét đồ đạc còn sót.
Ông cho người đem sữa đặc, dầu Nhị Thiên Đường, cá mòi hộp cho chúng tui. Nói bằng giọng Quảng Đông, chỉ đường đi đến Kuala Lumpur.
Sau khi hai chiếc tàu hải tặc đi xa rồi, tàu ông mới rời chúng tui. Ông chỉ xin tượng hình Phật Bà nơi đầu tàu. Chúng tui cùng ôm nhau khóc vì nỗi kinh hoàng đã qua đi. Kể từ giây phút đó tất cả đã thành một đại gia đình, đùm bọc chở che cho nhau.
Định thần lại, tui xem cuộn giấy nhỏ của người thương buôn đưa, chính là địa chỉ của ông ở Singapore. Chiếc tàu thứ ba chính là chiếc tàu ân nhân của chúng tui. Xin cám ơn một tấm lòng nhân đạo, xin ơn trên che chở cho gia đình người ân nhân này luôn an lành, hạnh phúc. Đúng là một phép nhiệm màu mà ơn trên đã ban cho chúng tui thoát nạn hôm nay.
Đêm thứ nhì, để tránh gặp nguy một lần nữa, đèn tàu tắt hết đêm nay không một ai dám ngủ mặc dù đã mệt lả người. Thình lình một tia sáng loé lên từ xa, tàu hướng theo tia sáng ấy mà chạy. Chúng tui reo mừng, một dãy nhà đèn sáng choang, và một bến cảng trải dài. Tàu cập vào cảng Hải Quân ở Terengganu. Hôm nay là ngày 12- O5- 1979.
Nhưng chưa kịp vui, một người lính Hải Quân nhảy thẳng xuống boong tàu, bắn một phát súng chỉ thiên. Than ơi! Đại họa đã giáng lần thứ hai sao? Chúng tui khiếp cả hồn vía, con nít khóc vang, tất cả dồn vào góc tàu, nép sát bên nhau run rẩy, người lính kia thì quát tháo om sòm. Tui chợt nghe loáng thoáng Anh ngữ thì phải? Tui vội trấn tỉnh để lắng nghe. Thôi đúng rồi! Tui nhìn anh Dũng, anh ngồi bất động và đang cố gắng che chở cho Thắm vợ anh.
– Ai có thể nói được Anh ngữ?
Hắn lập đi lập lại nhiều lần. Hồn vía đâu trả lời. Một nỗi kinh hoàng trước họng súng hướng về chúng tui.
– Không ai trả lời tui sẽ bắn.
Tui chỉ nghe có thế chân tay rời rã. Nhưng nghĩ đến “chết” làm tui nhớ Má tui, bà thường đem chuyện đời xưa kể cho con cháu nghe về kinh nghiệm sống trong chiến tranh. Thời chạy loạn giặc Tây, Má tui nhờ có chút vốn liếng Pháp ngữ, Má cũng từng giúp được cho bản thân mình và những người phụ nữ cùng làng thoát cảnh bị Tây hãm hiếp. Tui như cái lò xo bật dậy, với vốn liếng Anh ngữ ít ỏi, tui trả lời:
– Tui biết nói Anh ngữ chút ít.
Và lạ thay người lính đó nhỏ giọng xuống, tui cảm thấy tinh thần mình bớt căng thẳng, tôi cố gắng tập trung nhiều hơn.
– Có bao nhiêu người trên tàu? Hắn hỏi
– Có bốn mươi hai người trên tàu. Tui trả lời.
– Tui đếm không đúng bốn mươi hai người thì tui bắn. Hắn chĩa súng vào ngay tui.
Tui không còn tinh thần nữa, tui khóc và quỳ xuống van lạy. Cả tàu thấy tôi quỳ lạy tất cả đều làm theo. Ngay khi ấy hơn chục người lính khác kéo đến. Họ mặc đồng phục Hải Quân. Họ ra lịnh tui là người rời ghe trước tiên, đứng sang một bên, không bị khám xét và tất cả lần lượt rời ghe, những người còn lại bị khám xét toàn thân nhưng không sàm sỡ như bọn hải tặc dã man. Cũng nhờ tui không bị xét nên lúc đi ngang tui, Nguyên vội nhét vào tay tui một sợi dây chuyền, tui vội giấu vào trong búi tóc.
Màn đêm buông xuống rất nhanh tui đoán gần OOh đêm. Những người lính Hải Quân cho chúng tui ăn tạm bánh mì ngọt vài trái bôm. Chúng tui đã từ từ bình tĩnh lại.
Họ hỏi chúng tui từ đâu tới, đi có bị hải tặc không? Họ cho biết chúng tui sẽ phải rời nơi này trong vài hôm. Họ sẽ cấp xăng, thực phẩm và tiếp tục ra đi. Những ngày kế tiếp anh Ba anh Cường có thể nói giọng Quảng với họ, anh Dũng và tui cùng họp tác trả lời bằng Anh ngữ. Ba đêm liền chúng tui ngủ ngoài trời trên nền ciment cảng nóng bức. Mỗi đêm thao thức vì có những người muốn giở trò tồi bại với con gái, các anh họ của Nguyên, Hồng luôn nằm cạnh hai cô che chở còn tui không có người thân nên được nằm giữa Nguyên và Hồng. Rất cảm ơn hai cô bạn đã cho tui một nơi nương tựa, một tình tương thân tương ái.
Đêm thứ tư chúng tui được vào một căn nhà bằng gỗ một lầu ở tạm. Khi vào nơi ấy chúng tui nhận được những dòng chữ để lại từ những người đến trước, trên tảng đá để làm bếp nấu nướng và vết tích để lại là những nhúm tro tàn. ” Nơi đây không an toàn có thể bị kéo ra khơi. ” Dòng nhắn tin này làm chúng tui rất lo sợ, thì ra tai họa vẫn luôn chực chờ bất cứ lúc nào, nhưng lời nhắn đó là những chơn tình quý báu đối với chúng tui.
Lo lắng chưa biết phải đối phó như thế nào thì một đêm có chiếc tàu cập vào cảng để lấy nước và xăng dầu. Một người đàn ông bảo rằng tàu còn tốt sẽ bị ra khơi trở lại. Đến nửa khuya ông khách lạ trở lại cùng các anh trong tàu đục thủng cho tàu chìm. Người ân nhân đó một lần nữa đã tới với chúng tui trong việc làm vô cùng thánh thiện, người ấy không ai khác hơn chính là người Singapore đã giúp chúng tui khi hải tặc cướp tàu. Xin muôn vạn lời cám ơn, tấm lòng nhơn hậu, một lần nữa xin gửi đến ơn nhơn lòng biết ơn và lời nguyện cầu mọi điều may lành đến với ông và gia đình.
Thế là thoát nạn! Sáng hôm sau tàu chìm, bắt đầu có cảnh sát đến canh giữ chúng tui. Cứ mỗi hai tiếng đồng hồ họ thay ca trực, mỗi ca là hai người cảnh sát, nhờ có canh gác và có nhiều phòng, từng gia đình ngủ riêng, tui cùng ba chị em của Nguyên chung phòng, con trai ngủ dọc theo hành lang để bảo vệ cho con gái.
Chiều đến, có tàu của lính commando cập vào cảng lấy nhiên liệu. Họ vào trò chuyện với anh Ba và anh Cường. Nhưng đêm tới đang yên giấc, vài lính commando thực hiện những hành động xấu xa. Trải qua bao lo âu mệt mỏi, mấy anh ngủ say không hay lính đã vào phòng chúng tui. Hốt hoảng vì họ pha đèn vào mặt, tui bật ngồi dậy và la to: “Chú Tuấn ơi, cứu tụi con.”
Tất cả con trai chạy sang. Chú Tuấn đã bị họ đánh báng súng vào đầu. Chúng chưa kịp giở trò, thì vội chạy nhanh vì một chiếc xe cảnh sát khác tới thay ca trực. Thì ra hai người cảnh sát trước đã toa rập với họ thực hiện điều xấu xa. Cám ơn Phật Trời đã che chở những đứa con gái này thoát nạn đêm nay. Anh Dũng đã thuật lại cho hai người cảnh sát vừa tới thay ca trực, họ lập biên bản và kể từ sau hôm ấy chúng tui mới được yên thân. Từ đó, đêm tới các anh trong tàu đem chúng tui giấu dưới lườn một chiếc xe hư lánh nạn.
Hai tuần lễ trôi qua, họ đưa chúng tui rời Cảng bằng xe cam nhông nhưng không biết đi đâu và đến nơi nào. Xe được che kín mít, cố vén tấm bạt xem. Ui! Toàn là rừng rậm lại một phen lo âu hoảng hốt. Sau một đoạn đường dài ngoằn nghèo và nhấp nhô, bất chợt xe dừng lại. Xuống xe, nhìn thấy phía bên trong hàng rào dây kẽm gai toàn là người.
Mừng quá! Mừng quá người Việt Nam. Những người đồng hương chào hỏi, tiếp đón ân cần, được đưa vào trại tỵ nạn. Chúng tui, người về từ cõi chết!
Sau khi tạm ổn định, mới vỡ lẽ đây là một trại tập trung tổng cộng hơn ba ngàn người Việt tỵ nạn. Người ta gọi nơi đây là Rừng Dương vì chung quanh toàn là cây Dương. Không có Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc cũng không có Hồng Thập Tự tới, hầu như phải tự túc. Không biết bao giờ được vào trại chánh thức. Gần hơn năm nay chưa ai được ra khỏi nơi này. chỉ biết đợi chờ… Những gia đình ở khá lâu họ trồng trọt, những vườn rau xanh biếc, chăn nuôi gà để sinh sống. Họ cho biết trước đó nhiều ghe được gọi ra đi nhưng không rõ được vào trại hay đã bị đưa ra khơi, hoàn toàn bặt tin.
Nơi Rừng Dương, ai có tiền muốn gì cũng có, người bản xứ họ mang lương thực nước uống bán lấy vàng hay tiền đô Mỹ $, chúng tui nhờ vào gạo, cá khô còn sót lại, cùng chia nhau ăn. Gạo đã vơi đi dần, chúng tui phải nấu cháo. Khi hết hẳn lương thực, mạnh ai nấy lo thân. Tui đã cùng ba chị em Nguyên thành một gia đình, các anh cùng ghe trốn trại vào rừng đốn lá và lợp cho một mái nhà để trú mưa. Thức ăn dần dần hết, người ta lẻn vào rừng tìm rau cỏ ăn, tui là thân con gái không dám đi, lính Mã Lai bắt được trốn trại họ đánh nhừ tử. Tui chờ cho mọi người ăn hết đọt rau cỏ non, bỏ phần già, tui mót lại ăn cho qua ngày. Một hôm giặt đồ tui phát giác ra một sợi dây chuyền còn sót lại, Má tui đã cẩn thận may vào cạp quần, mừng quá, nhờ người đổi ra tiền Mã.
Sau khi có tiền việc đầu tiên tui nhờ mấy người trốn trại mua giùm vật dụng cần thiết nhứt, thế là đã mất đi hơn hai phần ba số tiền. Phần còn lại tui mua đường để đủ sức chịu đựng khi đói, mì gói bốn đứa chia nhau làm canh ăn đỡ dạ. Sợi dây chuyền tui giấu được cho Nguyên cũng dành để chi vào những nhu yếu phẩm cần thiết nhứt cho ba chi em cô. Rất vất vã và thiếu thốn mọi phương tiện, chúng tui cũng gặp những người muốn giúp đỡ, che chở. Nhưng ở đời có ai học được chữ ngờ. Nghĩ vậy nên ba đứa con gái chúng tui không dám nhận. Tui luôn tự nhủ lòng “Trời sanh voi sanh cỏ”. Thôi thì “Hết cơn bỉ cực đến hồi thới lai”. Ráng cố gắng chịu đựng một thời gian xem sao!
Sinh hoạt ở đây, chiều khoảng 15h tới 20h tối, những người kiểm soát trại, mở hàng rào kẽm gai, gọi số ghe xuống biển tắm theo nhóm. Thời gian trôi qua cũng được hơn hai tháng. Một chiều xuống biển tắm, loa phóng thanh gọi số ghe tập họp. Trong đó có ghe của chúng tui ” VNKG 0249”. Vội vã chạy về lều, được biết hôm nay có tất cả bốn chiếc ghe được ra khỏi trại Rừng Dương. Đây là diễm phúc hay điều bất hạnh?
Tất cả mọi người đều hoang mang không hiểu tại sao chúng tui đến sau lại được đi trước? Khi chiếc xe cam nhông tới, người lớn tuổi bàn với nhau, chuyến xe đầu nếu tới được trại chánh thức thì đánh lên thành xe dấu thập, còn nếu bị ra khơi thì đánh dấu trừ, để cho những người sau biết đường mà lo liệu. Nhóm chúng tui đi sau cùng. Khi xe đầu trở về đón tiếp, tất cả hò reo mừng rỡ, vì chữ thập đã được ghi lại thành xe. Bắt tay từ giã những người bạn thân quen, tuy ở ngắn ngủi nhưng chúng tui rất bùi ngùi xúc động vì cùng chung cảnh ngộ. Hy vọng một ngày gần tất cả sẽ được thoát khỏi nơi này. Các chú bác còn ở lại căn dặn khi gặp Cao Ủy Tỵ Nạn nhớ cho họ biết, còn rất nhiều người tỵ nạn bị lãng quên nơi Rừng Dương.
Tới trại vào buổi chiều. Nơi đây có phái đòan Mã Lai, trưởng trại, thông dịch viên tiếp đón, được biết đây là Trại Tỵ Nạn Cherating. Tất cả sẽ được cấp lều cho tạm trú, thực phẩm khô do Hội Hồng Thập Tự tiếp tế, mỗi tháng được thêm một phần thịt, rau tươi. Sẽ có các Phái đoàn từ các quốc gia trên thế giới đến mở hồ sơ, phỏng vấn và cho định cư ở nước thứ ba. Tui như người đi trên mây, chỉ biết khóc… khóc vì sung sướng, khóc vì biết mình đã được TỰ DO.
Trại Cherating là một xã hội mới. Một xã hội thu nhỏ trong cộng đồng người Việt ly hương. Cũng bon chen cũng cạm bẫy, cám dỗ. Tuy nhiên bên cạnh những người xấu, cũng có những người với tấm lòng nhơn hậu vị tha. Chợ nhóm buổi sáng, ban đêm có quán café ca nhạc, có trường học dạy sinh ngữ.
Trường học được lập ra cho muôn người. Ai muốn có chút vốn liếng ngoại ngữ để định cư ở nước thứ ba. Học cũng để quên đi thời gian, quên đi nỗi nhớ gia đình, nhớ quê hương.
Công lao này do các anh sinh viên học sinh xuất thân từ trường Pétrus Ký, Taberd, Phú Thọ. Họ xin Cao Ủy Tỵ Nạn các dụng cụ học đường như sách, tập viết, phấn và bảng đen. Các anh dựng lớp, đóng bàn học và thay phiên nhau dạy các lớp buổi sáng, các lớp buổi tối, miễn phí. Việc làm thiện nguyện của các anh thiệt cao quý.
Lều chúng tui được dựng trên một nơi trước kia là bãi rác, nằm cạnh bìa rừng, chung quanh trại rào dây kẽm gai. Có những đêm đang ngủ, tiếng la thất thanh “Có rắn!” bọn tui nằm bất động, rắn bò ngang mình từng đứa, toát mồ hôi hột, thế là thức trắng đêm vì sợ. Có lần bị rết kẹp nhức nhối, may có các cụ người Hoa tốt bụng dùng tỏi vắt đắp cho tui qua cơn đau. Đêm nào mưa thì như đêm ấy ngủ ngồi, nước ngập từ bãi rác xông lên nồng nặc mùi hôi thúi. Dần dần có thêm điều kiện các anh trong ghe đóng sạp cao để tránh rắn rết.
Trải qua những ngày dài buồn khổ vì nhớ nhà, nhớ cha mẹ còn kẹt lại ỏ Việt Nam. Không sao nhắn được tin tức cho gia đình là tui đã bình yên. Khi có người ra đi định cư nước thứ ba, tui cũng như bao người vội vã viết vài lời nhắn gửi cho thân nhân. Nhưng rồi cũng vô vọng. Nguyên, Hồng, Liêm ba chị em được phái đoàn Canada nhanh chóng chấp nhận, vì Ba Nguyên làm hãng viết chì Pacific ở Biên Hòa. Ba chị em từ giã tui đi Canada rất nhanh. Còn lại một mình tui đã cố gắng sống, sống trong buồn bã đơn độc. Cuộc sống khó khăn, sống thiệt bơ vơ, tui phải chống chỏi với đời bằng đôi tay nhỏ bé và yếu đuối của mình. Tuy khổ nhưng lúc nào tui cũng cố giữ lòng trong sáng, tui tự nhắc nhở với chính mình. Khổ đã quá nhiều, tại sao chỉ còn gang tấc mà không vượt qua được hay sao?
Sau khi ba chị em Nguyên ra đi, tui xin các anh đóng cái sạp riêng cho tui vì hai cô bạn đi rồi không còn ai nằm hai bên che chở cho tui. Thế là tui có một giang san riêng, bề ngang nửa mét, bề dài một mét rưỡi. Mỗi buổi sáng tui thức thiệt sớm xuống gần bờ biển tập thể dục. Các bác người Hoa dạy tập Tài Chi, trưa thì cùng các tổ đi làm vệ sinh phòng tắm nữ, thời gian bạn bè bên nhau trong trại Cherating, hàng ngày được nghe, và nhắc nhở đến những kỷ niệm nơi quê nhà dấu yêu. Tất cả những kỷ niệm ấy lúc nào cũng đẹp. Những câu chuyện hay những kỷ niệm đẹp đều bắt đầu bằng hai chữ “Ngày xưa” đã được nhắc đến một cách thiết tha và u hòai không ai có thể quên. Vì những nhớ nhung ấy những người đến trước đặt tên trong trại ty nạn Cherating, những khu vực là Sài Gòn, Chợ Lớn, và tên những con đường Tự Do, Nguyễn Huệ, Lê Lợi …
Chương trình dạy anh văn được rút ngắn. Mỗi tối tan học về, cùng các bạn nghe ké Radio, tin tức đài BBC hay đài VOA. Tui thường ngồi khóc một mình, khi nghe được tiếng hát Khánh ly, Lệ Thu, Elvis Phương… những bài hát nghe nhớ nhà “đứt ruột”. Đó là hai chữ mà ngày xưa tui thường nghe Ba Má tui nói. Tui không hiểu thế nào, nhưng giờ đây tui đã hiểu thấu thế nào là “đứt ruột”.
Một sáng tinh sương, khí trời dịu mát, sau khi đi tập thể dục xong, tui lang thang đến văn phòng thông tin, cũng như bao người có mặt nơi đây dò xem danh sách những người có thân nhân đi tìm. Tui không tin vào mắt mình tên tui rõ ràng từng nét ngày sanh, số tàu “CÓ THƠ BẢO ĐẢM”. Tui như người điên la thiệt to và nhảy tung tăng mừng rỡ khi bình tĩnh lại, chung quanh muôn người đều cười về sự vui mừng trông thiệt ngây ngô của tui. Họ đã đồng cảm chia xẻ với niềm vui mà tui đang có.
Đó là lần đầu tiên, nhận thư từ Úc của hai chi tui gửi sang kèm cái cheque một trăm đô. Tạm thời chưa xài được vì không có nơi đề đổi tiền. Nhưng điều quan trọng vào lúc này, lá thư của hai chị. Nó có ý nghĩa như lá bùa hộ mạng, để chứng minh khi tui gặp phái đoàn Úc sau này.
Thời gian chờ đợi chậm chạp trôi qua. Tui được phái đoàn Mỹ và phái đoàn Pháp phỏng vấn nhưng tui không khai có anh ở Mỹ và có cô ở Pháp. Tôi muốn đi Úc vì đa số anh chị đều ở Úc. Theo qui định của Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc dạo ấy. Ai muốn chờ quốc gia mình muốn tới “bốc đi” (định cư) thì ít nhứt phải có hai quốc gia khác đóng “dấu bác”( khước từ) vào hồ sơ, tui đã có đủ điều kiện vì phái đòan Mỹ và phái đoàn Pháp đóng dấu khước từ.
Hai tuần sau phái đoàn Úc đến trại phỏng vấn. Tui không có tên trong danh sách phỏng vấn vì thứ tự hồ sơ chưa tới. Phái đòan sẽ làm việc bốn ngày, và ba tháng sau họ mới trở lại trại lần nữa. Những người có kinh nghiệm cho biết, nếu phỏng vấn nhanh, đôi khi họ bổ túc thêm danh sách. Với ý chí cương quyết và tinh thần nhẫn nại tui không đầu hàng số phận. Tự nghĩ mình phải làm sao và như thế nào để được vào phỏng vấn? Thế là mỗi buổi sáng, tui đều đứng chờ ngoài văn phòng phỏng vấn. Trưa đến giờ nghỉ, tui vội chạy về lều ăn qua loa, rồi đến văn phòng tiếp tục chờ. Trên tay tôi luôn có “lá bùa hộ mệnh”. Hồi hộp và chờ đợi…Nhưng nghĩ lại. Tui chờ ai đây, và chờ điều gì? Trong khi tên tui chưa được niêm yết. Tui chỉ biết cầu Phật Trời và Ông Bà, ban một phép nhiệm màu cho tui.
Ba ngày trôi qua, hết giờ làm việc tui buồn thiu, lặng lẽ ra về …mấy đứa cùng chuyến ghe cứ chọc “Đừng lo nữa chị ơi, chờ đi theo diện “hốt rác” với tụi em cho vui…”
Đến ngày thứ tư, tui cảm thấy tuyệt vọng, danh sách ngồi chờ phỏng vấn vẫn còn. Tuy nhiên lòng tui vẫn cương quyết không bỏ cuộc. Tui khấn nguyện ơn trên giúp tui có niềm tin và hy vọng…cho đến giây phút cuối cùng cuộc phỏng vấn kỳ này.
Bỗng một trận mưa thiệt lớn trút xuống, mọi người chạy tán loạn. Riêng tui vẫn đứng im chờ đợi, bị ướt cả người, vốn mảnh mai yếu đuối. Tui đã tự hỏi “không biết điều gì đã thúc đẩy tui có một sức chịu đựng thế này?” Có lẽ đó là niềm tin mãnh liệt trong tui, được đức tin này là nhờ Ba Má tui từng kể lại những tháng năm dài chạy loạn, từ thời Pháp thuộc cho đến trận Mậu Thân, và biến cố năm 1975. Ba Má tui đã chịu đựng không biết bao gian khổ, khó khăn để cho mười đứa con được thành người, và tương lai tốt đẹp. Công ơn dưỡng dục sanh thành của Ba Má vẫn luôn là một nét son đẹp nhứt trong đời. Đây là tấm gương sáng mà Người đã dành cho con cháu đời sau noi theo, hình ảnh này mãi mãi không phai nhòa. Bên cạnh đó trong tui còn có một tinh thần của một Hướng Đạo sinh Việt Nam. Chúng tui luôn tươi cười và hát khi gặp khó khăn hoặc hiểm nguy “Hướng Đạo Việt Nam khó khăn coi thường, Hướng Đạo Việt Nam đuốc thiêng soi đường, luôn luôn ta bền gan rèn tâm hồn trong sáng ….” Thưa, tui sẽ và rất kiên cường vượt qua mọi thử thách đã và đang chờ. Xin biết ơn những huynh trưởng trong Hướng Đạo đã rèn luyện cho tui một tinh thần phấn đấu và niềm hy vọng để sinh tồn.
Người được phỏng vấn đứng lên từ chiếc ghế trước mặt người tùy viên di trú Úc, anh trật tự gọi tiếp danh sách nhưng vắng mặt. Bây giờ chỉ còn phái đoàn Úc và bác thông dịch viên. Như một điều kỳ diệu, tui không tin vào mắt mình tui vuốt nước mưa trên mặt, người tùy viên Úc vẫy tay gọi tui vào, tui đứng như pho tượng, không nhấc nổi đôi chưn. Bác thông dịch gọi tui.
– Cháu vào đây…
Bừng tỉnh, mừng khôn xiết! Tui chạy nhanh vào văn phòng. Họ mời ngồi và tự giới thiệu tên. Tui biết được người thông dịch viên tên Đào (tui không rõ là họ hay tên)
Thế là cuộc phỏng vấn bắt đầu.
Bác Đào bảo:
– Cháu có biết Anh ngữ không?
– Thưa, bác cháu biết ít thôi, cháu sợ quá!
– Cháu biết gì cứ trả lời, vì sẽ được nhiều ưu điểm, lúc nào không biết Bác sẽ giúp cháu. Bác rất ân cần và nhiệt tình, lời nói rất nhỏ nhẹ nên làm tui hết lo sợ.
Bác Đào thông dịch:
– Tại sao cháu đứng trong mưa, tại sao ngày nào ông ta cũng thấy cháu đứng trước cửa văn phòng, chờ đợi điều gì và chờ ai? cháu muốn đi đâu?
Tui như người từ trên trời rơi xuống, chưa được hoàn hồn. Bác Đào tiếp:
– Cháu trả lời đi.
Bác Đào đánh thức cơn mộng của tui.
– Dạ, cháu chờ đợi vì cháu không có tên trong danh sách phỏng vấn đợt này, cháu muốn đi Úc. Cháu có hai người chị ở đó đang làm bảo lãnh cho cháu.
– Hai chị làm nghề gì, ở Tiểu Bang nào, có giấy làm bảo lãnh chưa? Có bằng chứng gì không?
Tui vội đưa lá thư hai chị tui viết bằng anh ngữ, hai chị biết sẽ dễ dàng khi tôi gặp phái đòan Úc sang phỏng vấn. Sau khi đọc xong lá thư. Họ bắt đầu phỏng vấn rất chi tiết lý lịch cá nhân và cả gia đình. Thình lình một chiếc máy bay đang bay trên bầu trời, người tùy viên Úc chỉ lên trời hỏi tôi.
– Đó là gì?
Đồng thời ông hỏi những vật dựng trên bàn. Tui phải tự trả lời bằng Anh ngữ. Sau vài giây hồi hộp, ông nói với Bác Đào, bác nhìn tôi mỉm cười:
– Phái đoàn Úc đã nhận cháu rồi.
Tui lặng người và nước mắt rơi vì vui mừng quá đỗi, một giấc mơ tui chưa bao giờ nghĩ tới. Tui thiệt không ngờ đời mình được diễm phúc như hôm nay. Tui vừa khóc vừa cười vì sung sướng. Tui đứng lên cám ơn Bác Đào và phái đoàn.
Ra về, suốt con đường về lều vừa đi vừa cười như một người điên. Và cảm thấy chưa có ngày nào đẹp như hôm nay, kể từ lúc tui dấn thân vào cuộc đời ly hương.
Chiều nay, tui âm thầm khui mấy hộp đậu đây là thức ăn được tiếp tế, ngày nào cũng ăn nên chỉ cần ngửi mùi làm ai cũng phải sợ. Rửa sạch và nấu một nồi chè đãi các bạn, báo tin vui. Do tâm lý ai náy đều công nhận nồi chè đậu hôm nay vừa ngon lại vừa thơm. Không ai tin phái đoàn Úc nhận tui đi định cư là sự thực.
Hai tuần sau nhân viên văn phòng Ban đại diện gọi danh sách những người được nhận làm thủ tục khám sức khỏe, trả lều lại cho Ban nhà đất. Đúng một tháng tui được chuyển trại để chờ chuyến bay. Trại chuyển tiếp chúng tui đến là trại Sungei Besi. Nơi đây vừa mới xây loại nhà tiền chế, phòng bốn người ở, thức ăn được nấu sẵn, tới giờ mang dụng cụ lãnh thức ăn, giữa trại có một Tivi chiếu phim cho xem. Chúng tui được xe bus đưa ra Kuala Lumpur để khám sức khỏe và được hướng dẫn đi Nhà băng đổi chèque.
Ai cũng bảo sung sướng quá! Nhưng càng sung sướng thì lòng tui càng nhớ nhà, càng đau lòng nhiều hơn…Giờ đây tui hiểu thiệt đầy đủ ý nghĩa lời của Ba Má tôi nói: “Ở đời các con hãy nhớ, được như hôm nay đó là do phước đức ông bà để lại. Vậy theo đó mà noi gương.” Dạ, tui là người hưởng rất nhiều phước đức của Ông Bà Cha Mẹ. Đời đời không bao giờ quên lời dạy quý báu của Ba Má tui.
Tháng 12 tui có chuyến bay đi Úc. Tại phi trường Malaysia còn sớm, tui được đi xem các cửa hàng. Tui không quên người ơn nhơn Singapore ngày nào đã cứu mạng, tui mua một post card gửi đến ông, viết lời cám ơn và từ giã, tôi rời Mã Lai đi đinh cư ở Úc.
Ngày O6 – 12 – 1979, chuyến bay Boeing rời Mã Lai đến Melbourne vào lúc O6h sáng. Chuyến xe bus đưa tui về Wiltona Migrant Hostel người ta bảo đây là mùa ấm thế mà tui lạnh run. Trời còn hơi sương và một buổi sáng thiệt yên tịnh, một thành phố trong lành, người Úc niềm nở hiếu khách thiệt dễ thương. Có thông dịch viên tiếp đón và ân cần cho biết sơ về nơi đây. Còn quá sớm nên tui được đưa về phòng ngủ, trưa sẽ trở lại văn phòng họp để nghe điều lệ và thủ tục định cư.
Hostel này ngày xưa là một trại lính gần bờ biển Williamstown. Sáu đứa con gái độc thân ở một căn, gồm ba phòng ngủ, một phòng khách, tiện nghi không thiếu, ngày ba buổi ăn trong canteen, có nhân viên quét dọn phòng, trải thay drap giường. Điều quan trọng là họ đã tổ chức lớp học anh văn, không những thế mà họ còn dạy cho chúng tui biết thế nào là lịch sự văn minh của người tây phương, hướng dẫn từ cách ăn cách nói để hòa nhập vào phong tục và tập quán của người Úc.
Chúng tui không có khóa học tại Hostel nên sáng xe bus đưa chúng tui đến trung tâm sinh ngữ ở Collingwood học. Ăn sáng xong, mỗi đứa nhận một bọc thức ăn cho phần ăn trưa, đã đặt chiều qua. Đây là thời gian hiếm nhứt để chúng tui nhanh chóng hoàn tất khóa học tòan thời gian. Gia đình được ở trong Hostel một năm, riêng độc thân thì sáu tháng. Sau khi trừ tiền ăn ở trong Hostel, chúng tui được lãnh một cái chèque 23 đô la mỗi hai tuần. Thực sự tui chưa bao giờ ngờ rằng cuộc đời mình quá may mắn như thế, người dân Úc thiệt hào sảng, họ mang mình tới đây, lo từ vật chất đến tinh thần.
Càng nghĩ tui càng cố gắng vươn lên cố gắng làm một người công dân gương mẫu hầu đáp lại tấm chơn tình họ đã cưu mang tui và cả gia đình tui.
Năm 1981 vì lời nguyện cầu cho chuyến vượt biển bình an và cho cả ghe thoát hiểm tui đã xin được rửa tội vào đạo trong mùa Phục Sinh. Sau một năm học anh văn tui ghi danh vào đại học RMIT (Royal Melbourne Institute of Technology and Melbourne Technical College) vì muốn có một nghề vững chắc hơn. Một mặt bảo lãnh Ba Má tui. Nhưng vào lúc ấy Bộ Di Trú cần điều kiện phải có việc làm, vội vã đi tìm việc làm ngay, tui đã gác việc học lại.
Ba Má được ra đi đó là điều tui hằng ao ước, được báo đáp tình thương mà Ba Má tui đã hy sinh cho anh chị em chúng tui. Tui làm ca đêm cho một hãng Kotex Mills ở vùng Brunswick dệt vớ phụ nữ, không ngại gian khó chỉ mong sao Ba Má được an hưởng tuổi già. Sau đó tui xin làm một hãng khác ca ngày, cố làm hết sức mình cùng các anh chị lo cho gia đình, ngoài ra phải trả lại số nợ Ba Má đã vay cho tui ra đi lần cuối cùng.
Năm 1982 tui lập gia đình, 1983 chúng tui được một trai và 1989 có thêm một gái.
Mùa Phục sinh năm 1984, Ba Má tui đã được đến Úc theo diện đoàn tụ gia đình. Đó là niềm hạnh phúc nhứt đời của anh chị em chúng tui. Ước mơ của tui đã thành sự thực. Xin tạ ơn Đất Trời đã ban Hồng Ân đến cho đời tui. Cùng năm này may mắn được trúng tuyển trong kỳ thi do Bưu Điện Úc tổ chức, công việc đã cho gia đình tui một cuộc sống ổn định trên bước đường lưu vong. Món quà quý nhứt trong xã hội mới mẻ này.
Ba Má tui thường bảo: “Đất nước này, người dân này tốt quá đa, họ đã đem lòng nhơn đạo để cưu mang chúng ta, Ba Má già rồi không làm được gì nữa. Bổn phận các con hãy ráng làm để trả ơn giùm Ba Má, và dạy dỗ con cái của mình trở thành người hữu dụng mai sau cho nước Úc và đẹp mặt cho người Việt Nam của mình nữa nhe con.”
Lời nhắc nhở này chúng tui luôn ghi nhớ và cố gắng sống sao cho đáng làm người, tui không làm được gì hơn là hết lòng dạy dỗ các con phải lấy Nhân, Lễ Nghĩa, Trí, Tín làm nền tảng giáo dục VIỆT NAM CỘNG HÒA cho cuộc sống. Và tui luôn hy vọng mai sau chúng là người có đức, có tài cùng góp một bàn tay giúp xây dựng đất nước này, và mãi mãi không quên mình là người Việt Nam kiên cường bất khuất!
Kim Oanh
Mùa Phục Sinh 2004
Chú Thích : (*) Năm 2009 anh chị Tư chủ ghe tới Melbourne thăm anh chị Mài (tài công) đã hẹn gặp Hà và tôi. Nhờ mối liên lạc này năm 2010, tui đi Canada gặp lại Nguyên, Hồng, Liêm. Nhờ anh Biện Công Danh tìm anh Cường ở New Zealand, cơ duyên cũng ngộ. Nhà anh Cường lại ở gần nhà anh Danh. Nhưng tiếc thay anh Cường qua đời trong cơn đột qụy.
Tạ ơn Đất Trời, rất vui mừng khi tất cả còn lại đều bình an và con cái thành công nơi xứ người. Và rời xa được đất nước thiên đường vọng tưởng việt cộng kinh hoàng một thuở, mà sau 1975. Tui vẫn ám ảnh chẳng thể nào quên. H/a