TT Ngô Đình Diệm
26 October 1955 – 2 November 1963
TƯỞNG NIỆM MỘT CÁI CHẾT
Bài viết của Linh Mục Sử gia NGUYỄN PHƯƠNG
(1921-1993)
Nói đến việc tưởng niệm một cái chết vào mùa này, đối với những người Việt
tỵ nạn vì bị mất miền Nam Việt Nam vào tay Cộng sản, thiết nghĩ không mấy ai phải
đặt câu hỏi rằng cái chết đây là cái chết của ai. Họ càng không hoài nghi nữa sau khi
xuất hiện tập sách bất hạnh của Đỗ Mậu, nhất là sau những bài phê bình chang chang
như búa bổ của ông Đinh Từ Thức trong báo Văn Nghệ Tiền Phong suốt mấy tháng
vừa qua. Chính dư luận sôi nổi về tập Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi đã thúc
dục bần bút nhìn kỹ hơn vào cái chết thê thảm, nhưng chứa đầy ý nghĩa của cựu
Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Đại uý Đỗ Thọ, khi ghi lại những gì xảy ra liên quan đến cái chết rất đáng ghi
nhớ này, đã đoán rằng “định mệnh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm có lẽ đã bắt đầu
từ 4 giờ chiều, khi Đại sứ Hoa Kỳ Henri Cabot Lodge yêu cầu Tổng Thống Diệm
đầu hàng và hứa bảo toàn tính mạng, đồng thời đã sẵn máy bay cho Tổng Thống và
ông Ngô Đình Nhu ra ngoại quốc” (trang 186). Đại uý đoán đúng, vì Đại uý chỉ nhìn
vào giai đoạn trực tiếp đem đến cái chết của vị nguyên thủ của Cộng Hoà Việt Nam,
nhưng đúng hơn có lẽ phải nói rằng định mệnh của Cụ Diệm đã bắt đầu từ ngày 26.6.
1954 khi cựu Hoàng Bảo Đại, Quốc Trưởng Việt Nam lúc đó, từ Pháp, ký vào sắc
lệnh đặt nhà chí sĩ họ Ngô làm Thủ Tướng Việt Nam. Đó mới thực sự là khúc quanh
của cuộc đời Cụ, nó dẫn thẳng đến cái chết của sáng mồng 2.11.1963.
Thật vậy, kể từ ngày đó, số phận của Cụ và vận mệnh của Quốc gia Việt Nam
đã được Cụ thắt chặt vào nhau một cách vĩnh viễn. Cụ sẽ làm tất cả vì đất nước, bất
cứ gì, và bất chấp hậu quả ra sao. Vì đất nước, Cụ chống Pháp. Vì đất nước, Cụ cự
tuyệt với Cộng sản. Vì đất nước, Cụ tuyên bố không thi hành Hiệp Định Giơ-neo.
Vì đất nước, Cụ đè bẹp các lực lượng tạo loạn theo lệnh của Pháp và cựu Hoàng. Vì
đất nước, Cụ truất phế chính cựu Hoàng Bảo Đại. Và cũng vì đất nước, Cụ hiên
ngang đi ngược lại với ý định của Hoa Kỳ để bị giết trong chiếc M113 của viện trợ
Mỹ.
Về việc Cụ truất phế cựu Hoàng Bảo Đại vào tháng 10.1955, một số người đã
viện dẫn Nho giáo để trách Cụ. Trong lúc đó, một số người khác cho rằng trách Cụ
như thế là không đúng và muốn tránh cho Cụ trách nhiệm vi phạm chữ Trung, lại
trình bày giai đoạn lịch sử trọng đại này bằng cách làm nổi mạnh lên các chi tiết phụ
thuộc như sáng kiến truất phế của Hội Đồng Cách Mạng Quốc Gia, hay nhân dân đã
hồn nhiên đứng lên chống lại một vị Quốc Trưởng vô trách nhiệm. Nếu cứ nhìn bề
ngoài thì vốn có thật việc Hội Đồng Cách Mạng trình bày ý kiến và lên tiếng ồ ạt ở
Toà Đô Sảnh, và vốn có thật việc trưng cầu dân ý mà kết quả là hạ bệ cựu Hoàng.
Nhưng thực tình mà nói, và lịch sử làm chứng chỗ thực tình này, là việc truất phế đã
bắt nguồn từ một nguồn cao hơn, từ chính Cụ Diệm. Cái vấn đề là tìm hiểu tại sao
Cụ phải hành động như thế.
Động cơ thúc đẩy Cụ phải ra tay mạnh mẽ, một đàng là vì tình trạng cấp bách
của đất nước đòi buộc. Chắc nhiều người còn nhớ các hoạt động tạo loạn của các
giáo phái, còn nhớ các mưu mô phá hoại ngạo nghễ và thâm độc của thực dân Pháp,
và nhất là còn nhớ chính cựu Hoàng, đang làm tay sai cho Pháp vì cái túi tiền rỗng
tuếch của mình trước sự đòi hỏi của xa hoa, lúc đó đã hai lần ra lệnh đòi Cụ Diệm
sang Pháp và đã liệu để Tướng Nguyễn Văn Vỹ lên thay. Cùng một lúc, Cộng sản
miền Bắc cũng vận động đủ cách để thi hành Hiệp Định Giơ-neo, nghĩa là để thôn
tính nốt phần đất tự do còn lại. Hiệp Định chia đôi Việt Nam, chỉ là chính sách giai
đoạn: không nuốt được cả nước một lúc thì chia đôi để nuốt dần. Và lần nuốt thứ hai
đã được ấn định vào hè 1956 dưới hình thức rất dễ nghe và rất dân chủ là mở tổng
tuyển cử để tái thống nhất đất nước. Biết rằng miền Nam không chuẩn bị kịp vì tình
trạng nội bộ như vừa nói, và rằng Cộng sản sẽ lũng đoạn cuộc bầu cử tự do cả ở Bắc
lẫn ở Nam, nên kể từ đầu 1955, Cụ Diệm đã khẳng khái chống lại Hiệp Định, lấy lẽ
rằng chính phủ Cụ không ký vào. Có giữ vững được lập trường này, miền Nam Việt
Nam mới còn, lung lay trong lập trường này, là miền Nam mất. Nhưng có điều này
then chốt là chính phủ Cụ Diệm không ký vào Hiệp Định, nhưng chính phủ Pháp đã
ký. Mà Bảo Đại là tay sai của Pháp, cũng như Bảy Viễn, cũng như Tướng Nguyễn
Văn Hinh, cũng như các giáo phái, và nhất là cũng như Tướng Vỹ, kẻ đang được
cựu Hoàng đặt lên thay thế Cụ. Nói rằng Thủ Tướng phải theo lệnh Quốc Trưởng
thì rất dễ nghe, nhưng nói một nhà ái quốc chân chính phải phản bội Quốc gia, thì
không sao Cụ Diệm nghe được. Mà lúc đó, vâng lệnh cựu Hoàng Bảo Đại chính là
phản bội Quốc gia.
Đàng khác, nếu Cụ Diệm đã học được chữ Trung đối với ông vua trong nước,
Cụ cũng đã học được hai chữ bổn phận đối với Thượng Đế trong đạo lý Nhân Vị của
Cụ. Trong phạm vi trị dân của Nho giáo, Trung Quân có thể là chỗ tối cao, nhưng
đạo lý Nhân Vị, một đạo lý đặt Thượng Đế ở địa vị tối thượng, đối với tất cả mọi
việc, kể cả việc trị dân. Những kẻ có bổn phận phải phục vụ đất nước, phải phục vụ
theo ý của Thượng Đế, chứ không phải theo ý riêng. Bất cứ ai phản bội dân đều là
kẻ đắc tội, mà đối với Cụ Diệm, cựu Hoàng Bảo Đại, vào năm 1955, đã nằm vào
trong hạng Trụ-Kiệt, khi vị cựu Hoàng dùng quyền bính Quốc Trưởng bán chức tước
để lấy tiền ăn chơi ở Pháp mà không màng gì đến số phận của dân. Không phải chỉ
ở Pháp, mà vị cựu Hoàng lại còn theo Pháp để gây hỗn độn tại miền Nam tự do,
khiến miền Nam trở thành miếng mồi ngon cho Cộng sản. Ngần ấy sự việc tạo cho
Cụ Diệm đầy đủ lý do để chấm dứt quyền hành của vị cựu Hoàng.
Đối với Cụ, bổn phận làm tôi đất nước không phải chỉ là loại trừ hỗn độn, mà
cốt là làm sao cho quốc gia trở nên vững mạnh. Cho nên, vì đất nước,Cụ sẽ sống và
sẽ chết. Vì đất nước này, Cụ đã tỏ ra không thể bị ai mua chuộc. Cụ đã khôn ngoan
và bình thản trong những giờ khủng hoảng. Cụ đã cương quyết giữ chặt nguyên tắc
của đạo lý Nhân Vị. Cụ có thể không phải là một người mười phân vẹn mười, nhưng
Cụ quyết hết mình phục vụ quốc gia, vì quốc gia đã trở thành như người bạn trăm
năm của Cụ. Trong việc làm tôi đất nước, vì thế, chẳng những Cụ dùng hết tài của
Cụ, hết trí của Cụ, mà Cụ còn dùng đức, nhất là đức, vì đức là phần “thung dung tựu
nghĩa” dưới sự chứng giám của Thượng Đế.
Vào hè 1954, quốc gia được giao lại cho Cụ không phải với hình dung một cô
gái mỹ miều, mang đầy phục sức. Bấy giờ Việt Nam đang như một phụ nữ lâm cảnh
cơ bần, bệnh hoạn. Các chính khách xôi thịt ai cũng chê. Chính vì bị thiên hạ chê mà
Việt Nam đã gặp Cụ và Cụ đã đón lấy với hai tay rộng mở. Sự quyết tâm này đã kéo
về phía Cụ bàn tay nâng đỡ của Hoa Kỳ, một cường quốc đang đứng đầu thế giới về
mọi mặt. Và Cụ đã thành công một cách rất lớn nhờ viện trợ Mỹ. Nhờ viện trợ Mỹ,
Cụ đã định cư ổn thoả được gần một triệu dân từ Bắc di cư vào. Nhờ viện trợ Mỹ,
Cụ đã thực hiện được một cách tốt đẹp chính sách dinh điền, làm cho cao nguyên trở
thành vùng đất trù phú. Cũng nhờ viện trợ Mỹ, đất sình lầy Cái Sắn đã thành vựa lúa
lớn, chẳng những sản xuất đủ lúa gạo cho người trong nước ăn, mà còn có thừa để
bán ra ngoại quốc.
Vào năm 1960, miền Nam đã thay đổi rất nhiều. Từ chỗ túng thiếu, loạn hàng
thất thu, quốc gia này đã trở nên một nước tự túc về mặt thực phẩm và ngăn nắp bề
thế về mặt chính trị Dân Chủ. Nhưng, đang khi Cộng Hoà Việt Nam thay đổi theo
chiều tiến, thì Mỹ cũng thay đổi, nhưng lại theo chiều lẩn quẩn, trở tráo. Trên bàn
tay nâng đỡ bỗng nổi lên những đường gân đe doạ. Mối bang giao đang nồng nhiệt
bỗng hoá ra lạnh lùng và con đường đi lại xuất hiện nhiều chướng ngại vật. Nhiều
va chạm xảy ra giữa khách, tức là bàn tay nâng đỡ bấy lâu nay, và chủ, tức là Cụ
Diệm, con người vô cùng hãnh diện với giang sơn của cha ông để lại. Và, đến một
lúc, tiếng va chạm kết tinh thành những lời đối thoại chan chát.
Chiều đó, cái buổi chiều mà Đại uý Thọ nói là giờ định mệnh của Cụ bắt đầu
đó, trong cuộc đối thoại, khách đã dường như đường đột bảo chủ: Ta cần quốc gia
này vì mục đích riêng của Ta, nếu ngươi muốn sống, Ta cho sống, nhưng hãy giao
phó giang sơn cho Ta, rồi Ta cho phương tiện mà tẩu thoát. Nghe vậy, Cụ Diệm thấy
bàn tay nâng đỡ đã trắng trợn trở thành bàn tay thoán đoạt. Khi tiếng súng của Hội
Đồng Tướng Lãnh nổ, đến ba lần Cụ Diệm hỏi Đại Sứ Lodge về ý định của Hoa
Thịnh Đốn đối với cuộc đảo chính đang khai diễn. Vị Đại Sứ trả lời loanh quanh.
Đến lần thứ ba, khi đã chặn được các lực lượng trung thành với Cụ Diệm khỏi kéo
vào Sài Gòn, vị Đại Sứ mới không còn dấu diếm, đòi Cụ phải đầu hàng và chuẩn bị
tàu bay cho Cụ ra đi. Với giọng đầy nghĩa nộ, Cụ đáp không cần Mỹ giúp đỡ và thốt
nhiên nói ra lời định mệnh: “Tôi sẽ làm như Bổn Phận bảo tôi”.
Đến 5 giờ chiều ngày 1.11.63, sự việc đã rành rành đâu ra đấy. Vì bổn phận,
nước nghèo ư? Cụ đã làm cho sung túc; nước yếu ư? Cụ đã làm cho mạnh; nước bị
đe doạ ư? Cụ đã liệu thế đề phòng. Nhưng nay, nước bị phản bội bởi chính bàn tay
nâng đỡ, hỏi bổn phận của Cụ là gì đây? Cụ không thể dùng tài hay dùng trí, vì tài
và trí đều vô hiệu trước sức mạnh bạo tàn. Cụ cũng không thể dùng mưu, vì đối với
một cường quốc như Mỹ, Cộng Hoà Việt Nam chỉ là như trứng chọi với đá. Dầu
vậy, Cụ Diệm đã không bị bí chút nào, vì Cụ có một nguồn nghị lực nói được là vô
biên: Cụ sẽ dùng Đức. Bạo lực, cho dầu hung tàn và gian ngược đến đâu, cũng không
sao khuất phục được Đức. Đức là gì đối với Cụ lúc bấy giờ? Là làm theo bổn phận
của một Tổng Thống. Và trong trường hợp đặc biệt của Cụ lúc đó, là chết vì nước.
Với cái nhìn quang minh chính đại này, Cụ giữ được bình tĩnh, sáng suốt, gác ra
ngoài ích lợi cá nhân và hoàn toàn nghĩ về công ích.
Cũng lối 5 giờ chiều đó, đi từ Dinh ra xe để đến nhà Mã Tuyên, cùng với Cụ
đi trước, có Cố Vấn Nhu và ông Cao Xuân Vỹ. Theo ông Vỹ, Cụ vẫn không tỏ dấu
lo lắng gì. Dọc hành lang, Cụ bỗng xé bầu im lặng, tự nhiên thốt ra: “Phận tui sao
cũng được, nhưng đất nước sẽ ra thế nào đây?” Nói thì nói thế, nhưng dường như
Cụ đã có một chương trình sẵn cho chính mình và cho đất nước. Chương trình đó là
làm theo ý Thượng Đế như đạo lý Nhân Vị dạy.
Cho phận riêng ư? Khi bỏ Dinh ra đi, Cụ đã giao một chiếc cặp da cho tuỳ
viên. Cái cặp này lúc đó thấy dày cộm, và ai có cơ hội nhìn vào cũng tưởng là đang
đựng đủ thứ quý vật và vàng bạc. Cái chứa của nó, thiên hạ không biết, nhưng đến
thì giờ, Đại uý Thọ sẽ biết. Nó đựng một bộ quần áo, có lẽ là bộ y phục đàng hoàng
nhất của Cụ. Để dùng làm gì mà quan trọng đến thế? Để dùng vào cái nghi lễ trọng
vọng nhất đối với Cụ: để ngày mai dự Lễ và Chịu Lễ ở nhà thờ Cha Tam. Theo Đại
uý Thọ, ở nhà Mã Tuyên, tâm hồn Cụ dường như tất cả để vào cuộc Lễ đó. Phần
riêng là phần Cụ tự mình làm lấy được nên không có gì băn khoăn. Cũng ở nhà Mã
Tuyên, nhìn Cụ uống trà, Đại uý Thọ ghi nhận: “Dáng điệu bệ vệ thường nhật, không
thay đổi tí nào” (trang 206).
Nhưng cho đất nước, Cụ chỉ làm được điều Cụ có thể làm. Và đây là một chi
tiết nhỏ. Đỗ Thọ viết về đêm lưu vong, khi trời đã đi về sáng: “Tổng Thống quay lại
hỏi ông Ngô Đình Nhu đi qua đi lại ở cuối phòng: “Chú đã bảo Thiếu tá Lạc một
mất một còn phải bảo vệ không?” Ông Nhu không đáp lại vì ông đang suy nghĩ việc
gì đó. Tổng Thống Diệm nhắc lại thêm một lần thứ hai với giọng nói lớn hơn. Ông
Nhu mới trả lời: “Rồi, nhưng không thấm vào đâu, mình yếu, họ mạnh.”” Thấy Cụ
Diệm hỏi đi rồi hỏi lại, người đọc, trong đó có cả bần bút này, tưởng Cụ rất lấy làm
bằng lòng khi nghe rằng ông Nhu đã dặn dò kỹ lưỡng. Ai lại không thích nghe kẻ
khác đang tận tâm vì mình, hy sinh cho mình. Không ngờ, phản ứng của Cụ không
phải là đắc chí, mà là ưu tư. Cụ đỡ lời ông Nhu: “Vậy, đổ nát, chết chóc, không lợi
chi cả” (trang 207-8).
Bấy giờ vẫn còn liên lạc bằng vô tuyến giữa nơi Tổng Thống tạm nghỉ và
Dinh. Và thế là, ngay sau câu chuyện, lực lượng Phòng Vệ Dinh đầu hàng.
Sáng ngày 2, khi Lễ xong, Cụ Diệm cám ơn Linh Mục quản nhiệm nhà thờ
Cha Tam. Linh Mục ngỏ ý mời Cụ ở lại. Cụ nói sẽ đi nữa. Lúc đó, Cố Vấn Nhu thốt
ra một lời tiên tri. Ông nói: “Thưa Cha, Tổng Thống nói vậy, nhưng chúng con không
đi đâu nữa. Dầu sao cũng liên lạc với các tướng lãnh để bàn việc ra đi của Tổng
Thống cho đúng lễ nghi quốc gia” (trang 212). Liền đó, Cụ bảo Đại uý Thọ báo cho
Tổng Tham Mưu biết nơi Cụ đang ở.
Lời tiên tri của ông Như đã ứng nghiệm. Việc xảy ra không phải như ông Cố
Vấn hiểu, nhưng không sai lời ông nói. Ông Nhu là một chính khách thông thường.
Phản ứng của ông trước các việc xảy ra, là phản ứng của một kẻ làm chính trị theo
lối thường tình. Ông băn khoăn. Ông lo nghĩ. Ông lập mưu kế. Ông vui khi thắng,
buồn khi bại. Luôn luôn ông muốn giữ thể diện cho Tổng Thống. Nhưng Cụ Diệm
thì khác. Cụ là chính khách của đạo lý Nhân Vị, nó đòi kẻ trị dân phải bắt đầu từ
việc mình trị lấy mình, mình làm chủ mình. Có thể thống hay không, là tại công tác
căn bản đó. Một khi Cụ đã thành công trong công tác đó, hỏi cần gì phải ai giữ thể
diện cho Cụ. Cụ nói Cụ sẽ ra đi, nhưng không phải là đi ra khỏi nước. Muốn ra ngoại
quốc ư? Cụ đã có máy bay Mỹ chực sẵn, và còn có Cabot Lodge tiễn chân. Nhưng
nếu làm như thế, Cụ nào có khác gì Nguyễn Văn Thiệu mười hai năm về sau. Cụ ra
đi thật, nhưng không phải đi quanh đi quẩn, hết nước này đến nước kia, vì ra đi như
thế sẽ phải rời khỏi nước. Cụ ra đi thật, nhưng Cụ đi lên, để từ trên đó, mãi mãi Cụ
vẫn còn ở với đất nước Cụ.
Và Cụ đã ra đi đúng nghi lễ, loại nghi lễ thích hợp với hoàn cảnh riêng của
Cụ. Nghi lễ này, dĩ nhiên, không giống nghi lễ Tế Nam giao. Tế Nam giao là Tế Trời
Đất, và vị nguyên thủ quốc gia đứng ra hành lễ. Hoàn cảnh của Cụ khác hẳn: chủ tế
cũng khác, mà của lễ cũng khác. Chủ tế đây là khách ở mãi phương xa, là ngoại
bang, đang uỷ quyền cho Chủ Tịch Hội Đồng Tướng Lãnh tuỳ nghi định đoạt. Còn
của lễ là chính Quốc gia Việt Nam, mà Cụ Diệm sẽ là đại diện, đứng ra làm vật tế
sinh. Hoàn cảnh như vậy, nghi lễ sẽ phần lớn nằm trong thâm cung của chiếc thiết
giáp viện trợ Mỹ M113. Dầu sao, nay bí mật đã bị tiết lộ: người đứng ra nhận lệnh
ngoại bang là Tướng Dương Văn Minh, người thi hành chỉ thị của Tướng Minh là
Tướng Mai Hữu Xuân, và tên đao phủ là Thiếu tá Nhung. Phần thấy được của nghi
lễ đã được Đại uý Thọ mô tả, đại khái như sau: Hội Đồng Tướng Lãnh cho chiếc
M113 đến nhà thờ Cha Tam áp giải Cụ Diệm về Bộ Tổng Tham Mưu với mật lệnh
giết Cụ dọc đường. Đối với họ, “Giờ này không còn ai là Tổng Thống nữa”. Thế rồi,
lối 8:15, thiên hạ sẽ thấy nằm ở kỳ đài Tổng Tham Mưu hai xác chết bị dao đâm,
súng bắn: xác của Cụ Diệm và của Cố Vấn Nhu. Lễ nghi tuẫn quốc của Tổng Thống
Ngô Đình Diệm đã hoàn tất.
Sự thường, ác giả, ác báo. Tội ác của những kẻ manh tâm giết Cụ Diệm hòng
cướp đoạt giang sơn Việt Nam thật là tày trời. Nhưng, như Đại uý Thọ đã ghi nhận,
suốt thời gian từ khi lìa Dinh và ở nhà Mã Tuyên, Cụ Diệm không tỏ dấu gì là giận
hờn, thù oán. Báo oán chăng là việc của Trời. Và thực sự, những viên đạn ngang
trời, không lâu sau, đã bắt người khách chủ mưu phải đền tội. Có lẽ đó cũng là ý
nghĩa của Tướng Thomas A. Lane ngầm chỉ khi ông nói: “Cái chết của Cụ đã được
trả thù bằng định luật khắt khe của Tạo hoá”. Phần Cụ Diệm, sống đã không oán
thù, thì chết cũng không. Nhưng, một người như Cụ, sống thì khôn, chết thì thiêng.
Đã sống vì nước, chết rồi Cụ cũng vẫn vì nước bằng cách dạy cho những kẻ bị ngoại
bang mua chuộc mà giết hại Cụ rằng phản bội Cụ chính là phản bội Tổ quốc Việt
Nam. Đã nói, Tướng Dương Văn Minh ra lệnh giết Cụ, thì cũng Tướng đó, mười hai
năm sau, với tư cách Tổng Thống Cộng Hoà Việt Nam, đã tự tay giao nước này cho
Cộng sản. Đó không phải là một suy luận, hay một ước đoán. Đó là một sự kiện xảy
ra trước toàn dân Việt Nam và thế giới, một sự kiện lịch sử.
Nhưng hỏi sức mạnh của đạo lý Nhân Vị là sức mạnh gì mà có thể đem Cụ
đến chỗ tự ý dâng mình làm vật hy sinh cho đất nước? Bần bút là một người học sử.
Nhìn vào cuộc đời Cụ với cặp mắt soi bói của sử gia, càng nhìn kỹ, bần bút càng
khám phá ra những nét thần kỳ, và cao cả. Dầu vậy, phải đợi đến mùa thu 1981, mới
gặp được một giải đáp thoả đáng cho thắc mắc vừa nêu lên. Về trước, chỉ thấy được
đạo lý Nhân Vị là một công trình tư tưởng vĩ đại, chỉ biết được rằng nó có một căn
bản thần học vững vàng, và tin chắc rằng Cụ Diệm đã sống đúng đắn theo đạo lý đó,
cho đến chết, mặc dầu phải chết. Năm 1981, bỗng nhiên Đức Gioan Phaolo II công
bố Thông điệp Laborem Exercens, nói về Đạo Chúa áp dụng cho cuộc sống lăn lộn
ở đời. Một Giáo hoàng chính thức thi hành phận sự giảng dạy, hỏi người giảng dạy
gì nếu không phải là Đạo Chúa? Ấy thế mà căn bản đạo lý của Thông điệp lại là đạo
lý Nhân Vị, đạo lý đã đem Cụ Diệm đến chỗ tuẫn quốc. Thì ra việc tận tâm vì nước
của Cụ đã xuất phát từ một đạo tâm chí thành, chí tín. Và một ý kiến loé ra trong đầu
óc. Chiếc M113 trong đó Tướng Minh giết Cụ không phải chỉ là bàn thờ tuẫn quốc
mà thôi, mà nó còn đóng vai Núi Sọ, nó còn là chỗ một đạo đồ theo chân Chúa đã
thi hành nhiệm vụ đến độ anh hùng tột đỉnh. Và Cụ Diệm không phải chỉ là một vị
anh hùng ái quốc, Cụ còn là một Vị Thánh.
Cho nên, cái chết của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm mãi mãi sẽ là một
nguồn ánh sáng chiếu soi cho người đời. Cho tất cả những kẻ phải lăn lộn với cuộc
sống ở đời, gương Cụ sẽ là tận tâm làm bổn phận như đạo lý Nhân Vị dạy. Cho
những người Việt Nam yêu nước, mưu đồ phục quốc, Cụ sẽ cho thấy rằng nếu phản
Cụ cũng là phản quốc, thì chỉ có thể phục quốc với Tinh Thần Tuẫn Quốc và Tử Đạo
của Cụ.
NGUYỄN PHƯƠNG
Bài viết này là của Linh mục Sử gia Nguyễn Phương (1921-1993), Giáo sư Sử Học tại Viện
Đại Học Huế (1957-1975), tác giả một số công trình nghiên cứu sử học như sau: Liên lạc giữa
Mỹ và Việt Nam (1957), Sự quan trọng của Đông Dương trước mặt quốc tế (1957), Ánh sáng Dân Chủ (1957), Phương Pháp Sử Học (1964), Việt Nam Thời Khai Sinh (1965), 82 Năm Việt Sử (1965, 125 Năm Thế Giới Sử (1965),Việt Nam Thời Bành Trướng: Tây Sơn (1967), The Ancient History of Vietnam (1976, di cảo chưa in), A parade of American Puppets (a story of South Vietnam from 1954 to 1975), 1978, di cảo chưa in, Cổ Sử Việt Nam trong Ngoại kỷ Toàn Thư, 1973, di cảo chưa in, Việt Nam Thời Bành Trướng: Trịnh Nguyễn, 1973, di cảo chưa in); Ngài cũng là dịch giả cuốn Nhật ký Chúa Giê-Su (Avec Jésus, au jour le jour, bản thảo chuyển ngữ tác phẩm của Linh mục Aulagnier), Đức Trinh Nữ Maria trong Di bút của Chị Maria Valtorta (La Vierge Marie dans l’oeuvre de Maria Valtorta của Linh Mục Gabriel M. Roschini, O.S.M) và tác phẩm chuyển ngữ trên 5,000 trang (chưa in) về một danh tác thuộc phạm vi Mạc Khải Tư (Révélation Privée) của Chị Maria Valtorta có tên “Người Thần Chuyện Thánh” (dựa trên bản tiếng Anh có tên The Poem of the Man-God, năm tập; bản tiếng Pháp có tên L’ÉVANGILE tel qu’il m’a été révélé, mười tập;
bản tiếng Ý có tên IL POEMA DELL’UOMO-DIO, mười tập.) Linh mục sử gia Nguyễn Phương (bút hiệu Trúc Long) đã từng cộng tác với một số báo chí trong nước trước năm 1975 như Tạp chí Bách Khoa (Sài Gòn), Tạp chí Đại Học (Huế), Tạp san Sử Địa của nhóm sinh viên Đại Học Sư Phạm Sài Gòn. Ở hải ngoại Linh mục Nguyễn Phương cộng tác với Tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong, VA với khoảng 150 bài viết, một số bài cho tạp chí Đất Mẹ của ông Nguyễn Phi Thọ ở Houston. Tháng 10-1963, Linh mục Nguyễn Phương đã có cuộc tranh luận (bút chiến) với Văn Tân, thành viên Viện Sử Học Hà Hội về chủ đề “Ai đã thống nhất Việt Nam? Nguyễn Huệ hay Nguyễn Ánh, trả lời ông Văn Tân Hà Nội”, bài viết trước xuất hiện trên Tạp chí Bách Khoa ở Sài Gòn và các bài kế trên Tạp chí Đại Học. Văn Tân cho rằng cuộc cách mạng Tây Sơn là cuộc cách mạng nông dân và giành cuộc thống nhất đất nước cho Nguyễn Huệ, trong khi Linh mục Sử gia Nguyễn Phương chủ trương công thống nhất đất nước vào đầu thế kỷ 19 là của Gia Long Nguyễn Ánh. Sử gia Hoa Kỳ Alexander B. Woodside đã viết về sử gia Nguyễn Phương và nhắc đến cuộc bút chiến hi hữu này trong cuốn Vietnam and the Chinese model (1988) của ông. Tiến Sĩ Liam Kelly, Giáo sư Sử học của Trường Đại Học Hawai’i ở Manoa cũng đã tham khảo các công trình nghiên cứu sử học của Linh mục Nguyễn Phương trong vấn đề Cổ sử Việt Nam, các chuyện liên quan đến Hai Bà Trưng, Triệu Quang phục v.v… và là người đã từng đưa cuốn “Việt Nam Thời Khai Sinh” của Linh mục Nguyễn Phương lên mạng lưới điện tử. Năm 2011, Sử gia Wynn Wilcox, Giáo sư Trường Đại Học Connecticut State, trong tác phẩm Allegories of the Vietnamese Past (do Trường Đại Học Yale phát hành) đã phân tích về cuộc bút chiến nói trên khá kỹ càng, và mới đây ngày 11 tháng 4-2015, sử gia Wynn Wilcox đã có trình bày một bài tham luận dài có tên “Vietnamese-American Historians in the United States, 1954-present” trong một cuộc hội thảo sử học gồm các giáo sư đại học Hoa Kỳ, nói về các công trình biên khảo sử học của Linh mục Sử gia Nguyễn Phương, dựa trên các tư liệu lịch sử của tôi đã phổ biến trước đây. Bài viết của GS Wilcox sẽ được Giáo sư Lê Đình Cai chuyển ngữ và sẽ in trên Tập Kỷ Yếu Viện Đại Học Huế sẽ được phát hành vào tháng 12-2015.
Một số sử gia gạo cội của Hà Nội sau này như Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng đã công
tâm hơn khi cho rằng Nguyễn Huệ chưa bao giờ thống nhất được đất nước và họ đã ngả về luận
thuyết của Linh mục sử gia Nguyễn Phương, và cho rằng đó là công trình của Gia Long Nguyễn
Ánh.
Bài viết về Cố TT. Ngô Đình Diệm sau đây của Trúc Long Nguyễn Phương được đăng tải
trên Tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong (số 119) của Chủ Nhiệm Nguyễn Thanh Hoàng ở Virginia
khoảng ba thập niên trước đây. Bản tôi có trong tay là thuộc về một tập photocopy do Linh mục
Nguyễn Phương để lại cho tôi sau khi mất (1993). Là môn sinh của Linh mục Nguyễn Phương, tôi có bổn phận bảo lưu các tài liệu sử học quý báu của Ngài và thấy có bổn phận phải công bố những tư liệu đó khi cần thiết để giúp cho giới nghiên cứu sử học có tư liệu lịch sử trung thực trong tay và độc giả có dịp thưởng lãm.
Nguyễn Đức Cung
Philadelphia, ngày 26 tháng 10-2023.