TỪ MỸ LAI ĐẾN TÂN LẬP

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail
Bảo Định

Xin gửi đến quí độc giả và chiến hữu bài viết tôi ghi lại theo lời kể của một người còn ở Việt Nam về vụ thảm sát Tân Lập tháng 4/75 để ghi thêm vào quyển sách đen của cộng sản Việt Nam. Trước hết xin nhắc lại vụ thảm sát Mỹ Lai mà Cộng Sản đã lớn tiếng tuyên truyền để che lấp dã tâm của người Cộng Sản thường lấy người dân ra làm mộc đỡ đạn cho các đơn vị chiến đấu của chúng.

1. Vụ Thảm Sát Mỹ Lai

Ấp Mỹ Lai-4 thuộc xã Sơn Mỹ, tỉnh Quảng Ngãi, Trung phần Việt Nam là một nơi được xem như là nằm trong tầm ảnh hưởng của Việt Cộng. Tin tức tình báo ghi nhận Tiểu đoàn 48 Việt Cộng lối 250 tên đang hoạt động trong vùng. Ngày 25 tháng 2, Ðại đội C của Ðại úy Ernest L. Medina, Quân lực Ðồng minh Hoa Kỳ, trong một cuộc hành quân tuần tiễu vướng phải mìn làm cho 6 chết và 12 bị thương. Ngày 14 tháng 3, đơn vị lại chịu nhiều tổn thất khác. Ngày hôm sau, Trung tá Frank A. Baker, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/20 của Sư đoàn Americal 23 Bộ Binh, chỉ thị Ðại úy Medina mở cuộc hành quân “tìm địch và tiêu diệt địch” (Search-and- destroy) để tiêu diệt đơn vị Việt Cộng.

Sáng sớm ngày Thứ Ba, 16 tháng 3 năm 1968, Ðại đội C được trực thăng vận xuống một bãi đáp ở phía Tây Ấp. Ðại úy Medina đặt Ban Chỉ Huy Ðại đội trong một khu nghĩa địa bên ngoài và tung các Trung đội tiến chiếm và lục soát mục tiêu. Trung đội 2 lục soát nửa Ấp về hướng Bắc, còn Trung đội 1 của Trung úy Calley lục soát nửa Ấp về hướng Nam. Sau khi tiến chiếm mục tiêu, Trung úy Calley đã cho lệnh bắn giết bừa bãi một cách dã man. Ðã có hơn 175 dân làng bị thiệt hại mà tất cả đều là đàn bà, trẻ con và người già cả. Lối 9 giờ sáng, Trung tá Baker, Tiểu đoàn trưởng bay trực thăng vào vùng. Khi biết được sự việc, ông liền ra lệnh cho Ðại úy Medina hãy ngừng ngay cuộc nổ súng.

Vụ thảm sát này sau đó được đưa ra ánh sáng vào năm 1969. Kết quả có 25 sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ bị kết án với nhiều tội danh khác nhau – 13, gồm Trung úy Calley bị kết “tội phạm chiến tranh” (war crimes) và 12, gồm Tướng Koster, Tư lệnh Sư đoàn về tội “bao che” (cover-up). Trung úy Calley bị tù chung thân, và Tướng Koster bị giáng cấp.

2. Vụ Thảm Sát Tân Lập

Ngày 21 tháng 4 năm 1975, một vụ thảm sát không kém phần dã man do chính bọn Cộng sản xâm lăng Bắc Việt (cũng người Việt) đã thực hiện với chính người Việt (thường dân vô tội Miền Nam Việt Nam mà chúng xem là ngụy dân) với con số trên 183 nạn nhân mà tất cả là đàn bà, trẻ con và người già cả.

Sau khi biết chắc chắn đơn vị cuối cùng của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, Tiểu 2/43, Sư đoàn 18 Bộ Binh đã triệt thoái khỏi trận địa Xuân Lộc, rời căn cứ hỏa lực Núi Thị, đang di chuyển trong rừng cao su, gần Ấp Núi Ðô, hướng về Long Giao để theo LTL.2 đi Bà Rịa, các đơn vị của Sư đoàn 341 quân Cộng sản xâm lăng Bắc Việt, thuộc Quân đoàn IV của Tướng Hoàng Cầm, được lệnh tiến vào tiếp thu các làng xã từ đèo Mẹ Bồng Con, dọc theo QL.1 đến Ngã Ba Cua Heo, cửa ngõ đi vào Thị xã Xuân Lộc từ hướng Tây.

Dù biết Xuân Lộc đã bị bỏ ngõ, nhưng Cộng quân vẫn e dè, thận trọng trong lúc tiến quân. Ðơn vị tiến vào xã Tân Lập, một xã nằm ngay sát phía nam đường xe lửa, cách căn cứ Núi Thị của Tiêu đoàn 2/43 lối 3 cây số về hướng Tây-Nam, cách Thị xã Xuân Lộc lối 5.5 cây số về hướng Tây, tọa độ 392-082, đã vướng phải mìn claymore do các chiến sĩ nghĩa quân gài. Mìn nổ đã làm cho một số cán binh cộng sản chết và bị thương. Phản ứng lại trước kẻ thù vô hình – vì tất cả các đơn vị của QLVNCH, kể cả Nghĩa quân đã được lệnh triệt thoái khỏi Xuân Lộc từ lúc 7 giờ tối ngày hôm trước, chỉ còn lại Tiểu đoàn 2/43 thì cũng đã rời Núi Thị hồi 5 giờ sáng – bọn cộng sản xâm lược nổ súng đồng loạt vào xã. Những tràng đạn tiểu liên AK47, B40, B41 bắn xối xả vào dân làng. Trớ trêu thay, những người dân này bị kích động, bị xúi giục hay bị dọa nạt bởi những kẻ nằm vùng đang ra đứng trước nhà để “hoan hô bộ đội giải phóng”. Nhưng đáp lại là những tràng đạn dã man, giết người. Chúng ồ ạt tiến chiếm mà không gặp bất cứ một sức kháng cự nào. Tên chỉ huy ra lệnh lùa dân làng tập trung tại một bãi đất trống. Chúng bắt để tay trên đầu, nằm úp mặt xuống mặt đất rồi cho lệnh bộ đội “cụ Hồ” hay “bộ đội giải phóng” của nó “giải phóng” tất cả những ai chúng bắt được về bên kia thế giới. Những người còn chưa kịp chết vì đạn thì nó cho dùng lưỡi lê đâm chém cho đến chết mới thôi. Những tên du kích, những tên nằm vùng đi theo “bộ đội giải phóng” phải năn nỉ tên chỉ huy mãi cuộc bắn giết mới tạm ngưng. Vì trong số đồng bào bị giết hại đó có thân nhân của chúng. Con số tử vong đếm được trên 183 nạn nhân. Tất cả được lùa xuống hố và chôn tập thể. Hiện nay mồ chôn tập thể đó vẫn còn tồn tại tại xã Tân Lập, Quận Xuân Lộc, Tỉnh Long Khánh.

Vụ thảm sát Mỹ Lai dù ban đầu được bao che, nhưng cuối cùng, chỉ 1 năm sau đã được đưa ra ánh sang. Những quân nhân liên quan đều bị đưa ra tòa và bị trừng phạt. Báo chí Mỹ và thế giới làm rùm beng câu chuyện này. Ðó là điều tự nhiên. Kẻ làm ác phải đền tội. Chúng ta không thể bao che tội ác. Nhưng trước đó mấy tháng, đã xảy ra một vụ thảm sát rất rùng rợn và rất dã man, đã làm cho hàng ngàn hường dân vô tội bị chết thảm bằng súng AK47, B40, B41, lựu đạn, dao găm, mã tấu, bị búa đánh vào đầu, thậm chí bị chôn sống trong những hố chôn tập thể. Ðó là vụ thảm sát Mậu Thân năm 1968 tại cố đô Huế. Vụ thảm sát này do bọn Việt Cộng và bọn Cộng sản xâm lược Bắc Việt chủ trương. Trong những ngày chiếm đóng cố đô, chúng đã lùa đi hàng trăm, hàng ngàn người dân vô tội về phía nam hoặc lên rừng để rồi giết sạch bằng nhiều phương thức từ hiện đại (súng) đến những phương tiện dã man thô sơ như búa, dao găm và mã tấu. Trịnh Công Sơn, một nhạc sĩ phản chiến đã nói lên được một phần nào cảnh thây người nằm la liệt rải rác khắp đó đây tại Huế trong cái Tết đau thương đó.

Nhưng tên chỉ huy trực tiếp là Ðại tá Việt Cộng Lê Minh cùng những tên đao phủ Hoàng Phủ Ngọc Tường và em là Ngọc Phan, Nguyễn Ðắc Xuân và nhiều tên khác vẫn còn sống nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, mặc dù bọn chúng đã sát hại hơn 5 ngàn thường dân vô tội, tức con số nạn nhân nhiều gấp 30 lần vụ thảm sát Mỹ Lai; và tàn bạo, dã man gấp ngàn lần. Không những thế, chúng còn hãnh diện là có công lớn với “cách mạng”! Vậy mà báo chí Phương Tây và những kẻ phản chiến đã không làm lớn chuyện này, nếu không muốn nói là họ đã cố tình bỏ qua.

Vụ thảm sát Tân Lập xảy ra ngày 21 tháng 4 năm 1975, ngay sau khi toàn bộ lực lương của Sư đoàn 18 BB và các đơn vị tham dự trận Xuân Lộc vừa triệt thoái. Báo chí Phương Tây đã đề cập nhiều về trận chiến tàn khốc này, nhưng rất anh dũng của QLVNCH. Nhưng không một ai nói đến vụ thảm sát dã man đã xảy ra tại một xã chỉ cách Xuân Lộc hơn 5 cây số. Lần đầu tiên cách đây vài năm, Jay Veith, tác giả tập tài liệu “Fighting Is An Art” viết về những trận đánh của Sư đoàn 18 BB từ Ðịnh Quán bắt đầu từ trung tuần tháng 3 năm 1975 đến trận cuối cùng 12 ngày đêm từ 8 tháng 4 đến 21 tháng 4 năm 1975, có hỏi tôi về câu chuyện này. Nhà văn Hải Triều bên Canada cũng có đề cập về vụ này. Cách đây không lâu, một người bạn của tôi hiện ở Xuân Lộc đã cho tôi biết đại khái như trên, không dám nói nhiều. Nhưng ký giả Mỹ Frank Snepp, ngồi tại Sài gòn, tác giả cuốn Decent Interval khi viết về trận Xuân Lộc đã cố tình nói sai sự thật, rồi Luật Sư Hoàng Cơ Thụy, tác giả cuốn Việt Sử Khảo Luận ở bên Tây cứ tưởng là thật, đã đưa vào cuốn sử của ông, và Luật Sư Nguyễn Văn Chức định cư tại Mỹ, không biết “mô tê ất giáp” gì cả, cứ thế trích lại: “Trực thăng đã đến bốc cái Tiểu đoàn chót của 4 tiểu đoàn sống sót của Sư đoàn 18, kể luôn Tướng Lê Minh Ðảo. Có 600 người dưới quyền Ðại tá Lê Xuân Hiếu tình nguyện ở lại sau cùng để che chở cho cuộc triệt thoái. Trong vài giờ, họ bị tràn ngập bởi 40 ngàn quân Bắc Việt đã được bố trí để trực tiếp đánh họ”. (600 người ở lại đó chính là Tiểu đoàn 2/43, Sư đoàn 18 BB, dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Hữu Chế, chứ không phải Ðại tá Lê Xuân Hiếu – Ðại tá Hiếu và Tướng Ðảo đã di chuyển bộ trên con đường LTL2 về quận Ðức Thạnh, tỉnh Phước Tuy cùng quân sĩ, chỉ huy cuộc triệt thoái từ 7 giờ tối ngày hôm trước – Trên đường triệt thoái, Tiểu đoàn đơn độc đi xuyên qua khu vực chiếm đóng của Sư đoàn 341 CSBV, và những căn cứ địa của Việt cộng, đã chạm súng liên tục, bị bao vây truy diệt không ngừng, nên bị thiệt hại khá nặng, nhưng không quá bi thảm như các tác giả trên đã nói. Và cuối cùng cũng ra tới Long Thành, tỉnh Phước Tuy để được xe đưa về căn cứ Long Bình, tỉnh Biên Hòa. Riêng Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng và 27 quân sĩ bị thất lạc trong rừng cũng đã được trực thăng bốc về 4 ngày sau).

Ký giả Frank Snepp với cương vị của ông ta lúc đó hẳn có biết vụ thảm sát này, nhưng đã lờ đi. Còn cái anh chàng ký tên là Hà Nhân Văn, quân sư của Nguyễn Hữu Chánh, khoe khoang chỉ đọc tài liệu của Việt Cộng về trận Xuân Lộc, đã xuyên tạc, viết sai lạc về cuộc lui binh của Sư đoàn 18 BB, mà cả địch và bạn đều công nhận là rất thành công. Câu nói để đời của cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu:

“Ðừng nghe những gì cộng sản nói,
Hãy nhìn những gì cộng sản làm”.

Nhưng Hà Nhân Văn đã tin vào tài liệu do Việt Cộng viết – Việt Cộng nói láo để che đậy thảm bại chua cay mà lần đầu tiên chúng gặp phải trong 55 ngày đêm xâm lược miền Nam. Chúng tiến quân như thế chẻ tre. Văn Tiến Dũng, tên đại tướng chỉ huy đoàn quân xâm lược Bắc Việt đã từng khoác lác: “cán bộ tham mưu đã không kịp vẽ bản đồ cho bước tiến quân của bộ đội”, nhưng khi đụng phải Sư đoàn 18 BB tại Xuân Lộc thì lại phải than: “Mặt trận Xuân Lộc đã ác liệt và đẫm máu từ những ngày đầu…” – Vì một mưu đồ nào đó, Hà Nhân Văn đã nói sai sự thật về Sư đoàn 18 BB và vị chủ soái là Tướng Lê Minh Ðảo. Luật sư Nguyễn Văn Chức, một nhà trí thức, nhưng lại rất gà mờ đi tin những gì do ký giả Mỹ ngồi tại Sài gòn trong phòng lạnh, uống rượu whisky, tưởng tượng rồi viết lếu láo. Nhưng tất cả đã cố tình lờ đi vụ thảm sát Tân Lập, một vụ thảm sát dã man và tàn bạo hơn nhiều so với vụ thảm sát Mỹ Lai.

Ðã hơn ba mươi năm trôi qua kể từ khi vụ thảm sát Tân Lập xảy ra, nhưng bọn Việt Cộng vẫn giấu kín. Người chết thì không thể sống lại. Nhưng những tên hung thủ vẫn sống nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, thậm chí còn được tuyên dương là anh hùng quân đội Nhân dân vì đã giết được nhiều Mỹ-Ngụy, mà thực tế chỉ là những người dân vô tội. Dù bây giờ chúng ta không làm được gì, nhưng cần thiết phải nói lên cho mọi người biết. Biết để mà ghê tởm, để mà xa lánh chúng, để đừng có ảo tưởng gì về chúng. Chứ đừng như ai cứ chịu đấm ăn xôi, nhưng sợ rằng xôi lại hỏng, và chỉ làm trò cười cho thiên hạ!

Bảo Ðịnh