SỰ THẬT ĐẾN QUÁ TRỄ-(NGHỊ QUYẾT 36/ĐÈN CÙ/RA MẮT SÁCH 24-4) (Phan Nhật Nam)

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

Lời người viết: Tuần cuối của Tháng 4, 2022 chúng tôi đã trình bày đến Quý Độc Giả nhân Ngày Quốc Hận thứ 47/Ngày 30 Tháng 4, 1975 về Cuộc Tổng Tấn Công/Nghị Quyết 36/Bộ Chính Trị/TƯĐCS/Hà Nội với mục tiêu “Đánh sập Hệ Thống Chính Trị-Kinh Tế-Văn Hóa-Xã Hội” của Người Việt Tỵ Nạn CS nơi hải ngoại. Chiến dịch NQ36 được khỏi động từ 2008 với mục tiêu điễn hình cụ thể Vùng LittleSàigòn, Nam Cali. Sau 14 năm (2008-2022) chiến dịch độc hại và tai họa nầy đã thâu đạt thành quả rất đánh kể- Vùng LittleSaigòn dần biến dạng tính chất của “Thủ Đô Tỵ Nạn của Người Việt Quốc Gia/Người Sàigòn” nên thành “Cộng sản hóa/Hà Nội hóa”. Cụ thể trong lãnh vực sinh hoạt “văn hóa-văn học-nghệ thuật-truyền thông” – Hệ thống nhà xuất bản, nhà sách, báo chí, trung tâm băng nhạc, đài phát thanh, đài truuyền hình với tinh thần-nội dung Quốc Gia-Dân Tộc.. hầu như triệt tiêu toàn diện hoặc biến dạng từng phần!

 Nhận định nêu trên kết thành một cách khách quan từ thực tế sinh hoạt báo chí, văn học, văn hóa, nghệ thuật đang bị co cụm, suy sụp.. Điển hình mới nhất với sinh hoạt gọi là Ra Mắt Sách trong ngày 24 tháng 4 vừa qua nơi nhà sách lớn nhất (của toàn hải ngoại) Tự Lực, nay biến cải thành cơ sở bán trà và dược phẩm. Buổi Ra Mắt Sách có mặt hai Danh Tính Lớn/Lớn Nhất của nền Văn Học Miền Nam trước 1975 ở Sàigòn và sau 1975 nơi hải ngoại: Hai Nhà Văn Niên Trưởng Doãn Quốc Sỹ, và Nguyễn Đình Toàn. Buổi RMS có sự tham dự của Diễn Viên Điện Ảnh Kiều Chinh và vài nhân sự thuộc giới viết văn, làm báo, hội hoạ trong vùng. Cô Nhã Lan, khách mời thuộc giới truyền thông Đài Truyền Hình-Phát Thanh Little Sàigòn nhận xét..“Khi hỏi chuyện, Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ 100 tuổi (1923) chỉ ngồi cười không nhớ! Hình #1” và Nhà Văn Nguyễn Đình Toàn (1936) thì: “Tay ông run không ký tròn chữ được trong buổi ra mắt sách “Thơ Và Ca Từ-Hình #2; #3“. Từ nhận xét của NL, thêm sự có mặt của Nữ Diễn Viên Kiều Chinh (1937) trong trang phục một Nữ Tu Phật Giáo – Là những nhân vật mà bản thân người viết đã có liên hệ thân thiết từ 1960, 1970 ở VN – Càng thân thiết hơn sau lần đi tù về trong thập niên 1990’s cho đến hôm nay, ở Mỹ. Từ gần gũi quý trọng lâu dài nầy, người viết có nhận định: Ba Danh Tính Lớn/Lớn Nhất của Văn Học-Nghệ Thuật Miền Nam-Quốc Gia VNCH ĐƯỢC/BỊ vô tình/một cách CỐ Ý đặt vào trong một kết luận toàn c3nh chính trị-văn hóa: BIỀU TRƯNG VĂN HỌC-NGHỆ THUẬT MIỀN NAM NHƯ THẾ NẦY ĐÂY – VẬY SỤP ĐỖ 30 THÁNG 4, 1975 LÀ MỘT ĐIỀU TẤT NHIÊN.

 Nhận định kể trên có xác chứng là bài viết sau đây (Từ 2014) về cuốn Đèn Cù của Trần Đĩnh, biên tập viên nòng cốt của Báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng Sản Hà Nội từ 1950. Đèn Cù được Đỗ Quý Toàn/Ngô Nhân Dụng và Đinh Quang Anh Thái (HAI NHÂN SỰ CHÍNH CỦA BUỔI RA MẮT SÁCH 24/4) đốt lên thành ngọn lửa lớn nhất của Văn Học Việt Nam qua NgườiViệtBook, xuất bản năm 2014 tại Little Sàigòn – Mục tiêu quan trọng của Nghị Quyết 36.

 Người viết hoàn thành bài viết nầy lần thứ hai (Lần thứ nhất, 2014) với MỐI ĐAU CHUNG LUÔN MỚI CỦA NGÀY 30 THÁNG 4, 1975-2022 chứ không phải là buổi RMS nhỏ nhặt kia.   

 

.               Sự thật cuối cùng đến quá trễ!

 Nỗ lực của hệ thống cộng sản phương Đông là tạo nên một tính chất tôn giáo,

 và nguồn cảm hứng của một tôn giáo.

Albert Einstein

Đời sống không Tình Thương giống như cây không nở hoa, đơm trái.

Khalil Gibran

Tôi biết nó!

Thằng nói câu nói đó!

Tôi biết nó!

Đồng bào miền Bắc biết nó!

Nguyễn Chí Thiện, 1968

 

Không có gì quý hơn Độc Lập–Tự Do.

Hồ Chí Minh

Xã hội chủ nghĩa dẫu chưa hoàn chỉnh nhưng tốt đẹp gấp vạn lần chế độ tư bản!

Trường Chinh, dịp “Thống nhất nước nhà về mặt nhà nước”, 1976.

Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô. Đánh cho Trung Quốc.

Lê Duẫn

Đường vinh quang xây xác quân thù! Thề phanh thây uống máu quân thù!

Tiến Quân Ca của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa/Cộng Hòa XHCN Việt Nam

Văn Cao, Trưởng Ban Ám Sát Thành Phố Hải Phòng, 1945

Người cộng sản phải luôn sẵn sàng trong mọi thời thế để đấu tranh cho Sự Thật, bởi Sự Thật chính là Quyền Lợi của Nhân Dân.

Mao Trạch Đông “Về Chính Phủ Liên Hiệp” (Ngày 24 tháng 4, 1945)

Dẫn Nhập: Vào một ngày dịp Tết năm 1950 qua 1951, trong chiến khu tả ngạn sông Hương, đứa nhỏ 7 tuổi hỏi một cán bộ cộng sản hàng cao cấp tên Nhân (chắc chỉ là bí danh; có cây súng cá nhân nhỏ): Tại sao súng chú to vậy? Chú Nhân đáp: Súng to dùng để bắn Tây. Vài ngày sau người trong khu khám phá xác bà mẹ chị Trang (người giúp việc cho gia đình đứa nhỏ) chết ngã sấp nơi bờ sông, chỗ đứa bé và chú Nhân có đối thoại kể trên. Vừa thấy xác mẹ chị Trang, đứa nhỏ nhớ ngay đến hai hình ảnh: Đêm đêm bà đút nước cháo cho du kích. Và ánh mắt tìm kiếm, dò xét của chú Nhân khi loay hoay nơi bờ sông. Nay, sáu mươi năm hơn, trí nhớ của đứa trẻ chưa lên mười năm ấy vẫn còn nguyên độ với câu tự xác định từ tấm bé: Chú Nhân bắn mẹ chị Trang chứ không ai hết. Chú Nhân ÁC quá!

Kể thêm câu chuyện, qua năm 1954 sau khi vào Đà Nẵng, đến xem triễn lãm tại khu bệnh viện Đường Lê Lợi nhìn thấy bức ảnh ông Hồ ngồi giữa một đám thiếu nữ với lời ghi chú “Bác Hồ dâm bôn”. Dẫu chưa hiểu đủ nghĩa chữ “dâm bôn”, nhưng gã thiếu niên tin rằng “Bác Hồ (quả thật) dâm bôn” vì nhìn ra nét mặt hả hê thống khoái của ông Hồ được nhiều thiếu nữ vây quanh. Qua thập niên 60, lớn lên đi lính dịp hành quân, bản thân tìm thấy trong mật khu cộng sản những hình ảnh ông Hồ ôm hôn trẻ con (phần đông là trẻ gái) từ trong Nam ra Bắc. Từ những sự kiện nầy, ý “dâm bôn” đối với Hồ Chí Minh từ nhỏ được khẳng định/rõ hơn là “ấu dâm” – Hiện thực nên thành chữ nghĩa trong sách của Phan Nhật Nam, Chương “Cái Chết Của Một Lãnh Tụ – Dọc Đường Số I, NXB ĐạiNgã Sàigòn, 1970. Và sau nầy, khi đọc đến vụ việc Hồ Chí Minh thuận để bộ trưởng công an Trần Quốc Hoàn hiếp xong giết bỏ cô Nông Thị Xuân, người đã thai sinh Nguyễn Tất Trung sau thời gian dài ăn ở với ông Hồ dưới danh nghĩa “con nuôi của bác”. Với vụ việc nầy, cảm nhận từ những năm 50, 60 xa xôi kia càng trở nên hiện thực qua kết luận: Hồ Chí Minh là biểu hiện đầy đủ của Tính Dâm/Sự Ác. Nói rõ hơn: “Ấu dâm”. Với Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Côn, Nguyễn Ái Quốc, Linov, Lão Vương, Hồ Quang.. mà cuối cùng là Hồ Chí Minh thì Lực Dâm đã được chuyển hóa nên thành Mưu Thuật/Trí Hiểm/Bản Lãnh một cách toàn diện và triệt để của Sự Ác.

Ý niệm ÁC từ 1950, 1960.. về người và chế độ cộng sản điễn hình với HCM dần được xác chứng bởi mắt thấy/tai nghe/thính giác ghi nhận/xúc giác chạm đủ với tận mười đầu ngón tay tại những hiện trường còn mùi bom đạn/âm âm sự chết/đầm đìa sự tàn nhẫn do người cộng sản gây nên trên từng thước đất miền Nam. Và cụ thể với mỗi con đường, mỗi căn nhà ở Huế sau Mậu Thân (2/1968). Điễn hình hơn hết trên 9 cây số đường từ Hải Lăng đến Cầu Câu Nhi Phường, ngày theo Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù tái chiếm Quảng Trị 25 tháng 6, 1972. Và cuối cùng, nói sao cho đủ, viết sao cho hết với mỗi bước chân dẫm lên xác người di tản từ Pleiku về Tuy Hòa, bắt đầu Ngày 16 Tháng 3, 1975 để vào nát nhầy trước Trại Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù Đường Lê Văn Duyệt, đối diện Nghĩa Trang Đô Thành. Tiếp theo với mười-bốn năm nơi những nhà tù Bắc/Nam sau 1975 thì xác chứng kể trên đã nên thành một xác quyết không thể nào phủ nhận được – Cộng Sản/Sự Ác là Một.

 Thế nên, Sự Thật CS/Đèn Cù của Trần Đĩnh đến năm 2014 mới được in ra bởi NgườiViệt Book, Nam Cali thì quá trễ. Hơn thế nữa, còn nhiều người, rất nhiều người vẫn tin rằng: Người cộng sản dẫu sao cũng là người việt nam (không thể có can đảm viết hoa vì không đủ nhẫn tâm đối với 90 Triệu Người Việt Nam hiện tại đang ở trong nước). Cái gọi là “Sự Thật CS” kia đến bấy giờ mới được soi tỏ bởi ánh sáng một cây Đèn Cù – Một loại đèn với hình ảnh, ánh sáng không thật.

Một- Đảng không thật/Đảng không mạnh.

Đảng không thật. Vì ngay từ lúc chưa chính thức thành hình, năm 1925, Nguyễn Sinh Côn (Hồ Chí Minh sau nầy) thử “Việt Nam Hóa” tổ chức thanh niên cộng sản do ông thành lập qua danh xưng Việt Nam Thanh Niên Kách Mệnh Ðồng Chí Hội. Mưu định “Việt Nam Hóa” bị khám phá, ông Côn bị thất sủng do nghi ngờ có tinh thần “hữu khuynh quốc gia” đối với Ban Phương Ðông của Quốc Tế Cộng Sản. Năm 1930, ông lại thêm một lần bị chỉ trích và phê phán vì đã tự động thống nhất ba chi phái cộng sản (Đông Dương Cộng Sản Đảng; Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn; An Nam Cộng Sản Đảng) dưới danh xưng Việt Nam Cộng Sản Ðảng! Cuối cùng, tổ chức cộng sản (gọi là Việt Nam) đầu tiên phải lấy lại tên cũ: Đông Dương Cộng Sản Đảng! Quyết định do Đại Hội Trung Ương Đảng Lần Thứ Nhất họp tại Hồng Kông (Tháng 10, 1930) căn cứ trên nghị quyết của Quốc Tế Cộng Sản. Như thế Đảng cộng sản (gọi là) Việt Nam CHỈ sống đúng được 8 tháng từ tháng 2 đến tháng 10 năm 1930.

Nhưng dẫu đã ngoan ngoãn tuân hành Quốc Tế Cộng Sản, Tháng 12, 1945, Đảng Cộng Sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán với tờ báo đầu tiên của nó, Cờ Giải Phóng. Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác (không kèm theo chủ nghĩa Lê-nin) tiếp ra đời cùng báo Sự Thật (Lại thêm một lần của nhiều vay mượn, vì “Pravda -Sự Thật” là cơ quan ngôn luận của Ủy ban Trung ương Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga và Đảng Cộng sản Liên Xô từ 1912 đến 1991. Sau nầy, Báo Sự Thật/VN được thay thế bởi Nhân Dân, số báo đầu tiên ra ngày 11 Tháng 3, năm 1951 tại chiến khu Việt Bắc. Báo Sự Thật/Nhân Dân/CSVN giữ vai trò tương tự như báo của Liên Xô cho đến hôm nay, Thế Kỷ 21, với tổng số phát hành 180.000 tờ/ngày. (Hầu hết người Việt, kể cả đảng viên, các cơ quan nhà nước thường dùng gói đồ, việc vệ sinh.. Pnn). Trần Đĩnh bắt đầu viết báo Nhân Dân từ 1950 dưới hướng dẫn trực tiếp của Tổng Bí thư Trường Chinh.

Đảng không mạnh.Xin hãy nghe câu chuyện kể.. “Tháng 10, 1949 nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa ra đời. Hơn hai tháng sau cụ Hồ (đã là chủ tịch nước VNDCCH từ 2/9/1945-Pnn) bí mật len qua vùng địch ở Phục Hòa, Cao Bằng đi Trung quốc..

..Đâu biết đại thí sinh sắp dự cuộc khẩu thí mà nếu trúng tuyển thì đất nước sẽ đoạn tuyệt hẳn với thế giới..

..Ông cụ sang kiểm thảo với Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai..

.. Ông cụ kiểm thảo xong, Lưu Thiếu Kỳ nhận xét, góp ý kiến..

..

-Sao lại kiểm thảo?

-Là một chi bộ của quốc tế. Phải xin quốc tế cho nhận xét chứ!    

Nhưng hệ lụy đã nằm sâu bến trong vô thức đảng viên cộng sản Việt Nam: Vị trí đàn em, bên dưới, yên phận, biết ơn..

..Bác tự động nhận mình chỉ nêu được có tác phong, còn tư tưởng, lý luận thì để cho Mao Chủ Tịch. Được lãnh tụ ráo riết giáo dục (?-Pnn) điều lệ thêm câu: Lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam…

…Từ 1951, tuần nào báo Nhân Dân cũng có vài mẫu của CB (tức cụ Hồ) phổ biến mọi mặt của Trung Quốc.. Dần dà đảng viên cộng sản Việt Nam lại tìm ra chỗ để tự hào được làm em của hai nước vĩ đại: Liên Xô anh cả và Trung Quốc anh hai..

(ĐC, từ trg 47-51)      

Từ 1951 đã là vậy huống gì đến năm 1954 với yểm trợ của Trung cộng từ bát ăn cơm, bánh lương khô, đến khẩu pháo kéo vào trận địa.. Nên dẫu đã chiến thắng trong những ngày đầu Tháng 5, 1954. Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp đã buộc phải đến Liễu Châu theo lệnh từ Bắc Kinh trong lúc thế nước đang hồi quyết định để tiến hành tám lần họp trong ba ngày (3-5 Tháng 7, 1954). Cuộc họp đưa ra quyết định trọng đại tại Hội Nghị Đình Chiến Đông Dương đang họp tại Genève (7/1954) đối với số phận tương lai của Việt Nam dưới chủ trì của Chu Ân Lai nhận lệnh trực tiếp từ Mao Trạch Đông.

40 năm sau, 1990 tại Thành Đô, Trung Hoa khi hệ thống đảng cộng sản thế giới đang trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Với tập đoàn lãnh đạo gồm những nhân vật thứ yếu như Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười..Và dẫu có sự tham dự của cố vấn Phạm Văn Đồng, thuộc thế hệ lãnh đạo cộng sản thứ nhất cùng đến Thành Đô. Nhưng cố vấn Đồng cũng chỉ có mặt đề xác chứng thêm một lần thuận nhượng Hoàng-Trường Sa qua công hàm ấn ký ngày 14 tháng 9, 1959 về quy định của Châu Ân Lai. Vậy hỏi thử tập đoàn cầm đầu đảng cộng sản nơi Hà Nội hôm nay có thể xoay trở được gì qua sự kiện giàn khoan HD 981?

 Tóm lại, trong suốt quá trình gần một thế kỷ (1930-2014), Đảng cộng sản Việt Nam không hề thật/Đảng không hề mạnh/Đảng chỉ là vệ tinh của Quốc Tế Cộng sản, nói rõ hơn thống thuộc với Đảng cộng sản Trung Hoa. Và tất cả tai họa cuối cùng, chung nhất của toàn Dân Tộc Việt Nam rộng ra với dân chúng ba nước Đông Dương là vấn đề “Thuần Hồ/Từ Hồ/Của Hồ/Với Hồ” – Đầu mối toàn bộ tai họa của Phận Mệnh Việt Nam/Đông Dương. Tập thể “Hồ hàm”” không chỉ giới hạn nơi Hà Nội mà chỉ đạo toàn diện bao gồm Mặt trận giải phóng Miền Nam; Đảng Nhân Dân Cách Mạng Lào; đảng Nhân Dân Cách Mạng Khmer – Những sản phẩm thuần thành từ Đảng cộng sản Đông Dương/Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ 2/9/1945 xây dựng, cầm đầu – “Sự thật” từ 1945 mà Trần Đĩnh phải đợi hết một đời người mãi đến năm 2014 mới viết xong, được in ra!

Hai- Thuần Hồ/ Của Hồ/Với Hồ..

Quả thật Đảng cộng sản Việt Nam không phải hên may mà đoạt thắng suốt lịch sử dài từ 1945, 1954, 1968, 1972, 1975.. nhưng bởi đã tập họp đủ các điều kiện thuận tiện, vận động thời cơ đúng lúc, lợi dụng được tình thế.. do những sơ hở, nhầm lẫn của lịch sử luôn lập lại. Những nhầm lẫn, dự mưu, tính toán từ nhiều thế hệ lãnh đạo mang đủ quốc tịch Mỹ, Hoa, Nga, Anh, Pháp..Những nhân sự khôn ngoan, trí hiểm nói lên lời và thực hiện đủ sách lược: “Trong chính trị không có kẻ thù vĩnh viễn chỉ có lợi ích (quốc gia của mỗi bên) là không thay đổi.. Và cuối cùng, nhân vật tên gọi Nguyển Tất Thành, Nguyễn Sinh Côn, Linov, Thầu Chín, Lão Vương,  Hồ Quang, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh và những kẻ phụ tá, Trường Chinh, Lê Duẩn, Võ Giáp, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ… cùng một tập thể gồm những cá nhân thuộc tổ chức đảng cộng sản suy nghĩ, hành động theo chỉ đạo của tổ chức cộng sản quốc tế, cụ thể những nghị quyết xuất phát từ Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh.

Cũng cần nhắc lại sự kiện, được sự đồng ý của Quốc Tế Cộng Sản, Tháng 12, 1945, Hồ Chí Minh giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương, tức tiền thân của đảng cộng sản VN. Đồng thời tuyên bố kết thúc tờ báo đầu tiên của đảng, báo Cờ Giải Phóng. Tiếp theo, đảng (đã rút vào bí mật) cho ra báo Sự Thật, tiếp là Nhân Dân để thay thế. Đây là tờ báo mà Trần Đĩnh hãnh diện kể lại là một trong ba người biên tập đầu tiên, lúc mới qua tuổi 20 (TĐ sinh năm 1930). Mối hãnh diện mà nay viết lại sau hơn nửa thế kỷ vẫn còn nguyên cảm xúc “..Cái gì còn lại của bài học Tổng bí thư (Trường Chinh) trực tiếp buổi ngu ngơ nhập môn… Tinh thần được nhìn, phê phán, xây dựng y như Tổng bí thư “ (ĐC, trg 23).

Báo Nhân Dân với ba thành viên cốt cán đầu tiên gồm Trường Chinh, Hoàng Tùng, Trần Đĩnh còn có một cây bút ẩn danh khác.. “Có lẽ để phối hợp với bài báo của tôi (TĐ), CB (bí danh của Bác Hồ) gởi đến bài “Địa chủ ác ghê” có nội dung: Thánh hiền dạy rằng: “Vi phú bất nhân”. Ai cũng biết rằng địac chủ thì ác: như bóc lột nhân dân, tô cao lãi nặng, chây lười thuế khoa –thế thôi. Nào ngờ có bọn địa chủ giết người không nháy mắt. Đây là một thí dụ: Mụ địa chủ Cát-Hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã kể các tội cụ thể và con số cụ thể (ĐC, trg 85). Trần Đĩnh đã kể lại chính xác hành vi, bút phê, chữ ký của HCM khi quyết định giết bà Nguyễn Thị Năm (Cát-Hanh-Long), là người chủ gia đình đã đón bản thân HCM và đám cán bộ trung ương Việt Minh cộng sản về trú ngụ tại nhà bà ở Hà Nội trong những ngày tháng 8, tháng 9, 1945 trước khi Hồ khai sinh nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày 2 Tháng 9, 1945.

Bà Nguyễn Thị Năm không phải “được chết oan” một cách yên lành nhưng với cảnh kinh hoàng qua lời kể của Đĩnh.. “Khi du kích đến đưa bà đi, bà ta đã cảm thấy như có sự gì nên cứ van lạy “các anh làm gì thì bảo em trước để em còn tụng kinh..” Bà ta vừa quay người thì mấy loạt đạn tiểu liê nổ sát lưng.. Mua áo áo quan được thì không cho bà ta vào lọt. Du kích mấy người bèn đặt bà ta lên miện cổ áo quan rồi nhảy lên vừa giẫm vừa hô: “chết rồi còn ngoan cố này..” Nghe xương kêu răng rắc.. Cuối cùng bà ta cũng vào lọt, nằm vẹo vọ như con rối vậy..” (ĐC, trg 86). Bà Nguyễn Thị Năm không bị thanh toán một mình, con bà.. “Chính Ủy Công, Trung đoàn pháo 105 ly đang học ở Côn Minh, Trung Quốc (Bài báo trên của CB (bác Hồ) có nhắc đến trường hợp Chính Ủy Công) bị điệu về cùng mẹ chịu đấu tố, nhưng “nghe nói” không được chứng kiến vụ chôn cất mẹ (Theo cách man rợ kể trên –pnn)” (ĐC trg 86). Sợ rằng viết như thế chưa trình bày đủ khả năng/quyền giết người của HCM, Trần Đĩnh viết rõ hơn.. ”Sở dĩ bác không dự đấu là vì giữ bí mật, ngại Đồng Bẩm cách Hà Nội vài chục cây số đường chim bay, Pháp có thể nhảy dù xuống đó. Cụ Hồ bịt râu đến dự một buổi và Trường Chinh thì đeo kính râm suốt”. (ĐC, trg 84) 

              Giết bà Nguyễn Thị Năm, (Ân nhân lớn của đảng nhà nước cộng sản khi đang trong hoạt động bí mật) không phải chỉ do hành vi đơn lẻ của một đội cải cách ruộng đất, nhưng là một sách lược chung được chỉ đạo nhất quán từ quyền giết người của HCM.. “Tôi (TĐ) đọc lại danh sách những người bị tuyên án tử hình do các đoàn ủy thí điểm giảm tô trong Thanh-Nghệ gửi lên Cụ Hồ đề duyệt ân xá. Mỗi bản gồm tên bảy tám con người khốn khổ” (ĐC, trg 90). Nhưng HCM thật ra cũng chỉ là kẻ thi hành vì: “Hoàng Tùng (Biên tập/Tổng biên tập Nhân Dân (1951-1982); Ủy viên BCH/TUĐ (1976-82) -pnn) hồi ký: “.Mùa hè năm 1952 Mao Trạch Đông và Stalin gọi Bác sang, nhất định bắt phải cải cách ruộng đất. Sau thấy không thể từ chối được nữa Bác mới quyết định phải thực hiện… Họ muốn qua cải cách ruộng đất để “chỉnh đốn” lại Đảng ta. Thời gian từ lúc tiến hành cải cách ruộng đất đến lúc dừng là 3 năm” (Trích đăng từ hối ký Hoàng Tùng “Vài chuyện về Bác Hồ với Trung quốc –Pnn). “Trung quốc đã rắp tâm đưa đảng cộng sản VN vào qũy đạo của Trung quốc như bóng với hình” (ĐC, trg 95).

Cuối cùng, sợ rằng viết rõ như trên sẽ làm sứt mẻ đến “uy tín, đạo đức của bác Hồ”, Trần Đĩnh biện hộ mập mờ quanh quẩn: “Trong hồi ký nói về mười nỗi buồn của Bác Hồ, viết bác không tán thành đấu Nguyễn Thị Năm” (ĐC, 85).

Đến đây chúng ta có thể kết luận không sợ sai lầm: Chính Hồ Chí Minh chứ không ai khác là tác nhân xây dựng/lãnh đạo/điều hành toàn diện các kế hoạch của đảng cộng sản VN từ ngày thành hình 1930 qua các giai đoạn cao trào cũng như thoái trào của tổ chức chính trị bạo lực nầy. Thế nên những giọt nước mắt của HCM trong lần khóc lóc nhận lỗi trước dân chúng miền Bắc vào ngày 18 tháng 8 năm 1956 không đủ đề xóa mờ tội ác đối với những người chỉ sở hữu 0,65 hécta đất!  Hitler, Himmler thậm chí đến Rudolf Höss, chỉ huy trưởng trại hành quyết Auschwitz không hề bóp cò súng hay bấm nút lò hơi ngạt để giết một ai, nhưng đích thực là những thủ phạm tội ác diệt chủng 6 triệu người Do Thái. Cũng thế, Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn.. tất cả tập đoàn bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam là thủ phạm lần tàn sát tập thể dân chúng Việt Nam một cách có hệ thống kể từ ngày đảng cộng sản thành lập. Qúa trình tàn sát được thực hiện qua những cao điểm: Cải cách ruộng đất 1953-1956 ở Miền Bắc; Mậu Thân Huế, 1968; Đại Lộ Kinh Hoàng, Quảng Trị 1972.. Và mỗi thước đất, mỗi làng xóm, thị trấn, thành phố của miền Nam dài theo chiến dịch Hồ Chí Minh khởi đi từ 10 tháng 3, 1975 với cuộc tấn công Ban Mê Thuộc. “Tội Ác-Đảng Cộng Sản” không ngừng lại tại Ngày 30 Tháng Tư, sau 1975 tiếp tục với 600.000 người Việt chết trên đường vượt biên, vượt biển bởi kế hoạch “công an tổ chức vượt biên/cộng an bán bãi vượt biên/công an tàn sát vượt biên”. Tội ác diệt chủng nầy được thực hiện bởi một “sợi chỉ hồng xuyên suốt”: Hồ Chí Minh.

Tất cả tội ác ngày trước và hôm nay chỉ là hệ quả tất yếu sau lần đoạt chiếm Miền Nam với cuộc xâm lăng ngụy danh chiến tranh giải phóng (1960-1975). Cuộc chiến mà Trần Đĩnh đã tích cực hãnh diện dự phần nay cố tâm làm nhẹ tội đối với Hồ Chí Minh, Trường Chinh – Những người Trần Đĩnh vẫn còn “nặng tình” khi viết Đèn Cù gần 40 năm sau lần đoạt chiếm miền Nam cho dẫu có lúc ông nói thật: “Bởi vì gần suốt cuộc đời viết, lách tôi đã tự nguyện làm thủ phạm tàn phá trước hết vào chính ngay mình”.

 Trần Đĩnh nói thật nhưng chưa đủ. Phải nói như Nguyễn Chí Thiện: “Tôi biết nó! Thằng nói câu nói đó! Tôi biết nó! Đồng bào miền Bắc biết nó! Trần Đĩnh không nói lên lời “PHẢI NÓI” nầy, y ta đã khôn khéo chạy tội cho Hồ: “Luận điểm của Lê Duẩn.. Cho là cụ Hồ đứt gánh giữa đường! Ở Đại Hội 3 (9/1960- Pnn) để những người gắn bó với Nam Bộ, Trung Bộ như Lê Duẩn, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Hùng..v.v  vào Bộ Chính Trị đông là Cụ (luôn được TĐ viết hoa – Pnn) muốn bày tỏ ý gửi gắm công cuộc giải phóng miền Nam cho họ!! Tóm lại theo ý Đĩnh: Ông Cụ nhất quán về quan điểm (Quan điểm “Chung Sống Hòa Bình của Khruschev/Không gây chiến tranh miền Nam (?!) – pnn) (ĐC, Trg 253)

 

Bắt đầu viết năm từ 1990 để năm 2014 có được những giòng chữ “khôn ngoan/sáng suốt/thành thực” như trên kể ra quá muộn và quá nhẹ đối với “Tội Diệt Chủng/Hồ Chí Minh – Tội ác cũng thấm máu chính ông già vợ của Trần Đĩnh và bao nhiêu nước mắt, mạng sống từ thân tộc, đồng bào của “Nhà văn gọi là Trần Đĩnh”.

Ba – Mao “nhều”/Mao “ít”..

Với lối hành văn của một người viết báo, viết sách chuyên nghiệp từ 1950, Trần Đĩnh dựng nên thế giới bát nháo xoay vòng như cây Đèn Cù của xã hội tệ hại, ác độc từ miền Bắc nói chung, của tập đoàn cầm quyền, giới viết văn làm báo Hà Nội trước 1975, của cả nước sau 1975. Tuy nhiên khác hơn đám văn công máu me được khai sinh từ Hội Nhà Văn Hà Nội/Hội Nhà Văn Việt Nam sau 1975, Trần Đĩnh cao hơn vì ông được dẫn dắt vào nghề viết bởi Tổng Bí Thư Trường Chinh, Đặng Xuân Khu, tay lý luận hàng đầu của đảng cộng sản Việt Nam. Tổng bí thư TC “giáo dục” anh thanh niên 21 tuổi Trần Đĩnh: “Làm báo phải phát hiện vấn đề. Đề xuất ý kiến.. Từ buổi đầu “ngu ngơ” (chữ của TĐ), ông tiến nhanh trên nghiệp vụ, trở nên là người thân cận (thân cận nhất) của tập thể nhân sự cầm đầu đảng cộng sản. Ông được chứng kiến và nghe kể trực tiếp từ người trong cuộc về những chuyện “bí ẩn của Bác”: “Một dạo Phan Kế An ngày ngày đến vẽ Cụ Hồ. Một chiều về sớm hơn, An nói: À cái P.M. (Phương Mai) tự nhiên mang ba lô chăn chiếu đến chỗ Ông Cụ, tớ được xua về sớm..” (ĐC trg 30). Trần Đĩnh còn đem chuyện riêng tư ăn nằm với phụ nữ của Hồ Chí Minh ra kể lại công khai để bảo đảm tính cách thân thích/chính xác đối với lãnh tụ “..Ông Bác chỉ tìm nạ dòng. “Sao lại thế”. Thấy Bác dại chúng tôi kêu lên”. Thì được (Bác) giải thích. “Thế là Bác khôn. Nạ dòng thì đỡ rầy rà hậu sự” (ĐC Trg32) .

 Ngoài HCM, Trần Đĩnh gắn thêm vào Đèn Cù những con rối khác: Trước tiên là Tố Hữu, đệ nhất văn công của chế độ Hà Nội. Đây là nhân sự đã đạt đến đỉnh cao chức vụ do đã viết những vần thơ rừng rực “thi khí(Mượn chữ “văn khí” từ Ngô Nhân Dụng viết trên Báo Người Việt khi tán tụng Trần Đĩnh – ĐQAT chuyển tiếp qua NgườiViệtBook) nên đã lên chức phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (phó thủ tướng) đảm trách nông nghiệp khiến dẫn đến tình cảnh cả nước gần chết đói sau 1975 khi đã tịch thu hết lúa gạo miền Nam trả nợ cho Tàu.

Năm 1953, Tố Hữu khi chưa là “Mao nhều” đã có màn kêu khóc: “Ông Stalin ơi! Ông Stalin ơi! Thương cha, thương mẹ, thương chồng. Thương mình thương một. Thương ông thương mười! “ để ngợi ca tên sát nhân thấm máu 20 triệu dân Nga và các sắc dân thuộc Liên Bang Sô Viết trong 29 năm cầm quyền ( 1924-1953). Tố Hữu không khóc một mình, y có “đồng chí/bác vĩ đại” đồng tế: Tố Hữu bước lên sân khấu, cầm đè lên hai tay bưng một vật gì ấp vào ngực.. Tố Hữu mới từ từ quay lại nước mắt chan hòa trên mặt từ lúc nào. Trên phông màn đò hiện nên chân dung đại nguyên soái Stalin.. Trước mặt tôi (TĐ). Cụ Hồ nức nở. Không ngừng đưa khăn tay màu trắng lên lau nước mắt. Và nước mắt thì cứ chảy trên hai má Cụ đỏ bóng, vì khóc, vì xúc động. (ĐC, trg 73-74).

Mấy năm sau, “thi khí” của Tố Hữu (khi đã bắt đầu thành Mao “nhều”) vượt biên giới Xô Viết, chuyển qua Trung cộng với: “Mao Trạch Đông! Mao Trạch Đông! Tôi đã thấy: Dáng người cao lồng lộng. Đẹp như một ngọn cờ hồng. Trên mặt người. Mặt đất mênh mông.” Hoặc: “Bác Mao tuy ở rất xa. Bác Hổ ta đó ấy là Bác Mao”. Hay: “Bên đây biên giới là nhà. Bên kia biên giới cũng là quê hương”(ĐC, trg 233). Thơ như thế quả thật rất xứng đáng với thành tích giết 50 triệu người Hoa (Có thể cao hơn nữa, tài liệu của nhà nghiên cứu Trung Hoa, Stuart Schram nêu ra con số 70 triệu –Pnn).

Kết Luận: Đèn Cù – Bi kịch của một cọng lông trong bãi máu!

Từ khi khởi đầu câu chuyện/Cũng là thời điểm (Thập niên 50) Trần Đĩnh bắt đầu viết báo Nhân Dân do dẫn dắt của Tổng Bí thư Trường Chinh cho đến năm 2014 nầy/Năm phát hành cuốn sách) vẫn luôn luôn là một Người Cộng Sản/Người Cộng Sản Phản Tỉnh (nếu muốn nói hợp thời hơn) – Tức là nhân tố của tập thể /tổ chức chính trị bạo lực gọi là Đảng Cộng Sản Việt Nam tại Hà Nội – Tác nhân chính đã gây nên tai họa vô tận/không cùng/không thể chấm dứt/không cách giải quyết của toàn bộ Việt Nam (Không phân biệt Cộng Hòa/Cộng Sản; Bắc/Nam; Trước/Sau 1945; 1954; 1968; 1975 ). Người viết minh chứng điều xác quyết nầy.

Từ tiền đề kể trên, Trần Đĩnh viết trong Đèn Cù.. “Cái đêm (1968-Pnn) mà cả miền Nam chìm trong khói lửa của Tổng tiến công ấy, Hồ Chí Minh đang ở Bắc Kinh “trong căn phòng vắng” chỉ có ông và thư ký Vũ Kỳ, Bác mĩm cười nghe một em bé hát “Bé né bồng bông..” và lời chúc Tết của chính mình (?!): “Xuân nầy hơn hẳn mấy xuân qua/Thắng lợi tin vui khắp mọi nhà/Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ/Tiến lên toàn thắng ắt về ta” (Huy Đức Ibid; trg 158).

Từ những chi tiết “cần thiết/quan trọng” như trên buộc chúng ta phải thấy những chữ nghĩa đầy “văn khí-Lời tán tụng/Ngô Nhân Dụng/NV” từ Trần Đĩnh chỉ cốt viết nên những trò đấu đá ấm ớ, vớ vẫn, vụn vặt giữa những cá nhân hai phe “Mao nhều/Mao (không) nhều” qua câu chuyện tục tĩu điễn hình: ..Một sáng vào Việt-Xô khám bệnh, tôi (TĐ) gặp Tô Hoài nằm chữa thần kinh tim. Anh cho hay một tên tuổi văn nghệ vừa bị cô nhân tình nộp Tố Hữu bức thư cha nầy gửi cho cô.. Vừa lúc ấy Chế Lan Viên đi vào. Anh bảo tôi: Nầy Trần Đĩnh mình bị cái nầy lạ lắm. Ngọt với mặn bây giờ đếch phân biệt được. Tô Hoài tưng tửng: Ăn phải một thìa cứt mà không phân biệt thì phải chữa thật! (ĐC, trg 455)

Đấn đây, chúng ta có thể đóng lại những “chữ nghĩa/văn khí” của hơn 1000 trang sách Đèn Cù diễn tả về những vụ việc/ngôn ngữ/con người tầm phào bát nháo nơi Hà Nội trước 1975 như vừa kể ra tại đây để nêu lên kết luận: Đây là Vấn Đề Giả mà Trần Đĩnh mất đến 24 năm để viết nên – Bi Kịch Việt Nam Không Phải Là Vậy.

 Đây, Bi Kịch Việt Nam với một trong những thủ phạm cần phải gọi đích danh: Tổng Bí Tư Lê Duẩn với cái đầu được tán tụng là có đến “200 bougies/hai trăm bóng đèn”. Nhân sự nầy với cái đầu “200 bougie” (nhưng) không hiểu Marx là cái gì hết nên mới xẩy ra hoạt cảnh bi hài.. “Duẩn nói hết (về Marx), Bình (NĐBình thư ký của Duẩn) lên tiếng: Tổng bí thư đã nói xong, xin giáo sư Thảo góp ý kiến. Ngơ ngác một lúc, Thảo (Trần Đức Thảo, giáo sư tiến sĩ đại học Sorbone Pháp, năm 1951 xin “cụ Hồ về nước phục vụ kháng chiến”. Sau 1956 do dính líu với vụ Nhân Văn Giai Phẩm, tuy không bị tù nhưng được giao công tác cho ra nông trường chăn bò –Pnn). Thảo nói: Tôi không hiểu (TBT Duẩn-Pnn) nói gì cả! Thảo vừa dứt lời, thoắt một cái rất nhanh, Duẩn đã nhào đến đằng sau lưng anh, quàng hai tay vào ngực anh rồi liên tiếp xốc lên, dội xuống anh mấy bận.. Bị Duẩn dộng mình xuống đất nhưng Thảo vẫn không chừa thói của kẻ ỉ mình có học/đại trí thức. Thảo phân giải cùng Đĩnh: “Ở ta chỉ có Trường Chinh hiểu được chủ nghĩa Marx chứ Duẩn thì không. Thảo lắc đầu phản đối quần quậy (ĐC, trg 436).

Chúng ta tiếp xem xét “cái đầu 200 bougies” của tổng bí thư Duẩn đã làm gì với thảm kịch Việt Nam.  Với cái đầu “cực kỳ” nầy, Duẩn chỉ đạo: “Kìa, không có thì in ra! In ra! Không sợ lạm phát! Tư bản đế quốc in tiền mới sợ lạm phát chứ ta, chuyên thì sao lại là lạm phát mà sợ (ĐC, trg 187) Và chuyên chính vô sản là gì? Duẩn ngắn gọn vô cùng: “Người ta lầm Marx đã đề ra đấu tranh giai cấp. Không, nhiều người đã nói cái nầy trước Marx rồi. Vậy phát kiến vĩ đại của Marx là gì? Rồi Duẩn cười cười đưa cạnh bàn tay lên ngang cổ nói: Là như Jacobin thời Đại Cách Mạng Pháp – Giết! Thủ tiêu! Bạo lực! (ĐC 187) Có điều trong suốt cuốn sách, Đĩnh vẫn không dám gọi Duẩn là “Mao nhều” dẫu Duẩn đã chết từ 1986.

Tóm lại, đoạn đường dài đẫm máu toàn Dân Tộc Việt được tổ chức/chỉ đạo/điều hành bởi: Nguyễn Sinh Côn, Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Linov, Vương Đông Hải, Hồ Quang, Hồ Chí Minh.. được thi hành, thực hiện với Trường Chinh, Võ (Nguyên) Giáp, Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Hùng, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Văn Linh.. Danh sách sẽ rất dài nếu muốn kể đủ. Những quân cờ tay em chạy quanh cái Đèn Cù nơi Hà Nội gần nửa thế kỷ nay mới được Trần Đĩnh thắp lên quá đổi muộn màng – Và NgườiViệtBook với DQAT hoàn thành nơi hải ngoại, ở Bolsa, Nam Cali.

Kết Từ: Lá thư thay lời kết.

Ngày 17-9-2014.

T/g anh Phan Nhật Nam,

Hôm nay tôi mới được đọc phần kết bài viết của anh. Theo tôi hiểu được thì anh muốn nêu lên vấn đề: Cốt lõi của cuốn Đèn Cù chỉ là những chuyện đấu đá giữa mấy phe trong đám CS lãnh đạo, mà chuyện chính chúng ta phải nhìn cho đúng , đó là : Bi Kịch Việt Nam không phải là vậy.

Đúng quá! Và đó là lý do tại sao tôi hậm hực với cuốn này sau khi đọc nó mới chỉ 3 chương (và càng đọc càng thấy mình (và anh) có lý!) Vâng, nội dung cuốn sách chỉ toát lên hình ảnh bát nháo ví như cái Đèn Cù, còn thảm kịch VN ròng rã trên 3/4 thế kỷ, thế mà một người (TĐ-Pnn) có mặt từ đầu, lại thân cận với toàn chóp bu CS đã không đi vào cốt lõi của những tấm thảm kịch ấy.

Tôi xin trích lại của anh vài đoạn dưới đây trong đọan kết mà tôi rất thích:

.. “Tổng Bí Tư Lê Duẩn với cái đầu được tán tụng là có đến “200 bougies… Từ những chi tiết gọi là “cần thiết/quan trọng” nầy buộc chúng ta phải thấy những chữ nghĩa đầy “văn khí-Lời tán/Ngô Nhân Dụng/NV” từ Trần Đĩnh chỉ cốt viết nên những trò đấu đá ấm ớ, vớ vẫn giữa hai phe “Mao nhều/Mao (không) nhều” ở Hà Nội..  Giá mà Trần Đĩnh mất đến 24 năm để viết nên Bi Kịch Việt Nam!!

Lá thư thứ Hai, 18/9/1914

Kính anh Phan Nhật Nam,

Hôm qua (thứ Tư 17- 9-2014), tôi đã nhận được bài viết của anh qua Nhã Lan. Vội vã đọc ngay trên screen và tôi rất vui mừng khi nghĩ rằng anh cũng đồng quan điểm với tôi về cuốn Đèn Cù.

.. Nhưng anh cũng đúng khi cho rằng chúng nó (CS Hà Nội-Pnn) chỉ là tay sai của CS Quốc tế. Và chỉ cần như thế thôi, đất nước mình cũng đã điêu tàn dưới tay bọn chúng rồi..

Xin kể với anh vài chi tiết thêm về cuốn sách này:

..Tôi đã tự hỏi sao chúng ta lại cứ phải bươi cái đống rác (Người, đảng CS-Pnn) này ra mà ngửi, trong khi chính những bọn này đã là thủ phạm gây nên biết bao nhiêu là tội ác tầy trời đối với toàn dân tộc trên tiến trình lịch sử cận đại ròng rã suốt bao nhiêu năm.

Cũng tại thời điểm khi tôi mới đọc hết 3 chương đầu, thì ĐQAT có gọi điện cho tôi, hỏi ý kiến về bài viết của tôi.. Tôi đã trả lời Thái y hệt như tôi đã trình bầy ở trên. Và có thêm rằng: Cái sở thích (của người đọc-Pnn) ưa nghe những chuyện “hậu trường” (và thiếu ý thức chính trị) tất sẽ làm cho nhiều người háo hức tìm mua sách.

Lá thư có đoạn:

..Tuần trước, ĐQAT có phát biểu về cuốn này nhân danh nhà xuất bản NV, trên đài RFA như sau 1) ….những độc giả mua quyển sách đều thích thú Đèn Cù ở hai điểm chính. Điểm đầu tiên là về những sự kiện mà tác giả Trần Đĩnh đưa ra trong quyển này. Tưởng sự kiện gì mới mẻ, quan trọng, ông Thái chỉ nêu được trường hợp bà Cát Hanh Long chết thảm trong cuộc CCRĐ và HCM là kẻ chủ mưu vì đã viết bài tố địa chủ

2) Thái nói tiếp: Một sự kiện nữa là từ trước tới giờ người ta hay nói ông Lê Duẫn, Tổng bí thư đảng cộng sản Việtnam là người kiên quyết chống Trung quốc qua cuộc chiến tranh 1979. Nhưng theo tài liệu của Trần Đĩnh thì người ta thấy từ những năm 1950 thì Lê Duẫn là người hết lòng theo Trung quốc, ông Lê Duẫn có viết rằng Mao Trạch Đông là Lê Nin của phương Đông. Ơ hay! Lê Duẩn dù theo Nga hay theo Tầu thì mặc bu nó (và điều đó cũng đã làm chết cha cả cái dân tộc này rồi)

3) Theo ông Thái là những nhà văn, những người cầm bút tại hải ngoại  mà chúng tôi (DQAT) tiếp xúc ở quận Cam, miền Nam California đều thán phục TĐ. Không biết ông Thái tiếp xúc với những ai cầm bút ở Quận Cam, Nam California để nghe họ thán phục văn tài của Trần Đĩnh! Nhưng riêng cá nhân tôi (Nhật Tiến-Pnn) thì trong Đèn Cù đầy rẫy những câu văn bất thành cú, rất nhiều câu cụt lủn, sai văn phạm khiến như người đọc nhá phải nhiều hột sạn đến phải nhíu mày, nhăn mặt.

 “Đấy là lối hành văn tuyên truyền chính trị dùng để viết báo Nhân Dân cơ quan ngôn luận trung ương đảng cộng sản; lối viết sách hô hào chiến đấu gọi là chống thực dân Pháp trước 1954 (cuốn Bất Khuất/Trần Đỉnh-Nhận định của Pnn mà Nhật Tiến trích dẫn. 

4) Sau cùng, cũng trong bài phát biểu trên, ông Thái kết luận rằng: “Theo những người đọc trong nước mà chúng tôi (ĐQAT-Pnn) biết được qua mạng xã hội và blog thì cuốn Đèn Cù là một tư liệu quan trọng để cho người dân Việtnam không còn một chút mơ hồ gì nữa về đảng cộng sản cũng như chính sách của họ đối với Trung quốc.”

Ôi chao, thế những vụ lấn chiếm Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan, đất Tục Lãm cũng như bản đồ hình Lưỡi Bò và những vụ đâm chìm tầu đánh cá của ngư phủ VN là chưa đủ thức tỉnh mọi người trong nước hay sao mà phải chờ cuốn Đèn Cù in ra?!!

Cuối cùng  Niên Trưởng Nhật Tiến kết luận:

Tôi thật tình không hiểu điều gì đã làm cho người bạn trẻ mà tôi hằng quý mến (và đã từng cộng tác với nhau lâu năm ở tờ Việt Tide ấn bản cũ) nay đã thay đổi nhận thức để ăn nói lấy được đến như thế.

Thưa anh Phan Nhật Nam,

Tôi thấy anh đã sử dụng một từ ngữ tuy ngắn gọn mà rất xác đáng cho toàn bộ

cuốn sách. Sự Thật cuối cùng đến quá trễ!

Đúng vậy! Vì thế chẳng nên cung nghinh nó một cách quá đáng.

Nhật Tiến- Én Nhanh Nhẹn.

 PS: Lá thứ thứ Hai viết sau Lá Thư Thứ nhất một ngày, chỉ rõ tấm lòng nồng nhiệt của Một Huynh Trưởng Hướng Đạo luôn “Sắp Sẵn-Lên Đường” cùng với huynh đệ của mình trong cuộc chiến đấu vì Tính Thiện-Sự Thật. Cuộc chiến mà một Hướng Đạo Sinh không thể bỏ dỡ. Cám Ơn-Bắt Tay Trái Trưởng Én Nhanh Nhẹn.

 Người Lính-Hướng Đạo Sinh Phan Nhật Nam,

Hổ Duy Tân-Đạo An Hải Đà Nẵng (1956… ) 

30 tháng 4/ 47 Năm (1975-2022)

Nước Mất-Nhà Tan