NHỮNG NGƯỜI TÙ CUỐI CÙNG (6) – Phạm Gia Đại

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

Phần XX: Sài Gòn Ngày Tháng Cuối 

(Lời Tác Giả: Những năm trước, tác gỉa có đăng một số bài trong Hồi Ký về NNTCC trên báo chí tại đây hay trên DĐ thân hữu.

Kể từ tháng Giêng năm 2010, tác giả đã lần lượt cho đăng liên tục Hồi Ký này từ Phần I. Vì thế tác giả phải hiệu đính và bổ túc lại một số bài trước khi cho đăng trên các DĐ hiện nay; cho nên “Chuyến Tầu Xuôi Phương Nam” được chuyển thành “Về Miền Nắng Ấm”; “Yêu Người Dương Thế” thành “Sợi Dây Ngũ Sắc”, “Anh Hùng Yểu Tử” thành “Người Tù Bất Khuất”, “Mầu Áo Hoa Rừng” thành “Người Tù Áo Hoa”.

Vì có một số đông độc giả chưa đọc nên tác giả cho đăng lại các phần này theo thứ tự trong Hồi Ký dưới dạng bổ túc.

Một số độc giả, đã đọc những bài này được đăng năm ngoái hay trong Blog của tác giả, có thể thấy một số tình tiết trùng hợp với các bài mới bổ túc này trong Hồi Ký. Xin cáo lỗi.

Kỳ Tới: “Ngày Trở Về” sẽ gồm nhiều Phần và là một chương then chốt lồng trong những điều lạ kỳ của thời gian những năm sau cùng trong trại giam của tác giả. Chưa hề được ghi lại. Mời đón xem.)

Trong suốt bao nhiêu năm nhưng tôi vẫn không sao quên được những ngày tháng cuối cùng của Sàigòn mà tôi đã sống.

Những ngày mà thành phố bất ngờ lâm trọng bệnh vào cơn hấp hối, nhưng vẫn cố chiến đấu đến hơi thở cuối cùng mới chịu buông xuôi hai tay.

Tôi cũng không thể nào quên nổi vì đâu mà cả chế độ của một quốc gia hùng mạnh như VNCH, lúc đó phát triển ngang hàng với Phi Luật Tân, Đại Hàn, hay Đài Loan, đã phút chốc bị tan tác như xác pháo.

Và vì đâu mà hầu như nguyên một chế độ theo chân nhau…vào tù trong bàng hoàng và đau thương.

Tôi theo Mẹ tôi leo lên trên lầu. Căn nhà số ba năm bẩy này có một lầu nhìn ra con đường Trương Minh Giảng. Tôi đẩy nhẹ cánh cửa sổ để có thể có được một cái nhìn khái quát những xáo trộn và ồn ào mà mười mấy năm nay tôi chưa từng bao giờ thấy xẩy ra trên đường phố này. Những khuôn mặt ngơ ngác của dân chúng, người

ôm giỏ người xách va li vừa đi vừa chạy.

Phía bên kia đường, một vài binh sĩ VNCH cũng đi lẫn vào dân trên đường họ về nhà hay đi đâu thì tôi cũng không biết được nữa. Nhìn dáng đi thẫn thờ của những người lính mà lòng tôi quặn đau khi nghĩ rằng anh tôi, Thiếu Tá tiểu đoàn trưởng của Sư Đoàn 5 BB QLVNCH ở Bình Dương bây giờ cũng bặt tin không biết ra sao.

Đầu óc tôi thường rất bén nhậy mà lúc đó cũng gần như tê liệt không nghĩ được phương kế gì.

Dương Văn Minh – (người vừa được đưa lên chức vụ Tổng Thống để thay thế cụ Trần Văn Hương, một nhà chí sĩ yêu nước nhưng đã bất lực trước thời cuộc) – vừa đọc thông điệp đầu hàng và kêu gọi mọi người buông súng.

Lúc đó khoảng hơn mười giờ sáng ngày 30-4-1975, giờ Sài Gòn.

Tôi đã đưa gia đình lên ở với Mẹ và các em từ hai ngày nay vì căn nhà tôi trong Phú Lâm tuy thuộc Quận Sáu nhưng không được an ninh cho lắm. Cứ tạm thời ra trung tâm thành phố để tránh các toán VC nằm vùng ở ngoại ô có thể xuất hiện bất ngờ trong hiện tình đất nước đang tranh tối tranh sáng như mấy ngày hôm nay.

Ngoài ra tôi cũng muốn ra ngoài Sàigòn trong những ngày rất là biến động về chính trị này để giữ liên lạc với các bạn đồng nghiệp trong lúc chờ đợi người Mỹ sẽ bốc đi cùng gia đình.

Đó là sáng ngày 28-4, sau khi người Mỹ đột ngột ngưng chương trình di tản bằng đường hàng không, cho nên mọi người ai cũng tìm đường ra đi trước khi quá trễ.

Có người bạn rủ vào khu vực Hải Quân trên Bến Bạch Đằng xem sao nhưng tôi lại không đi, vì tôi cố chờ đợi để đi theo chương trình ấn định của Tòa Đại Sứ Mỹ trong buổi họp cuối cùng.

Đi theo chương trình này, tôi sẽ đem theo không những gia đình mình mà cả Mẹ và các em nữa, danh sách này tôi đã nộp cho Tòa Đại Sứ Mỹ xong rồi.

Theo tinh thần của buổi họp cuối cùng của Đoàn Liên Lạc HK mà hầu hết các nhân viên người Mỹ, Việt và Á Châu trong đó có tôi đều tham dự thì người Mỹ rất có quyết tâm để đưa đi tất cả những nhân viên đang làm việc cho Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn và gia đình của họ, nhưng chương trình nêu ra vài điểm đặc biệt về thứ tự ưu tiên:

Ưu Tiên Một:

Dành cho các nhân viên đã lánh nạn Cộng Sản chạy từ sứ quán Vùng I và Vùng II về Sàigòn sẽ được ra đi trước với gia đình họ.

Ưu Tiên Hai (Non-Essential):

Các nhân viên trong Tòa Đại Sứ kể cả người Mỹ lẫn người Việt được chia ra làm hai loại:

“Không Thiết Yếu” (“Non-Essential”) và “Thiết Yếu” (“Essential”).

*Theo sự sắp xếp thì những nhân viên “Không Thiết Yếu” được ra đi trước vì nhiệm vụ của họ không còn cần thiết nữa tại đây.

*Các nhân viên “Thiết Yếu” là những người đang sát cánh với các cơ quan Phủ Bộ của chính phủ VNCH thì phải ở lại tiếp tục yểm trợ các Phủ Bộ này cho đến giờ phút chót để tránh cho chính phủ VNCH có thể sụp đổ sớm nếu tất cả sự yểm trợ của người Mỹ rút đi cùng một lúc.

-Tòa Đại Sứ Mỹ sẽ quyết định lúc nào là thời điểm -có thể trong tình hình dầu sôi lửa bỏng thì các nhân viên Việt-Mỹ thuộc dạng “Thiết Yếu” mới được bốc đi bằng trực thăng cùng gia đình.

*Thuyết trình viên một viên chức cao cấp người Mỹ bảo đảm là sẽ bốc hết tất cả mọi người còn lại và lập đi lập lại lời cam kết sẽ bốc đi tất cả các nhân viên thuộc dạng “Thiết Yếu”.

Plan B: Nếu cần thiết thì 5 ngàn TQLC HK từ Đệ Thất Hạm Đội sẽ đổ bộ vào Vũng Tầu và thiết lập một con đường bộ nối liền SàiGòn ra Vũng Tầu – một con đường “Thép” an toàn cho việc di tản không bị gián đoạn.

*Chương trình di tản này dự trù sẽ kết thúc vào ngày 15-5-1975.

-Ngoài ra cần nói rõ thêm là trong các ưu tiên hàng đầu thì phải nói đến Văn Phòng Tùy Viên Quân Sự D.A.O của Mỹ đã bắt đầu chương trình di tản trước tiên cho nhân viên của họ ra khỏi Sàigòn từ khoảng tháng 2-1975; và nhờ đó mà chị dâu tôi và hai cháu đã đoàn tụ với anh thứ Ba HQ của tôi đang tu nghiệp tại Rhode Island bên Mỹ vào tháng 3-75.

Mấy lần anh quá sốt ruột về tình hình sẽ mất Sài Gòn nên định bỏ về nước. Tôi đã phải gửi điện khẩn qua hệ thống của Tòa Đại Sứ để khuyên anh bỏ ý định mạo hiểm về nước của anh, vì chị ấy và hai cháu sẽ qua.

Trong bốn anh em trai, gia đình anh là gia đình hạnh phúc duy nhất đã đoàn tụ trên phần đất Tự Do. Ba anh em còn lại đều… vô tù.

Sau khi nghe buổi thuyết trình về kế hoạch di tản ngày 27-4 tại Tòa Đại Sứ Mỹ, chúng tôi trong Đoàn Liên Lạc HK đều tin tưởng vào kế hoạch này và tuân thủ theo đúng lệnh họp và ở lại đến giờ phút cuối cùng chờ đợi.

Ngày 28-4, tôi chở vợ con trên chiếc xe Renault 4CV ra nhà Mẹ tôi ở Trương Minh Giảng và sau một ngày chờ đợi không có tin tức gì từ phía các cố vấn Mỹ, tôi quyết định vào văn phòng của Đoàn Liên Lạc HK trong Phủ Đặc Ủy TƯTB xem sao.

Lúc đó là sáng ngày 29-4, tôi lái xe vào Phủ Đặc Ủy lần chót, mấy anh an ninh mở cổng cho tôi vào và nhìn tôi với cặp mắt hết sức ngạc nhiên:

-Ủa! ông mà còn đây thì làm sao tụi tôi đi được?”

Tôi vẫy tay chào các anh rồi lái xe vào cổng:

-“Tôi đang liên lạc chưa được. Có gì sẽ thông báo ngay cho các anh biết để cùng ra đi.”

Tôi đậu xe vào khu vực sân bên trong rồi chạy lên lầu mở cửa vào văn phòng và dùng điện thoại liên lạc ngay vào tòa đại sứ nhưng tất cả các đường giây đều bận hoặc điện thoại reo mà không có ai trả lời.

Trong lòng tôi nóng như lửa đốt và có linh tính không hay vì mắt bên phải máy liên tục. Mẹ tôi vẫn bảo là máy mắt bên trái là may mắn hay có tiền, nhưng bây giờ toàn máy mắt phải. Tôi vừa quay máy gọi vừa mong phía bên kia đầu giây có ai đó làm ơn nhắc dùm cái điện thoại lên nhưng vẫn vô vọng.

Kể từ hôm 27-4 sau buổi họp cuối cùng về tình hình di tản cho Đoàn Liên Lạc HK thì các cố vấn Mỹ cũng biệt tăm và bây giờ hai ngày sau cũng không biết họ giờ ở đâu.

Tôi cố gắng và kiên nhẫn gọi nhiều lần trong suốt một tiếng đồng hồ với hy vọng nghe được tiếng nói của bất kỳ tay cố vấn nào trong Đoàn Liên Lạc này thì sẽ tìm ra được manh mối về điểm tập trung mới cho kế hoạch di tản sau khi phi trường Tân Sơn Nhất đã bất khả dụng nhưng mọi nỗ lực đều không có kết quả.

Có lẽ chỉ còn một ít đường giây đặc biệt nào trong Tòa Đại Sứ là còn hoạt động mà thôi, còn các đường giây khác đều bỏ trống.

Tôi ngồi đó nhìn lại văn phòng nơi mình đã làm việc năm năm trời với bao nhiêu là kỷ niệm rồi quyết định thủ tiêu hết các tài liệu. Một số giấy tờ không kịp thủ tiêu thì tôi bỏ vào trong thùng và đem xuống xe.

Khi bước ra khỏi văn phòng, tôi nhìn suốt dọc hành lang tất cả đều vắng lặng như tờ, nguyên dẫy này và dẫy bên cạnh nữa trước kia tấp nập người đi lại chạy lên xuống cầu thang thì bây giờ mình tôi đứng trên đây tựa vào lan can.

Dưới sân cũng không một bóng người, chỉ còn cây Mai Tứ Quí một mình bơ vơ giữa sân như tôi cô đơn đứng trên này.

Tôi quyết định lái xe trở về nhà Mẹ tôi để lại ngồi chờ tin nữa.

Gia đình vẫn luôn là nơi cho ta trú ẩn qua những cơn giông tố của cuộc đời. Lần này là một cơn giông bão khủng khiếp khổng lồ và đen tối nhất đang úp chụp lên miền Nam. Liệu gia đình có còn là nơi trú ẩn an toàn nữa không đây?

Dầu sao tôi vẫn phải trở về nhà, đồng hồ mới chỉ 11 giờ sáng ngày 29-4, vẫn còn chút hy vọng là những người bạn Mỹ sẽ còn nhớ đến chúng tôi để thông báo về địa điểm tập trung cho kế hoạch di tản mới.

Trên đường về, tôi thử tạt qua vài nơi mà các tay số vấn Mỹ vẫn thường lui tới làm việc bí mật gọi là các Nhà An Toàn nằm trên đường Hồng Thập Tự và Sương Nguyệt Ánh nhưng họ đều đã rút đi hết không còn một ai.

Buổi sáng ngày 29-4 ấy, sau khi không liên lạc được từ văn phòng làm việc, nếu tôi chạy xe thẳng vào Tòa Đại Sứ và tìm cách ở lại trong đó thì chắc chắn sẽ gập lại các cố vấn của Đoàn như Frank Rygalski, Vance Vincent, Jeffrey Ho, Paul hay Dick, và đêm 29-4 tôi đã leo lên nóc sứ quán vào trực thăng để bay ra Đệ Thất Hạm Đội an toàn rồi.

Nhưng không hiểu sao tôi lại không chạy thẳng vào tòa đại sứ để ở lại trong đó sáng ấy ? Một phần có lẽ vì không thể bỏ lại vợ và hai đứa con còn nhỏ dại, một phần tôi vẫn hy vọng là người Mỹ còn giữ kế hoạch bốc chúng tôi đi.

Thực tế đáng buồn là Tòa Đại Sứ HK chỉ bí mật ra lệnh cho các nhân viên người Mỹ gấp rút vào trong compound tức là trong sứ quán sáng ngày 29-4, mà không hề thông báo cho các nhân viên người Việt hay Á Châu.

Không có trực thăng nào bốc ai đi cả và các nhân viên người Việt hay gốc Á Châu thuộc Đoàn Liên Lạc HK của Tòa Đại Sứ Mỹ và hầu như toàn bộ nhân viên của Phủ Đặc Ủy TƯTB thuộc Phủ Tổng Thống (nơi mà Đoàn Liên Lạc HK yểm trợ), không ai biết địa điểm tập trung là ở đâu nữa ( cho nên tất cả sau đó đều gập nhau trong….. tù.)

Bây giờ lệnh đầu hàng đã loan đi trên làn sóng điện Saìgòn thì chúng tôi những nhân viên còn lại của Đoàn Liên Lạc KH trong đó có tôi lại càng thêm bôí rôí. Con đường ra đi đã tắc nghẹn một cách ngang xương và con đường ở lại thì tương lai mù mịt không biết về đâu.

Tình huống đã trở nên tuyệt vọng, nhiều tin loan tải đi rất nhanh; như là cả một hạm đội gần hai mươi bẩy chiếc tầu của HQVN đã ra khơi an toàn ngày hôm qua, rồi tin thiên hạ đang ùn ùn kéo nhau về miền Tây để sinh sống hay tiếp tục tìm đường di tản.

Tin tức khác nữa thì chúng ta sẽ bỏ Vùng III và lui về cố thủ tại Vùng IV vì Vùng IV Chiến Thuật là vựa thóc đủ sức nuôi quân chờ một giải pháp mới chứ chúng ta không chấp nhận đầu hàng dễ như vậy.

Hay sẽ  có một chính phủ liên hiệp và một giải pháp tốt hơn cho miền Nam cũng được nhiều người bàn tán trong đó có ông anh thứ Hai của tôi không hiểu sao lại tin tưởng sẽ có một giải pháp mới?

Những tin tức đủ loại như vậy chỉ làm cho người dân trong đó có tôi thêm rối trí. Tôi đang đứng suy nghĩ như vậy thì nghe tiếng của Mẹ tôi gọi. Bên dưới nhà ngay sau khi nghe tin Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng trên radio thì Mẹ tôi bảo đóng ngay cửa hàng bán quần áo trẻ em lại, khóa cửa sắt bên trong, rồi kéo tấm màn che kín hết và kêu tất cả rút lên lầu.

Bên ngoài đường, như là đã chuẩn bị từ trước ở vùng ven thủ đô, cho nên chỉ khoảng một tiếng đồng hồ sau là tôi nghe thấy tiếng những âm thanh động cơ nặng nề của những bánh xích xe tăng T-54 lăn rầm rầm trên đường nhựa từ phía Ngã Ba Ông Tạ, chạy trên đường qua trước mặt nhà Mẹ tôi, hướng về phía cầu Trương Minh Giảng.

Tôi nhìn qua cánh cửa sổ hé mở để thấy hình ảnh đau thương đầu tiên nhất về ngày mà Sài Gòn sụp đổ trong mắt tôi là một đoàn xe tăng T-54 đang lăn bánh vào thành phố.

Những người lính Bắc Việt mở nắp xe tăng và chui ra đứng lên nhìn thành phố một cách ngỡ ngàng. Từng chiếc, từng chiếc một chạy ngang qua trước mặt tôi bên dưới đường như những mũi kim xuyên qua da thịt đâm vào tim.

Trong khi mà đa số dân chúng hai bên đường còn đang sửng sốt chưa hiểu chuyện gì đang xẩy ra, thì một số người chả hiểu sao đã giơ tay vẫy vẫy đoàn xe tăng này – bên cạnh đó những người lính VNCH vẫn đang lầm lũi bước đi một cách đáng thương.

Tôi có cảm tưởng như bầu trời u ám tối xầm hẳn lại vì một sự kiện không bao giờ ai tin là có thể có thật đã vừa xẩy ra: quân Bắc Việt đang tiến chiếm và “tiếp thu” thành phố Sàigòn -thủ đô của Miền Nam và chế độ VNCH vừa sụp đổ sau hai mươi năm anh dũng chống lại quân xâm lược từ phương Bắc.

Tôi theo Mẹ xuống nhà dưới để chuẩn bị cùng gia đình ăn bữa cơm trưa và cố gắng lùa bát cơm nhưng không thể nuốt nổi.

Trên radio chợt có những giọng nói rất lạ của vài xướng ngôn viên mới và trong những bản nhạc được phát đi, người ta nghe thấy bản “Nối Vòng Tay lớn” của nhạc sĩ họ Trịnh.

Tôi với tay tắt cái radio đi vì chả có gì cần phải nghe nữa.

Tôi nhớ lại buổi sáng ngày hôm đó, ngày mà chúng ta mất Sàigòn.

Không hiểu sao tôi ngủ dậy rất sớm sau một đêm thao thức và trằn trọc vì cái quyết định ở lại không ra đi một mình.

Tôi lấy chiếc xe Renault 4 CV chạy về phía Tòa Đại Sứ Mỹ xem tình hình ra sao trong khi cả nhà trừ Mẹ tôi, là còn đang say ngủ.

Trời mới vừa hừng sáng và không khí còn hơi mát của sương đêm. Sàigòn dễ thương là chỗ đó, dù ban ngày có nóng mấy đi chăng nữa nhưng khi màn đêm buông xuống là không khí dịu đi ngay.

Phố phường dọc theo con đường Trương Minh Giảng còn vắng người, tôi vừa lái xe ra khỏi nhà một lát chưa tới khu chợ nữa thì thấy một dáng người thất thểu đi bên đường như không hồn. Tôi nhận ra anh Điện, anh bạn đồng nghiệp của tôi và được Tòa Đại Sứ Mỹ biệt phái qua Tổng Nha Cảnh Sát. Tôi mừng quá vội dừng xe lại, nhẩy xuống bắt tay anh hỏi thăm thì chỉ nhìn thấy một khuôn mặt u buồn, anh không nói một lời nào, cái siết tay tôi thật chặt thay cho lời nói rồi lại đi bộ dọc theo con đường hình như đang suy nghĩ gì lung lắm. Tôi đứng nhìn theo anh một lát rồi lên xe đề máy và chạy chầm chậm suốt cho tới cuối con đường Trương Minh Giảng, gập ngã ba thì rẽ trái vào Trần Quí Cáp để hướng về phía con đường Thống Nhất.

Trong khi lái xe tôi vẫn suy nghĩ về anh Điện và dự định chiều nay sẽ đến thăm anh nhưng tôi không ngờ rằng đó là lần cuối cùng tôi gập anh bởi ngay sau khi anh nghe tin Dương Văn Minh đầu hàng thì anh uống thuốc tự tử.

Anh sinh trưởng ở Huế, là một người rất hiền lành, một công chức cần mẫn, gia đình chỉ có hai vợ chồng và không con cái.

Con đường Trần Quí Cáp sáng hôm ấy vẫn đẹp và rợp bóng mát với hai hàng cây cao bên đường như mọi ngày nhưng tôi có cảm giác thật lạc lõng và thật cô độc.

Thiên hạ hình như còn đang chìm trong giấc ngủ, thỉnh thoảng mới thấy một hai chiếc xe gắn máy chạy vụt qua rồi mất hút.

Những chiếc lá theo từng cơn gió sớm mai bay là là nghiêng cánh  trước mặt kính xe của tôi rồi rơi xuống mặt đường nhựa và nằm im trên đó. Cuộc đời tôi cũng sẽ rơi rụng như chiếc lá khô này chăng?

Tôi lái xe vào phía trước của tòa đại sứ Mỹ và không thể không kinh ngạc khi nhìn thấy một dinh thự hoàn toàn trống rỗng, cánh cổng trước mở toang ra, với các mảnh kính vỡ bay ra tới tận ngoài đường.

Vòng xe lại phía sau là đường Hồng Thập Tự thì quang cảnh còn tang thương hơn. Một tòa đại sứ hôm nào còn nhộn nhịp, còn là đầu não của mọi kế hoạch tinh vi, thì bây giờ là một căn nhà hoang phế, các cửa sổ bị đập nát và khu cỏ xanh và đường nhựa phía sau này đầy các mảnh vụn của cửa kính vỡ, tôi phải lái xe ra xa để tránh các mảnh vỡ đó.

Mới tối hôm qua khi tôi đến đây thì còn đông nghẹt những người là người chen chúc nhau để tìm đường di tản. Trên bức tường kia là các TQLC Mỹ hườm súng và cổng vào thì đã đóng chặt.

Bây giờ hai cánh cửa mở toang, trên tường hoang lạnh, trong sân chỉ thấy vài bóng người, và trên nóc tòa đại sứ, hôm qua các trực thăng còn nườm nượp bay đi về để chở người di tản ra Đệ Thất Hạm Đội bây giờ cũng chẳng còn ai. Tôi chỉ nhìn thấy một bóng trắng rất nhỏ bốn chân đang chạy từ trên nóc xuống, có lẽ là con mèo đang đi tìm thức ăn.

Tôi đậu xe lại bên hàng cây, bước xuống cầm lên một mảnh vụn kính văng ra và nghĩ rằng phải có người dùng chất nổ để phá các két sắt trong đó để tìm tiền hay đô la còn sót lại thì các mảnh mới có thể văng xa đến như vậy.

Có điều tôi không ngờ rằng chẳng bao lâu sau thì cuộc đời hàng triệu người dân miền Nam trong đó có tôi cũng vỡ vụn ra không khác gì mảnh kính vỡ tan kia.

Tôi vòng xe về nhà nghỉ một chút đến chiều ngày 30 thì ghé thăm anh Điện, nhà anh rất gần nhà Mẹ tôi, ngay trong con hẻm bên cạnh ngôi chợ Trương Minh Giảng.

Khi tôi bước vào căn nhà thì không khí hoàn toàn vắng lặng và tôi hơi bị khựng lại vì cửa thì mở toang ra nhưng trong nhà không có ai ngoài một người bà con.

Tôi được biết là anh đã quyên sinh và chị đang ở trong nhà thương với anh để lo việc tẩm liệm.

Tôi bước ra khỏi nhà anh mà đầu óc còn chưa tỉnh hẳn.

Tôi để xe đó và đi bộ vào trong chợ, tôi có ý tìm một nhân viên của tôi cùng làm việc trong Đoàn Liên Lạc HK là một người gốc Chàm rất thành thật và dễ mến tên Carim.

Đang loay hoay nhớ lại lối vào nhà anh vì lối đi quanh co phía sau chợ thì tôi chợt thấy anh vác chiếc xe đạp ra định đi đâu. Gập tôi anh mừng qua dắt chiếc xe đạp trở lại, dựng nó tựa lên vách phòng khách trong nhà rồi chạy lại nắm tay tôi mời vào nhà.

Căn nhà anh ở là căn nhà sàn vách ván, bên dưới là con sông chẩy lượn lờ vòng quanh dưới chân cầu Trương Minh Giảng.

Căn phòng khách đơn sơ nhưng tối tù mù và trên tường có một bàn thờ che vải đỏ có lẽ là nơi anh thờ bùa chú gì đó.

Anh là một người với một cuộc đời khá đặc biệt chuyên giúp người, mà tôi nghe nhiều nhưng khi quen anh mới biết được.

Anh là một ông thầy người Chàm cao tay về bùa yếm.

Căn nhà sàn này cũng là một tặng phẩm của một bà trên chợ Bến Thành biếu cho anh vì anh đã cứu mạng cho con gái của bà.

Anh kể tôi nghe rằng con gái của bà này khi xuống Cần Thơ ăn học thì có một người thương yêu cô nhưng cô không chịu. Chàng trai kia bèn nhờ thầy bùa gì đó dưới Cần Thơ “thư yếm” vào phong bì gửi cho cô. Lúc mở phong bì ra là cô bắt đầu thấy như có ngọn lửa đang nung đốt ruột gan mình chịu không nổi, cô la hét và xé cả quần áo ra như người điên.

Đưa đến bệnh viện cấp cứu và bao nhiêu là bác sĩ cũng bó tay vì không tìm ra bệnh gì hết. Bà mẹ bèn đem cô về Sài Gòn để tìm thầy chữa trị, và may mắn có người giới thiệu với Carim.

Anh nói với tôi anh biết cái người đã yếm bùa hại cô này nhưng anh cao tay hơn nên chữa được. Sau khi con gái bà đã được giải trừ bệnh tật xong thì bà đã mua tặng cho anh ngôi nhà sàn này.

Lúc anh Carim mới vào làm cho Tòa Đại Sứ Mỹ và được đưa về Đoàn Liên Lạc HK để yểm trợ cho Phủ Đặc Ủy TƯTB thì anh nói tiếng Việt chưa sõi mà tiếng Anh thì cũng yếu nữa nên tôi thường giúp anh trong các khi cần phiên dịch hay diễn đạt bởi thế anh thân tình với tôi hơn những nhân viên khác của Đoàn.

Tôi tình cờ đến thăm và thấy anh rất vui mừng. Anh có hỏi tôi về tình hình và tại sao Tòa Đại Sứ HK lại không giữ lời hứa và không đến đón chúng tôi như đã cam kết trong buổi họp cuối cùng ngày 27-4-1975?

Tôi nói tôi không biết và lược sơ tình hình cho anh hiểu.

Riêng tôi có một câu hỏi với anh là với nghề nghiệp thầy pháp, tạm gọi anh như vậy đi, không biết anh có thể tìm được điều gì về tâm linh ngõ hầu soi sáng thêm cho tình hình đen tối này hay không.

Anh nhìn tôi chầm chậm lắc đầu một cách bi quan.

Anh cho tôi biết là một số anh chị em trong Đoàn còn lại tại Sàigòn cũng rất là hoang mang, không biết tính sao. Tôi nhờ anh nhắn lại với họ là mọi người nên lo cho gia đình mình là tốt nhất rồi xem tình hình ra sao sẽ tính.

Tôi ngồi uống với anh chung nước trà và siết tay anh rồi ra về.

Đó là lần tôi gập anh ngay sau lệnh đầu hàng và không còn dịp nào gập lại nữa nhưng lúc nào tôi cũng mến anh, một con người thật thà ngay thẳng và hay giúp người.

Tôi chạy xe đến nhà anh Sang là một cấp chỉ huy trong Đoàn Liên Lạc HK thì nghe tiếng khóc sụt sùi từ trong nhà vọng ra. Tôi chỉ gập một cô bé giúp việc, cô nói rằng cả hai vợ chồng anh đều đã ra đi từ hồi nào cô không hay nữa. Bấy giờ tôi mới hiểu rằng tất cả đều đã tan tác như loài ong vỡ tổ và mạnh ai người nấy đi tìm đường thoát ra khỏi miền Nam trước khi quá trễ.

Vì quá tin vào lời hứa và cam kết của các cố vấn Mỹ trong buổi họp ngày 27-4 mà phút chót tôi và rất nhiều người đã bị kẹt lại.

Mấy ngày sau tôi mới biết là tất cả cố vấn Mỹ đã có lệnh rút hết vào bên trong Tòa Đại Sứ sáng ngày 29-4 và ngay buổi chiều hôm đó thì Tòa Đại Sứ đã ra lệnh đóng kín cửa, cho lính TQLC Mỹ canh gác trên bức tường thành chung quanh và không còn ai ra vào được nữa.

Các bạn đồng nghiệp của tôi và chính tôi nữa khi bước chân vào các trại “tập trung cải tạo” của Cộng Sản, đã phải trả một cái giá rất đắt với bao nhiêu năm tù đầy cho niềm tin vào lời hứa sẽ bốc đi bằng trực thăng của người Mỹ.

Bởi lẽ các cố vấn Mỹ chỉ lo cho những người họ quen biết, hay chỉ đưa đi một số người quan chức bên phía VNCH đã được chỉ định mà thôi trong đó có Trung Tá HDC, một Trưởng Ban của Phủ Đặc Ủy TƯTB – nơi Đoàn Liên Lạc HK tôi vẫn làm việc.

Vào đầu tháng 5-1975, tôi quyết định đi một vòng để thăm bạn bè và có dịp gập gỡ một số bạn đồng nghiệp còn ở lại trong đó có một chị người Trung Hoa nói tiếng Việt rất ít nên chúng tôi thường phải đối thoại bằng Anh Ngữ. Câu chuyện của chị kể đã khẳng định điều nhận định của tôi là đúng.

Chị A.L cho tôi biết là người cố vấn Mỹ đang thuê nhà của chị nói rằng Tòa Đại Sứ vừa triệu tập khẩn cấp các cố vấn Mỹ đang ở trong thành phố hay đang làm việc tại các Nhà An Toàn phải vào trong Sứ Quán ngay lập tức nội sáng ngày 29-4.

Tay cố vấn này có hỏi chị muốn đi hay không, chị A.L trả lời là chị đang chờ cố vấn của Đoàn Liên Lạc HK thông báo xem sẽ tập trung ở đâu. Người Mỹ này nói là không còn kịp nữa đâu mà chờ đợi.

Nhờ có tay cố vấn ấy mà cả hai mẹ con chị mới vào được trong Tòa Đại Sứ  yên ổn ngay sáng ngày 29-4.

Tôi thắc mắc là tại sao hai mẹ con chị đã vào bên trong yên ổn rồi mà còn ở lại đây Sàigòn giờ này? Chị nói đúng là con người ta không ai học được chữ ngờ và quả là con người ta đi đứng đều có số mạng.

Bởi tối hôm 29-4, ai có mặt trong Tóa Đại Sứ cũng đều biết rằng đó là buổi tối cuối cùng vì ngày mai trực thăng sẽ không còn vào đón người di tản nữa từ trên nóc của sứ quán.

Vì lẽ đó mà thiên hạ chen nhau một cách hỗn loạn, leo lên từng bậc thang một để lên trên sân thượng nơi trực thăng đang chờ –lý do là mỗi chuyến trực thăng chỉ đón một số người nhất định có tên trên manifest mà thôi.

Chị A.L dẫn mẹ già nên chậm hơn mọi người. Khi chị lên đến nóc tòa nhà và chuẩn bị chui vào chiếc trực thăng đã được chỉ định thì mới hốt hoảng không thấy mẹ mình đâu. Hóa ra bà cụ đã vừa mới đứng phía sau chị bên cạnh cầu thang thì đã bị người ta xô đẩy tuốt về phía sau từ hồi nào. Chị vội quay xuống dẫn cụ lên lại tới nơi thì chiếc trực thăng đó không thể chờ được và đã cất cánh.

Chị kiên nhẫn đứng chờ các chuyến sau nhưng vẫn bị từ chối vì không còn chỗ, và cứ thế chờ suốt đêm đến sáng rồi đành ra về khi toán TQLC cuối cùng rút lui – không còn một dấu vết gì nữa của người Mỹ đã hiện diện ở đây ngày hôm qua.

Những người không đi được còn lại ở bên trong và một số ở bên ngoài quá bất mãn đã phá tung cánh cửa và ùa vào phá hết các đồ đạc tủ bàn ghế bên trong. Một số người nữa từ các nơi ngoài đường thấy cổng mở cũng túa vào. Họ đập nát các tủ sắt lấy đi những gì còn có thể lấy được. Đó là vì sao mà các mảnh vụn của cửa kính văng xa ra tới tận ngoài đường.

Ngày 30-4, ngày mất miền Nam thì cái dinh thự to lớn và bề thế của Tòa Đại Sứ Mỹ trên đường Thống Nhất cũng chỉ còn là một cái xác nhà tan hoang.

Tôi nhìn lại tòa nhà đó một lần chót, không thể ai tin được rằng cái dinh thự ấy mới đây còn là nơi yểm trợ cho công cuộc chống Cộng của chế độ VNCH của miền Nam Tự Do, nay đứng chơ vơ xác xơ như thân cây ruỗng mục.

Trên đường phố chung quanh Tòa Đại Sứ tôi nhìn thấy bao cảnh dở khóc dở cười của những người hôi của. Họ chạy xe gắn máy các loại và thòng dây kéo theo các chiến lợi phẩm như những chiếc ghế xoay rồi cột trên đó thêm cái máy lạnh, cái quạt máy, hay cái máy đánh chữ.

Xe của họ phải chạy chầm chậm vì nhanh một chút nữa là chiếc ghế xoay kia sẽ đổ ụp xuống đường.

Tôi lái xe ngược trở về nhà Mẹ tôi để thu xếp đưa gia đình về lại căn nhà tôi đang ở trong Phú Lâm vùng ngoại ô.

Tất cả đã hết thật rồi và hy vọng cũng tan tành như mây khói.

Những người bạn Mỹ ngày nào vẫn cùng nhau sát cánh bao nhiêu năm giờ đây đã rời xa nghìn trùng không còn một dấu vết.

Các bạn đồng nghiệp như tôi hay toàn bộ bên Phủ Đặc Ủy hay các Phủ Bộ khác của chế độ VNCH cũng đang phải đối diện với một ngày mai không thấy gì là sáng sủa trước mặt một kẻ thù cực kỳ hiểm độc và tàn ác không lường.

Thôi cứ về nhà chờ rồi sẽ hay, cái gì đến sẽ phải đến.

Có khác chăng, trước kia tôi chờ trong niềm vui và hạnh phúc là người Mỹ sẽ đón đi di tản cùng với gia đình, còn bây giờ là chờ người của họ sẽ đến tìm bắt mình ngay tại nhà.

Thành phố Sài Gòn không còn nữa, tất cả những ngày tháng êm đềm mang đầy kỷ niệm trên mọi ngả đường thân yêu trong cái thành phố mang tên Hòn Ngọc Viễn Đông đó không còn nữa.

Lịch sử vừa sang qua một trang mới đầy sắt máu, hãi hùng, bi thương; và bên cạnh đó là một nền văn minh huy hoàng bắt đầu bị kẻ chiến thắng hủy diệt ngay trong thủ đô thân yêu mang tên Sàigòn.

(nguồn: phamgiadai.blogspot.de )