Nhà thơ
Nguyễn Chí Thiện
đã khuất núi
Dù thể xác lao tù héo khô muốn đổ
Dù đau lòng dưới năm tháng vùi chôn
Ta đã sống và không xấu hổ
Vì ta cứu giữ được linh hồn (NCT)
Dân tộc Việt Nam ngưỡng mộ thi sĩ Nguyễn Chí Thiện,
một chiến sĩ của sự “chí thiện”, kiên cường
chống cái Ác, chịu 27 năm tù CS vì chí khí bất khuất,
phản kháng chế độ Việt cộng từ thời Nhân văn Giai Phẩm.
Nguyen Chi Thien, a Vietnamese poet,
died on October 2nd, aged 73
Oct 13th 2012 | from the print edition
The Economist
The Economist, October 13, 2012
THE poems were under his shirt, 400 of them. The date was July 16th 1979, just two days—he noted it—after the anniversary of the fall of the Bastille. Freedom day. He ran through the gate of the British embassy in Hanoi, past the guard, demanding to see the ambassador. The guard couldn’t stop him. In the reception area, a few Vietnamese were sitting at a table. He fought them off, and crashed the table over. In a cloakroom nearby, an English girl was doing her hair; she dropped her comb in terror. The noise brought three Englishmen out, and he thrust his sheaf of poems at one of them. Then, calm again, he let himself be arrested.
Thus Nguyen Chi Thien sent his poems out of Communist Vietnam. They were published as “Flowers of Hell”, translated into half a dozen languages, and won the International Poetry Award in 1985. He heard of this, vaguely, in his various jails. In Hoa Lo, the “Hanoi Hilton”, one of his captors furiously waved a book in his face. To his delight, he saw it was his own.
He was not strong physically. He contracted TB as a boy; his parents had to sell their house to pay for his antibiotics. Then since 1960, on various pretexts—contesting the regime’s view of history, writing “irreverent” poetry—he had done several long spells in prison and labour camp. Hard rice and salt water had made him scrawny and thin-haired by his 40s. Internally, though, he was like steel: mind, heart, soul. Sheer determination had forced him through the British embassy that day. In fact, the more the regime hurt him, the more he thrived:
They exiled me to the heart of the jungle
Wishing to fertilise the manioc with my remains.
I turned into an expert hunter
And came out full of snake wisdom
and rhino fierceness.
They sank me into the ocean
Wishing me to remain in the depths.
I became a deep sea diver
And came up covered with scintillating pearls.
The pearls were his poems. He kept his early efforts in a table-drawer where he found them later, the paper gnawed by cockroaches. The mind’s treasury was a safer place for them. It was also, for almost half his life, the only place he had. In prison he was allowed no pen, paper or books. He therefore memorised in the night quiet each one of his hundreds of poems, carefully revised it for several days, and mentally filed it away. If it didn’t work, he mentally deleted it. If it started to smell bad—like the one about Ho Chi Minh, Vietnam’s first Communist leader—he turned it into a stinging dart instead:
Let the hacks with their prostituted pens
Comb his beard, pat his head, caress his arse!
To hell with him!
Walking out to till the fields with his fellow prisoners, many of them poets too, he would recite his poems to them and they would respond with theirs. Some of them counted the beats on their fingers to remember. He never did; memory alone served him. It saved him, too.
After 1979 he spent the best part of eight years in solitary, in stocks or shackles in the dark. His poems became sobs, wheezes, bloody tubercular coughs. But in his mind he still set out fishing, and watched dawn overtake the stars. He sniffed the jasmine and hot noodle soup on a night street in Hanoi. He remembered his sister Hao teaching him French at six—what a paradise the French occupation seemed, in retrospect!—and went swashbuckling again with d’Artagnan and his crew. That way, he kept alive.
Drinking with Li Bai
A favourite prison companion was Li Bai (Lý Bạch), the great poet of eighth-century China. He would sup wine with him from amber cups, loll on chaises longues, watch pretty maidens weaving silk under the willow trees and the peach blossoms falling. He would talk to the moon with him and get wildly, romantically drunk.
There was a flavour here of his own careless youth, his teahouse years of girls and smoking. Both he and Li Bai had offended the emperor, mocked the education system, and been punished. But somehow the oppressions of the distant past seemed bearable. Not so the acts of Vietnam’s red demons, with their nauseating loudspeaker jingles about Happiness and Light.
Out of prison, Li Bai-like, he dealt in rice brandy for a while, and tried to sell bicycle spokes. He could not make a go of it. From 1995 he managed to get shelter in America. He lived humbly in Little Saigon in Orange County, California, lodging with fellow countrymen. Green tea and smoking remained his chief comforts.
A flat cap or a fedora were his trademarks. He had nothing to share but his poems and his memories of fellow poets, whose cattle-trodden graves now dotted the hills around the labour camps. That, and his roaring hatred of the regime in his country, where his writings remained banned.
If people could see his heart, he had written back in 1964, during his first spell in prison, they would see it was an ancient pen and inkstand, gathering dust; or a poor roadside inn, offering only the comfort of an oil lamp. But it was also a paddy field waiting for the flood-rains of August,
So that it can overflow into a thousand waves,
White-crested ones that will sweep everything away!
Đăng trên tạp chí “The Economist”
October 13th, 2012, England
Nguyễn Chí Thiện &
Hoa Địa Ngục
Thi nhân vừa vĩnh biệt phong trần
Thân xác tàn theo bụi thế gian
Danh vẫn âm vang cùng tuế nguyệt
Hồn còn ẩn hiện với phong vân
Lao tù chẳng hủy tình dân tộc
Biệt xứ không màng chuyện giả chân
Mãi mãi dòng thơ Hoa Địa Ngục
Vẫn là đuốc sáng cho toàn dân
Nguyễn Đình Sài
(Washington
October 2, 2012)
Tôi Không Tiếc
Tôi không tiếc khi bị đời sa thải
Thân thể vùi, tan rữa, hóa bùn đen
Nhưng vần thơ trong đêm tối đê hèn
Cùng rệp muỗi viết ra mà bị mất
Tôi sẽ tiếc, khóc âm thầm trong đất
NCT, 1963
TIỄN BẠN NGUYỄN CHÍ THIỆN
Những hạt lúa làm thực phẩm cho Con Người
Phải chết dưới bùn mới trổ lá, đâm bông
Những mùa Xuân nồng ấm tươi hồng
Phải kết nụ bằng mùa Đông giá rét
Những tác phẩm vượt lên trên hết
Phải sản sinh bằng lửa tự Trái Tim
Những bài thơ cho Dân Tộc đắm chìm
Phải gọt dũa bằng máu xương tác giả
Những thi sĩ bị kẻ gian nguyền rủa
Lại chính là Tiếng Nói Lương Tâm
Nguyễn Chí Thiện, người ngục sĩ âm thầm
Đã trăn trở sống một đời kỳ dị
Đã uống cạn những nồng cay thế kỷ
Cười với tù giam, giỡn mặt Tử Thần
Đòn thù không màng, dù nát châu thân
Vẫn ngạo nghễ, lấy cùm đêm làm bạn
Ngày trơ xương, nhìn mặt trời nứt rạn
Mà khinh thường lũ bọ rệp vây quanh
Lấy mùa Đông tăng niềm nhớ mong manh
Lấy mùa Hạ để dâng cơn phẫn nộ
Dùng cơn đói làm bài thơ đồ sộ
Giấc ngủ xà lim nâng trí thức lên cao
Khi bình yên, thương một điếu thuốc lào
Lúc bệnh ốm, cười đợi chờ Thần Chết
Chỉ có hai điều, nhà Thơ cần hơn hết
Nhìn quê hương sạch bóng nội thù
Nhìn Việt Nam rực rỡ muôn thu
Và được chết nơi trận tiền, quê Mẹ
Trong tư cách một người không câu nệ
Hy sinh thân mình cho Tổ Quốc yêu thương..
Giờ đây! Giờ đây! Anh đã lên đường
Về đất Tổ, gặp những người Hùng muôn thế hệ
Chúng tôi, những chiến hữu của anh,
không thể ngăn giọt lệ
Tiễn anh đi mà tim thắt, đoạn trường
Xin lung linh của ánh nến, nén hương
Dẫn anh đến nơi Thiên Đường hoan lạc
Không còn những đau thương bàng bạc
Vẫn trường kỳ đeo bám Kiếp Phù Sinh…
Một lần cuối, xin cúi chào Anh,
Vĩnh Biệt!
Chu Tất Tiến
VIDEO:
Kim Nhung show
Tưởng nhớ nhà thơ Nguyễn Chí Thiện
http://www.youtube.com/watch?v=kno0lXuKh0E&feature=channel&list=UL
VRNs (03.10.2012) – California, USA – Từ California, Chu Tất Tiến cho biết: “Vô cùng xúc động báo tin buồn: Nhà Thơ Nguyễn Chí Thiện, người Anh Hùng trong Thi Ca và Đời sống, người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho đất nước Việt Nam, người đã thản nhiên chấp nhận 27 năm tù trong ngục tù Cộng Sản, vừa từ giã chúng ta lúc 7 giờ 17 phút sáng nay, ngày thứ Ba, ngày 02 tháng 10 năm 2012 tại Santa Ana, California (giờ Cali)”.
Tự điển bách khoa mở Wikipedia viết về nhà thờ Nguyễn Chí Thiện như sau: “Ông sinh 27 tháng 2 năm 1939 tại Hà Nội, là một nhà thơ phản kháng người Việt Nam. Ông từng bị nhà chức trách của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam bắt giam tổng cộng 27 năm tù vì tội “phản tuyên truyền”.
Ông được phóng thích ngày 28 tháng 10 năm 1991 và đến tháng 1 năm 1995 thì được xuất cảnh sang Hoa Kỳ”.
Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đã xuất bản:
“Tập thơ Hoa Địa ngục của ông xuất hiện ở hải ngoại vào năm 1980 sau khi tác phẩm này được lén đưa vào toà đại sứ Anh tại Hà Nội và được giáo sư Patrick J. Honey thuộc Đại học Luân Đôn (University of London), nhân chuyến đi Việt Nam năm 1979, mang được ra ngoài nước để phổ biến. Kèm trong tập thơ 400 trang viết tay này là lá thư mở đầu với lời ngỏ:
‘Nhân danh hàng triệu nạn nhân vô tội của chế độ độc tài, đã ngã gục hay còn đang phải chịu đựng một cái chết dần mòn và đau đớn trong gông cùm cộng sản, tôi xin ông vui lòng cho phổ biến những bài thơ này trên mảnh đất tự do của quý quốc. Đó là kết quả 20 năm làm việc của tôi, phần lớn được sáng tác trong những năm tôi bị giam cầm’.
Vì tập thơ không ghi tên tác giả, nên lần in đầu tiên năm 1980 do “Uỷ ban Tranh đấu cho Tù nhân Chính trị tại Việt Nam” phát hành tại Washington D.C. ghi tác giả là “Khuyết danh” hay “Ngục Sĩ” với tựa Tiếng Vọng Từ Đáy Vực. Năm 1981, ấn bản khác của báo Văn nghệ Tiền phong phát hành ở hải ngoại được ra mắt dưới tựa Bản Chúc thư Của Một Người Việt Nam.
Nhan đề Hoa Địa ngục được dùng đầu tiên năm 1984 khi Yale Center for International & Area Studies in bản tiếng Anh Flowers from Hell do Huỳnh Sanh Thông dịch. Sau này người ta mới biết đến tên Nguyễn Chí Thiện. Một số bài thơ trong Hoa Địa ngục đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc trong tập Ngục ca.
Cũng nhờ vì tập thơ này năm 1985 Nguyễn Chí Thiện đoạt giải “Thơ Quốc tế Rotterdam” (Rotterdam International Poetry Prize).
Trong khi ông bị giam cầm vì tên tuổi ông được biết đến nhiều, những hội đoàn như Tổ chức Ân xá Quốc tế (Amnesty International), Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) cùng những chính khách như Léopold Senghor (cựu tổng thống Sénégal), John Major (cựu thủ tướng Anh) và vua Hussein của Jordan từng lên tiếng tranh đấu cho ông được thả.
Năm 2006 tập thơ gồm hơn 700 bài của ông được đúc kết lại với đúng tên tác giả đã ra mắt độc giả người Việt hải ngoại một lần nữa và được đón nhận nồng nhiệt.
Tập thơ Hoa Địa ngục còn được dịch ra tiếng Đức với tựa Echo aus dem abgrund, tiếng Pháp: Fleurs de l’Enfer, và tiếng Hà Lan: Bloemen Uit de Hel. Cái tên này tác giả đã chọn ghi ở cuối lá thư đính kèm với tập thơ khi đột nhập tòa đại sứ Anh ở Hà Nội”.
Ngoài làm thơ, Nguyễn Chí Thiện còn viết văn. Nguyễn Chí Thiện được phóng thích năm 1991 và sang định cư ở Mỹ năm 1995. Năm 2001, tập truyện Hoả Lò của ông được nhà xuất bản Cành Nam ở Arlington, Virginia đem in cùng Tổ hợp Xuất bản miền Đông Hoa Kỳ phát hành năm 2001, rồi tái bản năm 2007.
Cũng trong năm 2007, tập truyện cùng với thơ ông được dịch ra tiếng Anh, nhan đề Hoa Lo/Hanoi Hilton Stories do Yale University Southeast Asia Studies xuất bản. Bản dịch có sự đóng góp của Nguyễn Ngọc Bích, Trần Văn Điền, Vann Saroyan Phan và Nguyễn Kiếm Phong.
Năm 2008 Hai Truyện Tù/Two Prison Life Stories, một tác phẩm song ngữ Việt-Anh được xuất bản ở Mỹ với sự cộng tác của Jean Libby, Tran Trung Ngoc và Christopher McCooey”. (PV.VRNs)
Tang lễ đưa tiễn cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện
diễn ra ngày Thứ Bảy 6 tháng 10, 2012
tại Thánh Đường La Vang, miền Nam California,
Hoa Kỳ. Tro cốt của ông được an vị trên
tầng lầu sáu, Nhà Thờ Kiếng, là Nhà Thờ
Chánh Tòa Orange County, Nam California.
(Độc giả muốn biết thêm về tác phẩm Nguyễn Chí Thiện, “Trái Tim Hồng”, có thể liên lạc trực tiếp với tác giả Trần Phong Vũ qua điện thoại (949) 485 – 6078 hoặc Email: tphongvu@yahoo.com)
Kết thúc Tuần lễ Tưởng Niệm
Nhân Húy Nhật đầu
cố Thi Sĩ Nguyễn Chí Thiện
Tuần Lễ Tưởng Niệm cố Thi Sĩ Nguyễn Chí Thiện khởi đầu từ Thứ Bảy 21-9-2012 đã kết thúc long trọng hôm Thứ Bảy 28-9-2013 tại Trung Tâm Công Giáo Việt Nam Giáo Phận Orange, California.
Thánh Lễ:
Khởi đầu là Thánh Lễ đồng tế do Đức Giám Mục Mai Thanh Lương cử hành cùng quý LM Nguyễn Đức Minh, Vũ Hân, Nguyễn Thái từ 9 giờ đến 10 giờ sáng để cầu cho linh hồn Thomas More Nguyễn Chí Thiện. Đền Thánh đã không còn một chỗ trống khiến cả trăm giáo dân và đồng bào tham dự đã phải đứng dọc hai bên hành lang, tràn cả ra bên ngoài.
Trong bài thuyết giảng dịp này, LM Giám Đốc TTCG Nguyễn Thái nhắc lại cái cơ duyên thuở sinh thời thi sĩ Nguyễn Chí Thiện đã ba lần xuất hiện nơi đây. Trước hết là dịp giới thiệu thi phẩm Hoa Địa Ngục 2, tức là tác phầm Hạt Máu Thơ của ông năm 1996; Lần thứ hai là buổi ra mắt tác phẩm Hoả Lò năm 2001. Và lần thứ ba là năm 2005, cố thi sĩ nhận lời đọc và giới thiệu tác phẩm Giáo Hoàng Gioan Phaolo II Vĩ Nhân Thời Đại của nhà văn Trần Phong Vũ cũng tại hội trường Trung Tâm Công Giáo.
Sau khi gợi lại 27 năm đau thương, gian khổ mà cố thi sĩ đã trải qua trong các nhà tù cộng sản trên quê hương, trong phần kết thúc bải giảng thuyết, LM Nguyễn Thái nói:
“Trong đau khổ, tuyệt vọng, nhà thơ Phùng Quán đã tâm sự: “Có những giây phút ngã lòng, tôi đã vịn câu thơ mà đứng dậy.” Đối với cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện, ông đã không chỉ “vịn câu thơ mà đứng dậy”, nhưng vịn vào linh hồn bất tử của thơ mà đứng dậy. Ông đã vịn vào sức mạnh của niềm tin nơi Đấng Tối Cao mà đứng dậy.
Ông đã ở tù ròng rã 27 năm trường, nhưng nhờ sức mạnh của thơ, của niềm tin vào linh hồn bất tử, vào sự nâng đỡ của Thượng Đế, nên ông vẫn bền lòng vững chí, như tên của ông là Chí Thiện. Với bản chất hiền lương, trong sáng, luôn hướng về Chân Thiện Mỹ, hướng về Đấng Chí Thánh, Đấng Chí Thiện như lời ông tự nhủ trong thơ:
“Nhà thơ ơi, phải biết,
Giữ linh hồn cho tinh khiết…
Nhà thơ còn phải biết,
Sống trong cõi đời như không bao giờ chết.”
Giống như hai môn đệ trên đường Emmaus, chính niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh đã giúp họ trở về trong hy vọng, thì đối với cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện, cho dù cuộc đời ông phải chịu quá nhiều bất hạnh như lời Thánh Vịnh 89 diễn tả: “Tính tuổi thọ trong ngoài bẩy chục… Mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ…” Nhưng với niềm tin vào Đấng Tối Cao, cố thi sĩ đã chấp nhận tất cả gian lao khốn khó và xem đó là sứ mệnh của mình:
“Nhưng số phận ta quá nhiều khắc nghiệt
Có lẽ Trời bắt ta phải chịu nhiều rên xiết
Để cho ta có thể hoàn thành công việc
Dùng lời ca ngăn hoạ đỏ lan tràn”
Hội Thảo:
Ngay sau Thánh Lễ là cuộc hội thảo về chủ đề “Nhìn lại Con Người, Cuộc Đời và những Di Sản Tinh Thần của cố Thi Sĩ Nguyễn Chí Thiện” khai diễn tại Hội Trường Trung Tâm trong gần ba tiếng đồng hồ. Cuộc hội thảo quy tụ ngót 300 đồng hương, trong số có những khuôn mặt trí thức tiêu biểu trong cộng đồng như quý giáo sư Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh, Lưu Trung Khảo và quý phu nhân, giáo sư Nguyễn Ngọc Bích (Washington DC), Trần Huy Bích, Nguyễn Thanh Trang (San Diego), Đỗ Anh Tài, Nguyễn Đình Cường, Dương Khải Hoàn, cựu Dân biểu Nguyễn Lý Tưởng, tiến sĩ Nguyễn Bá Tùng, tiến sĩ Lê Minh Nguyên, các bác sĩ Nguyễn Trọng Việt, Nguyễn Văn Quát, Trần Việt Cường, Trần Văn Cảo, cựu Nghị sĩ Trần Tấn Toan, kỹ sư Đỗ Như Điện, cựu đốc sự hành chánh Cao Viết Lợi, ký giả nhà văn Mặc Giao (Canada), nhà báo Huỳnh Lương Thiện (San Francisco), các nhà báo Khúc Minh, Vũ Thụy Hoàng, Trần Nguyên Thao, Đinh Quang Anh Thái, các nhà văn, nhà thơ Nguyễn Hải Hà, Anh Duy, Trần Thế Ngữ, các cựu sĩ quan QLVNCH thuộc mọi binh chủng như cựu Đại tá Chỉ huy trưởng Pháo binh Quân Đoàn 3 Lê Văn Trang, nguyên Thiếu tá Giám độc đài phát thanh Sàigòn Phạm Bá Cát, các cựu Sĩ quan Không quân Phạm Đình Khuông, Nguyễn Đức Chuyện, luật sư Trần Thanh Hiệp (Pháp), bà giáo sư Jean Libby, một trong những người bạn thân của cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện thuở sinh thời và đại diện các cơ quan truyền thông gồm hệ thống Truyền hình Free Việt Nam, các đài truyền hình VNA/TV, SET. VHN, Cơ sở Văn Hóa Lạc Việt, ký giả các nhật báo Viễn Đông, Việt Báo, Người Việt…
.Sau phần chào quốc kỳ Mỹ Việt, tưởng niệm các chiến sĩ và đồng bào đã xả thân vì chính nghĩa dân tộc, đặc biệt những tù nhân lương tâm đã chết hoặc còn bị đày ải trong các nhà tù cộng sản trên quê hương mà điển hình là cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện, buổi hội thảo với chủ đề “Nhìn lại Con Người, Cuộc Đời và những Di Sản Tinh Thần của cố Thi Sĩ Nguyễn Chí Thiện” khởi đầu.
Vì phu nhân bị bạo bệnh bất ngờ phải vào cấp cứu trong bệnh viện, Tiến sĩ Bùi Hạnh Nghi từ Đức quốc không thể hiện diện nên bài thuyết trình của ông với nhan đề “Duyên kỳ ngộ nơi miền ngôn ngữ của Goethe” đã được ông úy thác cho nhà văn Mặc Giao trình bày giúp..
Theo Tiến sĩ Bùi Hạnh Nghi thì ngay từ đầu thập niên 80, khi nhà thơ nguyễn Chí Thiện còn bị đày ải trong ngục tù cộng sản ở quốc nội, ông đã được đọc những bài thơ tuyệt vời trong số 400 bài đầu của thi tập Hoa Địa Ngục dưới nhan đề xa lạ là “Bản Chúc Thư Của Một Người VN” . Từ đấy ông đã khám phá ra chân dung tác giả khi chưa ai biết là nhà thơ Nguyễn Chí Thiện dưới hai khía cạnh: một người anh hùng chống cộng quyết liệt và một thi nhân có tài.
Ông viết:
“Điều đầu tiên gây hứng thú cho tôi là nội dung chống cộng của tập thơ. Càng đọc tôi càng có cảm tưởng đã may mắn gặp một chứng nhân vẽ lên được một cách tường tận, đầy đủ hơn ai hết bức tranh toàn cảnh về tính chất bạo tàn của chế độ mà chính tôi đã chứng kiến và trải nghiệm phần nào trong thời niên thiếu lúc còn sống ở quê tôi Hà Tĩnh là nơi chính quyền cộng sản thống trị từ năm 1945. (…)
Ngoài những nhà tù chính hiệu, NCT còn phác họa cái nhà tù khổng lồ bao trùm trọn miền Bắc Việt Nam (và như ta biết sau 1975 miền Nam cũng đã trở thành nhà tù bao la rập theo khuôn mẫu miền Bắc). Như người thợ nhiếp ảnh tài tình, NCT đã thu trọn vào ống kính bức tranh ảm đạm của một xã hội nghẹt thở đắm chìm trong thấp thỏm lo sợ.”
Về giá trị thi ca trong Hoa Địa Ngục,
Tiến sĩ Bùi Hạnh Nghi nhận định:
“…đặc sắc của NCT không chỉ nằm trong đia hạt tố giác tội ác của cộng sản. NCT còn làm cho tôi bái phục hơn vì tài nghệ siêu cường trong địa hạt thi ca. Với tài nghệ đó ông đã cống hiến cho ta một tác phẩm mà văn học sử nước nhà sẽ mãi mãi lưu danh. Và trên trận tuyến chống bạo quyền, thi phẩm tuyệt vời của ông đã trở thành một hệ thống vũ khí vô cùng sắc bén. Thơ NCT không phải là một tác phẩm đấu tranh có tác dụng nhất thời mà mãi mãi sẽ là tiếng nói của con người muôn thuở.
Hủy diệt tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, là đặc điểm của tất cả mọi thứ độc tài kim cổ và xưa nay đã có vô số người tố cáo. Nhưng bút pháp thần tình của NCT làm cho độc giả có cảm giác như sờ mó được cái độc hại, cái nguy hiểm của quái vật độc tài mà nanh vuốt là thủ đoạn “bỏ tù tiếng nói” và dùng miếng ăn như một thứ xích xiềng để nô lệ hóa.
Thoát thai từ một thực tế phũ phàng cay đắng, toàn bộ thơ NCT đã lấy thực tế đó làm đề tài duy nhất, nhưng lời diễn tả thì thiên hình vạn trạng nhờ vào bút pháp phong phú linh động, chuyển biến theo từng cảnh ngộ trong cuộc sống và theo từng nhịp đập của con tim.
NCT đã có công tạo những danh từ, những hình ảnh để phơi bày bằng nét bút sắc và đậm bộ mặt đa dạng của bạo lực. Ngôn ngữ của NCT đã có tác dụng của những quang tuyến diệu kỳ, của những “chiếu yêu kính” khiến cho hồ ly phải hiện nguyên hình và những ngụy trang lừa bịp không còn hiệu nghiệm. NCT vừa tố cáo tội ác trước công luận một cách hùng hồn vừa làm phong phú kho tàng ngôn ngữ chúng ta….”
Đọc lại những lời tâm huyết của cố thi sĩ kèm những vần thơ máu của ông khi liều mình đột nhập tòa Đại sứ Anh ở Hànội năm 1979 với khát vọng thiết tha là nó sẽ đánh động được lương tâm nhân loại trước những thảm cảnh mà dân tộc Việt Nam đang phải chịu đựng dưới chế độc độc tài CSVN, Tiến sĩ Bùi Hạnh Nghi tự thấy có trách nhiệm phải làm một cái gì để đáp lại tâm nguyện của nhà thơ. Và đấy chính là lý do thôi thúc ông để hết tâm huyết dịch thi phẩm Hoa Địa Ngục sang Đức ngữ. Được biết, hiện nay dịch phẩm này đã được dùng làm tài liệu giảng dạy cho học sinh bậc trung học ổ Đức.
Chấm dứt bài thuyết trình trong gần nửa tiếng đồng hồ,
diễn giả kết luận:
“Nhìn lại sự xuất hiện và sự đón nhận thơ NCT tại Đức và Áo, tôi thấy đó là một cuộc gặp gỡ, một cuộc trao đổi lạ kỳ. Quả là mối duyên kỳ ngộ của NCT nơi miền ngôn ngữ của Goethe, đệ nhất văn hào Đức quốc.”
Diễn giả thứ hai trong buổi hội thảo là Tiến si Trần Huy Bích với đề tài “Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện và thời đại chúng ta”. Mở đầu bài thuyết trình, TS họ Trần đã nhấn mạnh tới nhân cách vĩ đại và tấm lòng bao dung, bác ái có một không hai của cố Thi sĩ. Ông cũng nhắc lại mối liên hệ mật thiết với nhà thơ qua mối giao tình sâu đậm với những người thân trong gia đình cụ cố Vũ Thế Hùng, người từng một thời ở tù chung với tác giả thi phẩm Hoa Địa Ngục.
Đề cập thái độ khoan hòa, độ lượng đặc biệt của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, Tiến sĩ Trần Huy Bích đã gợi lại những phản ứng điềm tĩnh, chừng mục, coi nhẹ mọi sự của cố thi sĩ trước hành vi đầy ác ý của những kẻ cố tình xuyên tạc, bôi nhọ ông trong những năm tháng lưu đày nơi hải ngoại.
Sau khi đi sâu vào khía cạnh tình cảm trong thơ Nguyễn Chí Thiện và những căn nguyên khiến đảng và nhà nước CSVN căm hận, đày ải nhà thơ trong suốt 27 năm dài, diễn giả nhắc lại trường hợp hai nhà thơ tiền bối là Đặng Trần Côn và Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều với những trường thi Chinh Phụ Ngâm Khúc và Cung Oán Ngâm Khúc, đối chiếu với cảnh ngộ của cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện và nội dung 700 bài thơ của ông để đi tới kết luận:
“…nỗi khổ của chinh phu, chinh phụ … trong CPNK (cũng như nỗi buồn khổ của người cung phi trong cung cấm) không thấm vào đâu so với nỗi khổ của người dân VN trong xã hội CS mà NCT vừa là người chứng kiến, vừa là nạn nhân. “
Ngoài hai tác phẩm của Đặng Trấn Côn và Nguyễn Gia Thiều, TS Bích còn trưng dẫn nội dung Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh của thi hào Nguyễn Du để dẫn tới kết luận là tất cả những nỗi khổ đau, ngang trái mà người dân phải gánh chịu do cuộc tranh bá đồ vương thời Trịnh Nguyễn không thấm vào đâu nếu so sánh với những gì những người tù như Nguyễn Chí Thiện và đồng bào ta dưới chế độ bạo tàn cộng sản, và ông nhấn mạnh:
“Trách gì NCT không phải viết lên những câu như:
’Tôi muốn kêu to trong câm lặng đen dày
Cho nhân loại trăm miền nghe thấy.’“
Trước khi kết thúc, TS Trần Huy Bích đã trích dẫn nhận định sau đây của nhà văn Trần Phong Vũ trong “Nguyễn Chí Thiện, Trái Tim Hồng”, tác phẩm mới nhất của ông, do Tiếng Quê Hương vừa phát hành nhận dịp húy nhật đầu cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện:
“Tuy NCT đã vĩnh viễn ra đi, nhưng trong mắt và trong hồn tôi như vẫn hiển hiện hình ảnh cô đơn, cam đành, khiêm tốn và bất khuất của một con người mà khi sống cũng như khi chết đã để lại trong tâm hồn người quen biết ông những cảm tình quý mến không thể phai nhòa.” (TPV, trang 56).
Thuyết trình viên thứ ba trong buổi hội thảo là giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, một trong những người đã giới thiệu thi phẩm Hoa Địa Ngục cũng như tập truyện Hỏa Lò của cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện với quần chúng độc giả nói tiếng Anh. Qua đề tài Nguyễn Chí Thiện và “vạn ngàn cơn thác loạn”, giáo sư Bích lần lượt vẽ lại những chặng đường đã dẫn đưa thơ Nguyễn Chí Thiện đi vào các vùng trời thế giới ngay từ giai đoạn đầu khi chưa ai biết tung tích tác giả là ai cũng như khi thi phẩm Hoa Địa Ngục vừa được ấn hành đầu thập niên 80 thế kỷ trước dưới những tên gọi khác nhau như Tiếng Vọng Từ Đáy Vực, Bản Chúc Thư Của Một Người Việt Nam.
Sau khi nhắc lại những nỗ lực không ngừng của nhiều dịch giả như Nguyễn Hữu Hiệu, Huỳnh Sanh Thông, Nguyễn Ngọc Quý, Bùi Hạnh Nghi nhằm giới thiệu thơ Nguyễn Chí Thiện cho các độc giả ngoại quốc và sự đóng góp của nhiều nhạc sĩ như Phạm Duy, Phan Văn Hưng, Trần Lãng Minh, Xuân Điềm v.v…trong việc phổ nhãc nhiều bài thơ trong Hoa Địa Ngục. giáo sư Nguyễn Ngọc Bích cho biết thêm:
“Phần tôi, tôi đồng-hành với anh Nguyễn Chí Thiện từ khá sớm. Dịch anh từ lúc thơ của anh mới ra ngoài này…:
Tháng 7/1982, tôi có bài trong Asiaweek giới-thiệu thơ anh và dịch trên 10 bài.
Tháng 9/1982, Hội Văn-hoá VN tại Bắc-Mỹ của tôi in Ngục Ca / Prison Songs, dịch 20 bài thành hát được. Sau tăng bổ, cuốn này được Quê Mẹ ở Pháp in ra thành ba thứ tiếng. Cuối năm 1996, nhóm Hoa Niên ở Úc lại xin phép in cuốn song ngữ của tôi để phổ-biến ở Úc.
Tháng 10/1989, Văn Bút Miền Đông in ra tuyển-tập tiếng Anh War & Exile: A Vietnamese Anthology (“Chiến-tranh và Lưu đày: Tuyển-tập Thơ văn VN Hiện-đại”) nhằm giới-thiệu văn-học VN với thế-giới nhân Hội-nghị Văn Bút Quốc Tế ở Montréal, Canada. Trong tập có giới-thiệu 30 trang thơ Nguyễn Chí Thiện. Ít năm sau, Jachym Topol dịch thơ anh sang tiếng Tiệp là dựa vào mấy bản Anh-dịch của tôi….
Một tuần sau khi anh Thiện đến Mỹ, vào ngày 8/11/1995, anh được mời lên Quốc-hội điều trần về tình-trạng nhân-quyền ở VN (Nguyễn Ngọc Bích thông-dịch). Ngày 26/11/1995, anh ra mắt đồng-bào Thủ-đô Hoa-kỳ ở Trường Luật George Mason University trước một cử-toạ kỷ-lục, ngồi chặt cứng giảng-đường. Ngày 21/4/1996, ra mắt tập Anh-dịch song ngữ Hoa Địa Ngục / The Flowers of Hell do Nguyễn Ngọc Bích dịch gần như toàn-bộ Hoa Địa Ngục I (khoảng 5/6 trên 400 bài), cũng ở Trường Luật George Mason. Để chuẩn-bị cho chuyến đi sang Úc, tôi dịch thêm một tuyển-tập nhỏ (gần 100 bài) mang tên Hạt Máu Thơ / Blood Seeds Become Poetry (tức Hoa Địa Ngục II)….”
Để kết thúc bài tuyết trình, giáo sư Nguyễn Ngọc Bích lớn tiếng nói với cử tọa:
“Nguyễn Chí Thiện can đảm, điều đó khỏi nói. Nhưng nếu chỉ can đảm thôi thì ta có thể ngưỡng mộ anh nhưng anh vẫn không thể thành một nhà thơ lớn. Cái lớn của Nguyễn Chí Thiện nằm ở chỗ anh đánh trúng đối-tượng, từ những cái rất tầm-thường trong đời sống của người dân (“Bà kia tuổi sáu mươi rồi / Mà sao không được phép ngồi bán khoai?”) đến cái khôi hài (“Miếng thịt lợn chao ôi là vĩ đại! / Miếng thịt bò lại vĩ đại bằng hai!”), ngộ nghĩnh (“Những thiếu nhi điển hình chế độ / Thuở mới đi tù trông rất ngộ. / Lon son không phải mặc quần / Chiếc áo tù dài phủ kín chân”), thương tâm (“Trên bước đường tù mà tôi rong ruổi / Tôi gặp hàng ngàn em bé như em.”) để rồi cuối cùng điểm thẳng mặt kẻ thù (“Tôi biết nó, thằng nói câu nói đó”)…
“…năm 1975, khi nghe thấy miền Nam tự do thất thủ, Nguyễn Chí Thiện đã thốt lên:
‘Vì ấu trĩ, thờ ơ, u tối,
Vì muốn an thân, vì tiếc máu xương
Cả nước đã quy về một mối
Một mối hận thù, một mối đau thương…
Miền Nam ơi, từ buổi tiêu tan
Ta sống trọn vạn ngàn cơn thác loạn!”
Ba vị được mời tham luận sau đó là bà Jean Libby, một người bạn thân của cố thi sĩ thuở sinh thời, luật sư nhà văn Trần Thanh Hiệp và một bạn trong nhóm Tuổi Trẻ Yêu Nước ở hải ngoại.
Xen kẽ những bài thuyết trình và tham luận trong buổi hội thảo là tiếng hát của Ban Tù Ca Xuân Điềm với những bài nhạc phổ từ thơ của cố thi sĩ. Ngoài nhiệm vụ chia sẻ vai trò MC với giáo sư Đỗ Anh Tài, dịp này nhà giáo Nguyễn Đình Cương cũng diễn đọc hai bài thơ Không Có Gì Quý Hơn Độc Lập Tự Do và Trái Tim Hồng của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện.
Phát hành sách:
Lồng trong khuôn khổ buổi hội thảo là phần phát hành tác phẩm Nguyễn Chí Thiện, Trái Tim Hồng cuả nhà văn Trần Phong Vũ do tủ sách Tiếng Quê Hương xuất bản vào tuần lễ tưởng niệm nhân giỗ đầu tác giả Hoa Địa Ngục. Trong dịp này, ông Trần Phong Vũ đã được mời lên diễn đàn để nói qua về nội dung và căn nguyên thúc đẩy ông bỏ công thực hiện tác phẩm này trong vòng 9 tháng, thới gian kỷ lục cho một tập sách về một con người vĩ đại như cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện.
(Độc giả muốn biết thêm về tác phẩm Nguyễn Chí Thiện,
“Trái Tim Hồng”, có thể liên lạc trực tiếp với tác giả Trần Phong Vũ qua điện thoại (949) 485 – 6078 hoặc Email: tphongvu@yahoo.com)
Trong bóng đêm đè nghẹt
Đã phục sẵn một mặt trời
Trong bóng tối không lời
Đã phục toàn cơn sấm sét
Trong lũ người đói rét
Đã phục sẵn một đoàn quân
Khi vận nước xoay vần
Tất cả thành nguyên tử!
NCT
Sẽ có một ngày con người hôm nay
Vứt súng,vứt cùm,vứt cờ,vứt đảng
Xoay ngang vòng nạn oan khiên
Về với miếu đường,mồ mả gia tiên
Mất chục năm trời bức bãnh lãng quên
Bao nhiêu thù hận tan vào hương khói
Sống sót chở về phúc phận an thân
Kẻ bùi ngùi hối hận,kẻ kính cẩn dâng lên
Này vòng hoa tái ngộ
Đặt lên mộ cha ông
Khai sáng kỷ nguyên mới
Tã trắng thắng cờ hồng
NCT
NGUYỄN CHÍ THIỆN ra đi
nhưng để lại “TRÁI TIM HỒNG”
Mặc Giao
Tính đến đầu tháng 10 – 2013, nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đã từ bỏ cõi trần được một năm. Ông ra đi, để lại cho nhân gian một trái tim hồng, như hai câu thơ trăn trối của ông
Một trái tim hồng với bao chan chứa
Ta đặt lên bờ dương thế, trước khi xa
Nhà văn Trần Phong Vũ đã lấy lời và ý của hai câu thơ trên để đặt tên cho cuốn sách mới nhất của mình: “Nguyễn Chí Thiện, Trái Tim Hồng”, do Tủ Sách Tiếng Quê Hương ấn hành. Có lẽ tôi là một trong những người may mắn được đọc soạn phầm này rất sớm, dưới dạng bản thảo, trước khi được gửi sang Đài Loan in.
Trần Phong Vũ suy nghĩ, tìm tài liệu và viết cuốn sách trong vòng chưa đầy 10 tháng. Có người nghĩ Trần Phong Vũ là bạn tâm giao với Nguyễn Chí Thiện trên 10 năm, nếu viết xong cuốn sách về bạn trong 10 tháng thì cũng không có gì đáng lạ. Sự thật không giản dị như thế. Có mấy ai gom góp, lưu trữ tác phẩm, tài liệu, bằng chứng, hình ảnh của bạn để chờ bạn chết là viết thành sách liền đâu? Trong đôi giòng trước khi vào sách, chính Trần Phong Vũ đã thú nhận:
“Có thể vì một mối âu lo, sợ hãi thầm kín nào đó, tôi không muốn phải đối diện với nỗi đau khi một người thân vĩnh viễn chia xa. (…) hơn một lần trao đổi với nhau về cái chết một cách thản nhiên, coi như một điều tất hữu trong kiếp sống giới hạn của con người. (…) nhưng trong thâm tâm vẫn tự đánh lừa mình theo một cách riêng để cố tình nhìn cái chết dưới lăng kính lạnh lung, khách quan, nếu không muốn nói là vô cảm. Nói trắng ra chuyện chết chóc là của ai khác chứ không phải là mình, là người thân của mình!…
Dù là một người viết, nhưng suốt những năm tháng dài sống và sinh hoạt bên nhau, chưa bao giờ tôi nghỉ tới việc chuẩn bị, tích lũy những chứng từ, tài liệu, dữ kiện và hình ảnh cần thiết để viết về một khuôn mặt lớn như Nguyễn Chí Thiện, nếu một mai ông giã từ cuộc sống”.
Vậy mà Trần Phong Vũ đã viết được một cuốn sách 560 trang, trong đó có 48 trang hình mầu, thêm phần Phụ Lục in những bài viết về Nguyễn Chí Thiện của 28 tác giả. Tác phẩm này là một tổng hợp có thể coi là đầy đủ về nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, người còn được gọi là “ngục sĩ” vì ông đã nếm cảnh ngục tù tổng cộng 27 năm trong số 56 năm ông sống trên quê hương.
Ông làm thơ rất sớm, và cũng đi tù rất sớm, trước tuổi 20, từ cuối thập niên 50, đầu thập niên 60 thế kỷ trước. Ông viết những vần thơ phẫn nộ khi nhìn tận mắt những cảnh “đào tận gốc trốc tận rễ” của cuộc cải cách ruộng đất và cảnh đầy đọa những người dính líu xa gần tới vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Cuộc đời, thi tài và nỗi lòng của ông đã được Trần Phong Vũ trình bầy chi tiết. Tôi chỉ chia sẻ một số cảm nghĩ qua những tiết lộ và khám phá của Trần Phong Vũ liên quan đến Nguyễn Chí Thiện.
Khám phá đầu tiên là hành trình tâm linh của Nguyễn Chí Thiện. Tôi không muốn đem vấn đề tôn giáo ra tranh cãi với bất cứ ý định nào. Nhưng tôi buồn vì thấy đời độc ác qúa, tâm địa của một số người tối tăm, hẹp hòi quá. Một người làm thơ tranh đấu cho quyền của con người, đặc biệt con người Việt Nam, đã can đảm chấp nhận mọi đau khổ, thua thiệt, lãnh đủ thứ đòn thù, lúc gần chết ở tuổi 73 quyết định chọn một tôn giáo để theo, mà có những kẻ nỡ lòng lăng mạ ông “bị dụ dỗ lúc tinh thần không còn sáng suốt, để cho đám qụa đen cướp xác, cướp hồn (!)”
Qua những tiết lộ của Trần Phong Vũ, người ở bên ông trong 6 ngày cuối đời, người ta mới biết chính Nguyễn Chí Thiện ngỏ ý xin vào đạo lúc còn tỉnh táo. Đây không phải là một hành động bốc đồng trong một lúc khủng hoảng thần kinh, nhưng là kết qủa của một qúa trình tìm hiểu và suy nghĩ từ nhiều năm. Chính Linh Mục Nguyễn Văn Lý cho biết Linh Mục đã dậy giáo lý cho Nguyễn Chí Thiện tổng cộng trên một năm trời khi hai người cùng trong tù cộng sản.
Cụ Vũ Thế Hùng, thân sinh của LM Vũ Khởi Phụng hiện phụ trách giáo xứ Thái Hà, Hà Nội, bạn đồng tù với Nguyễn chí Thiện, đã nhận nhau là bố con tinh thần. Không kể những liên hệ và gặp gỡ khác, chỉ cần hai trường hợp này đã đủ để chứng minh Nguyễn Chí Thiện không thể bị dụ dỗ và u mê lấy một quyết định quan trong về tâm linh vào lúc cuối đời. xin hãy tôn trọng niềm tin của nhau. Hận thù tôn giáo là một tội rất lớn vì nó đã gây biết bao tang tóc cho nhân loại, và vi phạm quyền tự do cao qúy nhất của con người.
Về vấn đề tác giả và tác phẩm, có thể nói Trần Phong Vũ là người đầu tiên đã phân tích cặn kẽ về ý và lời của thơ Nguyễn Chí Thiện. Tác giả đã dành nguyên một phần của cuốn sách để trình bầy vấn đề này. Sau đó ông đưa nhận xét:
“Trước hết, vì Nguyễn Chí Thiện là một nhà thơ có chân tài. Tài năng ấy lại được chắp cánh bay nhờ lòng yêu nước… Tất thảy đã trang bị cho nhà thơ một khối óc siêu đẳng, một cặp mắt tinh tế, một trái tim bén nhậy, biết thương cảm trước nỗi khổ đau của con người, biết biện phân thiện ác, chân giả giữa một xã hội điên loạn, gian manh, trí trá”.
Nhận xét của Trần Phong Vũ cũng không xa với ý kiến của TS Erich Wolfgang người Đức mà ông trích dẫn trong chương 5 để lý giải cho câu hỏi: “Chiến sĩ, Ngục sĩ hay Thi sĩ” với mục tiêu trả lại cho nhà thơ vị trí đích thực của ông:
“Tình thương trong thơ Nguyễn Chí Thiện đã chọc thủng tường thành tù ngục và đã vượt mọi chướng ngại của đồng lầy để đến với chúng ta ở Đức, ở Cali, Maderia, hay bất cứ nơi nào khác”.
Ý thơ thì như vậy. Lời thơ, tứ thơ thì ra sao? Dĩ nhiên không thể tìm trong thơ Nguyễn Chí Thiện một thứ “yên-sĩ-phi-lý-thuần” (inspiration) về tình ái hay cảm hứng khi đối cảnh sinh tình, như giữa cảnh trăng tà, sương khói mơ hồ, ánh đèn chài le lói trên sông, mà xuất khẩu thành thơ
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cảm hứng, ngôn từ trong thơ Nguyễn Chí Thiện phải là những lời diễn tả sự đau sót, phẫn nộ của một nhân chứng trước những cảnh đầy đọa mà đồng loại và chính mình là nạn nhân. Thơ của Nguyễn Chí Thiện là những bản cáo trạng, đề tài không thể là viễn mơ, thi từ không phải là thứ gọt dũa cho đẹp. Tôi rất tâm đắc với Luật sư nhà văn Trần Thanh Hiệp khi ông nhận xét về thơ Nguyễn Chí Thiện khi Nguyễn Chí Thiện còn đang ngồi tù ở Việt Nam:
“Thơ của ông (Nguyễn Chí Thiện) là chất liệu của văn học Việt Nam từ đầu hậu bán thế kỷ 20. Trong đổ vỡ, hoang tàn, ông đã tồn trữ được cả một kho ngôn ngữ. Trong cuộc giao tranh giữa những thế lực tiến bộ và phản động của một xã hội đang chuyển mình để thay đổi vận mạng, ông cho thấy người làm thơ nên chọn thái độ nào. Ông đã đóng góp bằng tác phẩm Hoa Địa Ngục vào cuộc tranh luận rất cổ điển giữa hai quan niệm về thơ thuần túy và thơ ngẫu cảm. Ông lảm thơ như Goethe đã nói từ đầu thập kỷ trước – ‘Thơ của tôi là thơ ngẫu cảm, xuất phát từ thực tế và dựa trên thực tế. Tôi không cần đến những loại thơ bâng quơ’ “ (Nguyệt San Độc Lập, 25/5/1988 được tác giả họ Trần trích dẫn trong cùng chương 5 và đưa nguyên văn bài viết vào phấn phụ lục).
Đúng như vậy. Thơ của Nguyễn Chí Thiện không phải là thơ bâng quơ để chỉ phục vụ cái Mỹ, nhưng trước hết là thơ tranh đấu để đòi cái Chân và Thiện. Phải chăng chính vì thâm cảm được tấm lòng và ý chí bạn ông như thế -một tấm lòng, một ý chí đã có sẵn trong máu từ thuở nằm nôi-, nên tác giả Trần Phong Vũ từng viết: “…từ bên kia thế giới hẳn rằng song thân nhà thơ họ Nguyễn không thể khơng hài lòng vì đã chọn tên “Chí Thiện” đặt cho người con trai thứ của mình”.
Tản mác trong suốt 12 chương chính của tác phẩm, khi đề cập nỗi lòng của nhà thơ, Trần Phong Vũ đã nhiều lần kể lại những lời tâm sự mà Nguyễn Chí Thiện đã chia sẻ với ông. Trong chương thứ nhất viết về “Những ngày tháng lưu đầy” nơi hải ngoại của cố thi sĩ, nhà văn họ Trần cho hay vào một buổi chiều trên bãi biển Huntington Beach, Nam California, tác giả thi phẩm Hoa Địa Ngục âm thầm thú nhận khi mới đặt chân ra ngoài này ông tưởng đây là cơ hội để ông thực hiện giấc mơ thời trẻ, đó là được tự do sống một đời giang hồ, phiêu bạt.
Nhưng không, “nó chỉ là cái bề mặt che dấu nỗi uất hận bùng bốc trong tim mà không có cơ hội bộc phát, tương tự như dung dịch phún thạch cháy đỏ chất chứa trong lòng hỏa diệm sơn”. Ai cũng hiểu cái uất hận đó là gì. Nhất là khi nó được biểu lộ bằng hành động và lời nói của Nguyễn Chí Thiện khi ông đi khắp nơi trên địa cầu để tố cáo sự tàn ác, vô nhân của chế độ cộng sản Việt Nam, tìm cách ảnh hưởng dư luận quốc tế và kêu gọi đồng bào chung tay lật đổ chế độ này để cứu dân cứu nước.
Ông có nỗi buồn bực khác không nói ra khi một số người xuyên tạc ông là Nguyễn Chí Thiện giả, được cộng sản Việt Nam đưa ra ngoại quốc để phá cộng đồng tỵ nạn. Chỉ cộng sản mới có lợi khi tung ra tin thất thiệt này, vì chỉ với một nghi ngờ không cần kiểm chứng, uy tín của Nguyễn Chí Thiện sẽ bị sứt mẻ, những lời tố cộng của Nguyễn Chí Thiện sẽ bị một số người bỏ ngoài tai.
Còn những người vu oan cho ông mà không phải là cộng sản thì sao? Chúng tôi không có thói quen thấy ai không đồng ý với mình thì lập tức cho mang cho họ dép râu, nón cối. Nhưng thú thật chúng tôi không thể hiểu nổi việc làm của những người đánh phá Nguyễn Chí Thiện khi trong thực tế nó còn tàn bạo hơn cộng sản. Cuối cùng chúng tôi chỉ dám tạm kết luận rằng ai biết được ma ăn cỗ? Ai biết được những âm mưu ẩn giấu bên trong việc tranh dành quyền lợi quanh nhân vật Nguyễn Chí Thiện? Ai rõ được những hận thù giữa các cá nhân và phe phái dùng câu chuyện Nguyễn Chí Thiện “thật/giả” để làm cái cớ tạo nên cảnh đánh đấm lẫn nhau?
Nguyễn Chí Thiện đã được nghệ sĩ Thanh Hùng, người cùng quê, quen biết nhau từ nhỏ xác nhận, đã được các bạn tù Nguyễn Văn Lý, Phùng Cung, Kiều Duy Vĩnh, Vũ Thư Hiên… thương mến, cảm phục, nhất là có người anh ruột Nguyễn Công Giân, trung tá trong quân lực VNCH, bảo lãnh sang Mỹ. Vậy mà họ vẫn nói đó là Nguyễn Chí Thiện giả!? Họ gạt bỏ luôn cả kết qủa giảo nghiệm chữ viết và nhân dạng/diện dạng của Nguyễn Chí Thiện trước và sau khi đi định cư tại Hoa Kỳ.
Họ cứ nằng nặc cho rằng đây là Nguyễn Chí Thiện giả do Hà Nội gửi sang Mỹ. Nếu đúng như vậy, chúng ta cầu cho cộng sản gửi ra hải ngoại thêm vài ngàn, thậm chí cả “mười ngàn Nguyễn Chí Thiện giả” cùng loại nữa như câu nói đùa của giáo sư Trần Văn Tòng, bào huynh liệt sĩ Trần Văn Bá[1] khi tâm sự với tác giả Trần Phong Vũ trong một loạt Email trao đổi giữa hai người cuối năm 2008, trước và sau cuộc họp báo của cố thi sĩ ở khách sạn Ramada, nam California tháng 10 năm ấy. Nội dung những Email này đã được đưa vào phần phụ lục tác phẩm “Nguyễn Chí Thiện, Trái Tim Hồng”. Lúc đó chúng ta sẽ khỏi cần mất công làm công tác phản tuyên truyền cộng sản ở hải ngoại!
Một nỗi buồn khác của Nguyễn Chí Thiện là sức khỏe suy yếu. Sau bao nhiêu năm tù đầy, thiếu ăn, thiếu thuốc, bị hành hạ cả tinh thần lẫn thể xác, nên khi sang tới Mỹ, nhà thơ chỉ còn một cái đầu minh mẫn, thân xác thì vật vờ, “tim phổi nát bét cả rồi”. Ông sống thêm được 17 năm ở hải ngoại là một phép lạ. Ông đã thổ lộ với Trần Phong Vũ:
“Tôi biết tôi sẽ không còn sống nổi tới ngày chế độ cộng sản tàn lụi đâu, dù căn cứ vào tình hình đất nước gần đây, tôi phỏng đoán sẽ không còn bao xa nữa”.
Hy vọng ông sẽ sớm được chia niềm vui lớn với đồng bào, dù ông đang ở cõi khác.
Cuối cùng là tiết lộ khá lý thú về chuyện tình ái của Nguyễn Chí Thiện. Ai cũng thấy nhà thơ sống độc thân, thái độ nghiêm túc, lời nói chuẩn mực, hầu như không biểu lộ một tình cảm riêng tư với một bà, một cô nào, dù con số những người khác phái quý mến ông không thiếu. Có người nghĩ nhà thơ đã chán hay không biết đến tình yêu.
Sự thật, ông đã kể hết cho Trần Phong Vũ về những mối tình của mình. Không nói chuyện xa xưa, ngay những năm tháng cuối đời, Nguyễn Chí Thiện cũng có vài ba mối tình một chiều từ phiá nữ và một mối tình hai chiều mà ông ấp ủ trong lòng. Ông đâu phải là gỗ đá, lại là người viết văn, làm thơ, nên phải thuộc nòi tình, như thi hào Tản Đà từng thú nhận[2]. Người tình hai chiều ở xa, muốn đến thăm ông tại Cali, ông không chấp thuận. Sao ông nỡ từ chối như vậy? Ông thổ lộ chỉ sợ khi gặp nhau, tình cảm sẽ đi xa hơn, ai biết được những gì sẽ xảy ra, hậu qủa chắc chắn sẽ buồn hơn là xa nhau mà thương nhau, nhớ nhau.
Lý do ông không muốn gắn bó với một người tình nào vì ông biết mình nhiều bệnh tật, thiếu sức khỏe, không chiều chuộng, chăm lo được cho người yêu, và không muốn tạo nên cảnh bẽ bang cho cả hai nguời, nhất là không muốn người yêu lại trở thành một thứ y tá bất đắc dĩ cho mình sau này.
Ngoài ra, ông còn ôm những nỗi niềm riêng trong lòng, không thể đem cả thân xác lẫn tâm hồn để yêu nhau. Vì vậy, đành phải xa nhau tuy lòng rất đau đớn. Rất may là ông đã kịp làm một bài thơ để âm thầm giãi bày cùng nàng, trước khi rời khỏi trần gian. Nói là âm thầm, vì bài thơ ngắn này ông tính giữ cho riêng mình và chỉ đọc cho tác giả họ Trần nghe trong những ngày tháng cuối đời mà thôi.
Tôi, một kẻ lạc loài
Một gã đàn ông đã xa lắm rồi
cái thời trai trẻ
Nhưng em vẫn yêu tôi bằng mối chân tình
mênh mông trời bể
Điều nghịch lý là tôi cũng yêu em
khi biết trước rằng mình không thể…
Và như thế
trong âm thầm
cam đành
lặng lẽ
chia xa!
Ngoài kia sương gió nhạt nhòa
trăng buồn
thổn thức
Đúng là một mối tình buồn!
Và ai dám nói đây là Nguyễn Chí Thiện “giả”, không biết làm thơ!?
Được biết thêm về Nguyễn Chí Thiện qua cuốn sách của Trần phong Vũ, tôi càng thêm qúy mến cố thi sĩ, người tôi đã qúy mến ngay trong những lần gặp gỡ đầu tiên tại các thanh phố Edmonton và Calgary ở Canada, không lâu sau khi Nguyễn Chí Thiện đến Hoa Kỳ. Nhờ được giao công tác tiếp đón và giới thiệu nhà thơ trong các cuộc hội họp với đồng hương, tôi đã nhận ra lập trường, tài năng và nhân cách khác thường của tác giả Hoa Địa Ngục.
Sau đó, qua những lần gặp gỡ khác tại Hoa Kỳ, tôi càng thấy sự hy sinh chịu khó của Nguyễn Chí Thiện trong việc tham gia sinh hoạt với các tổ chức đấu tranh và các cơ quan truyền thông của đồng bào hải ngoại. Tấm thân già bệnh hoạn với những bước đi chậm chạp, nhưng khi đứng trước micro là giọng nói sang sảng, đanh thép vang lên, với những lập luận vững chắc, với những kinh nghiệm đã trải qua, tất cả dựa vào trí nhớ còn bén nhậy, không cần giấy ghi chi tiết. Nguyễn Chí Thiện là một chiến sĩ đã chiến đấu cho đến lúc hơi tàn lực cạn.
Với cuốn “Nguyễn Chí Thiện, Trái Tim Hồng”, Trần Phong Vũ đã làm một việc cần thiết và hữu ích. Cần thiết vì ông đã dành hết tâm lực cuối đời để ghi lại được những di sản tinh thần quý giá của một nhà thơ chiến sĩ, đã hy sinh trọn tuổi thanh xuân để làm nhân chứng cho sự tàn bạo của cộng sản và để đấu tranh nhằm giải thoát quê hương, đồng bào khỏi sự tàn bạo ấy. Hữu ích vì tấm gương của Nguyễn Chí Thiện cần phải được phổ biến bây giờ và mai sau cho nhiều người, nhất là người trẻ, để họ đừng chỉ nghĩ đền mình, biết sống chan hòa với mọi người như cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện, biết hy sinh tranh đấu cho sự thật, công lý và những giá trị thiêng liêng của con người.
Trần phong Vũ đã vất vả hoàn thành tác phẩm trong một thời gian kỷ lục, nhưng sau đó chắc ông vui vì đã làm được một việc ý nghiã để tạ lòng người tri kỷ. Trần Phong Vũ đã viết hồi ký thay cho Nguyễn Chí Thiện. Một thứ hồi ký không xưng hô ở ngôi thứ nhất. Nhưng ở ngôi thứ ba.
Cám ơn tác giả họ Trần, và ở cõi khác, hẳn rằng nhà thơ Nguyễn Chí Thiện không thể không ngậm cười vì những gì ông gửi gấm trong bài Trái Tim Hồng, được sáng tác vào năm 1988, sau 24 năm trong nhà tù cộng sản, khi thân xác ông hoàn toàn suy kiệt để trong một phút cảm khái đã viết nên bài thơ, như một lời trối gửi lại những đồng bào còn sống trước khi trở về với cát bụi.
“Ta có trái tim hồng ,
Không bao giờ ngừng đập
Cam giận, yêu thương, tràn ngập xót xa
Ta đang móc nó ra
Làm quà cho các bạn
Mấy chục năm rồi
Ta ngồi đây
Sa lầy trong khổ nạn
Như con tàu vượt trùng dương mắc cạn
Mơ về sóng nước xa khơi
Khát biển, khát trời
Phơi thân xác trong mưa mòn, nắng rỉ
Thân thế tàn theo thế kỷ
Sương buồn nhuộm sắc hoàng hôn
Ký ức âm u, vất vưởng những âm hồn
Xót xa tiếc nuối!
Ta vẫn chìm trôi trong dòng sông đen tối
Lều bều rác rười tanh hôi!
Hư vô ơi, cập bến đến nơi rồi!
Cõi bụi chờ mong chi nữa!
Một trái tim hồng với bao chan chứa
Ta đặt lên bờ dương thế… trước khi xa!
(1988 – Hoa Địa ngục –
trang 348/349, Tổ hợp Xuất bàn Miền Đông)
Mặc Giao
Calgary, Canada một đêm cuối tháng 8 năm 2013
—————————————————————
[1] Liệt sĩ Trần Văn Bá là con trai cố Giáo sư Trần Văn Văn, em Giáo sư Trần Văn Tòng. Ông Bá từng là người đầu tiên sau tháng tư năm 75 bỏ Pháp về Việt Nam với chí nguyện thành lập một lực lượng chống lại chế độ cộng sản, nhưng bất hạnh ông đã bị CS bắt và xử tử hình năm 1985. Ông được Sáng hội Tượng đài Nạn nhân Chủ nghĩa Cộng sản tại Mỹ truy tặng huy chương Tự Do Truman–Reagan năm 2007.
.
[2] “Ta vốn nói tình, thương người đồng điệu” – |
Thơ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu
TIỄN BƯỚC ANH, NGƯỜI THƠ BẤT KHUẤT
(Tiễn chân Ngục sĩ NGUYỄN CHÍ THIỆN, người Thi Sĩ Đấu Tranh cho một Việt Nam Không Cộng Sản, từng bị bạo quyền Việt cộng nhốt tù 27 năm, vừa bỏ lại đau thương của dâu biển kiếp người để về nơi bình an miên viễn sáng ngày 2/10/2012 tại miền đất tạm dung, Nam California, Mỹ Quốc)
Người bạn gọi báo tin anh vừa mất
Tôi thấy lòng mình chùng xuống, mênh mông
Anh đi rồi à ? Người Thơ Bất Khuất …
Để lại dòng thơ máu lệ Lạc Hồng !
Ôi những dòng thơ viết trong ngục tối
Xiềng xích, gông cùm, đói, bịnh, hờn đau
Đấy, tội ác của tà quyền Hà Nội
Bán nước, giết dân, luồn cúi Nga-Tàu !
Tôi đọc thơ anh, lòng đau muối xát
Thương quá tài năng, xót quá phận người
Hai muơi bảy năm hung đồ chà đạp
Thơ vẫn hiên ngang, hào khí tung trời
Thơ đã bay cao vang rền bốn cõi
Lay gọi người trúng độc tỉnh cơn mê
Giục nhân loại, lương tâm, lên tiếng nói
Về một Việt Nam thảm khốc, ê chề …
Đã sắp rồi anh ngày quê quang phục
Dân vùng lên đòi quyền sống con người
Lấy máu Tiên Rồng rửa hờn quốc nhục
Chính nghĩa, cờ Vàng rực rỡ muôn nơi
Sáng hôm nay tôi nghe tin anh mất
Bỏ lại đau thương dâu biển kiếp người
Anh biết đấy, khi buồn vui chất ngất
Bút sẽ thành thơ chảy với dòng đời
Tôi viết bài thơ tiễn anh về đất
Lòng đất hiền, anh ngủ nhé, ngàn thu …
Thôi, đã hết, đời không còn oan khuất
Chỉ còn Thơ chiến đấu diệt quân thù.
— Ngô Minh Hằng
Chiều tháng Sáu (thơ: Nguyễn Chí Thiện; nhạc: Phan Văn Hưng), qua tiếng hát Phan Văn Hưng (audio nhạc)
VĂN BÚT QUỐC TẾ TƯỞNG NHỚ VÀ THƯƠNG TIẾC THƯƠNG THI SĨ NGUYỄN CHÍ THIỆN
Từ ngày qua Mỹ đến nay nhà thơ Nguyễn Chí Thiện được mời đi nói chuyện khắp nơi trên thế giới để tố cáo tội ác CSVN, tiếp xúc nhiều với các chính trị gia, các đảng phái, các vị trong giới lãnh đạo…đâu đâu ông cũng được đón tiếp niểm nở.
Ông được Nghị Viện Quốc Tế các Nhà văn (International Parliament of Writers) mời đến nghỉ ở miền Ðông nước Pháp, đài thọ cho ông qua hai năm liên tiếp chỉ để “ngồi viết cái gì mà ông muốn” và tập truyện ngắn Hoả Lò ra đời từ đó.
Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện được vinh danh và
nhận lãnh nhiều giải thưởng quốc tế như :
-Giải thưởng Thơ Rotterdam Hoà Lan (1984),
-Giải thưởng “Tự Do Ðể Viết (” Freedom To Write”)
của Trung tâm Văn Bút Hoa Kỳ,
– Giải Nhân Quyền của tổ chức Human Rights Watch (1995),
Và tên tuổi ông được ghi vào từ điển “Who’s Who in
Twentieth- Century World Poetry” in ở Anh Quốc
tháng 2-2001 và lần 2 ở Ðức năm 2002.
Thơ ông đã được dịch sang nhiều thứ tiếng, được các văn thi sĩ quốc tế ngợi khen trong đó đa số là các nhà văn trước kia sống dưới chế độ CS như Paul Goma(Lỗ Ma Ni), Pierre Kende (Hung Gia LợI),Vladimir Maximov(Nga), Leonid Plioutch (Ukraine), Alexandre Smolar (Ba Lan), Pavel Tigrid (Tiệp Khắc), Erich Wolfgang Skwara (Ðức)
Và đặc biệt hơn cả là bản dịch ra tiếng Ðức của giáo sư Tiến sĩ Bùi hạnh Nghi đã được đưa vào chương trình “Ðọc Sách hay” trong các trường trung học đệ nhị cấp ở tiểu bang Bayern Ðức Quốc.
Ngoài ra trong số này còn có 14 bài thơ cũng đưọc Gunter Mattitsch, nhạc sĩ người Áo phổ nhạc trình diễn trước công chúng Áo ở Klagenfurt ngày 20-10-1995.
Theo tại liệu trong Hoa Ðịa Ngục
1&2 xuất bản năm 2006)
AUDIO ĐẶC BIỆT GIỖ 100 NGÀY NGUYỄN CHÍ THIỆN
Nhà văn Trần Phong Vũ nói về khí phách và tâm tư
thi sĩ Nguyễn Chí Thiện, qua nội dung và ý nghĩa
những bài thơ làm trong nhà tù cộng sản khổ nhục.
Bài nói chuyện trên PALTALK thực hiện vào Chúa Nhật
ngày 6 tháng 1, 2013 nhân Giỗ 100 ngày cố thi sĩ
Nguyễn Chí Thiện khuất núi, ra đi về cõi miên viễn.
to listen:
http://www.freevietnews.com/audio/Oct142012_NgucSi_NCThienVaNhungSuKienBatNgo_TranPhongVu.m3u
To download
http://www.freevietnews.com/audio/Oct142012_NgucSi_NCThienVaNhungSuKienBatNgo_TranPhongVu.mp3
“Quan, Quần, Hưng, Oán”
trong thơ Nguyễn Chí Thiện
Một số tổ chức đã phối hợp thực hiện buổi lễ tưởng niệm thi sĩ Nguyễn Chí Thiện tại phim trường đài Truyền Hình VHN từ 2 đến 4 giờ Chúa Nhật, ngày 06-01-2013. Buổi tưởng niệm đã
được truyền hình trực tiếp.
Trần Phong Vũ
Nhân Giỗ 100 ngày cố Thi Sĩ Nguyễn Chí Thiện, bàn về tôn chỉ “Quan, Quần, Hưng, Oán” trong thơ ông
Trong Lời Tựa thi phẩm Hoa Địa Ngục do Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông, Hoa Kỳ ấn hành năm 2006, cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện viết:
“Khổng Tử có lời luận về thơ như sau: ‘Thi khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ hưng, khả dĩ oán’, nghĩa là thơ có khả năng giúp ta biết nhìn nhận, biết tập hợp, biết hưng khởi, biết oán giận’. Suốt cuộc đời làm thơ, lúc nào tôi cũng theo tôn chỉ ‘Quan, Quần, Hưng, Oán’ đó, vì tôi nghĩ nó tóm tắt khá đủ về chức năng của thơ”.
Với thái độ khiêm tốn cố hữu – và cũng có thể do ý hướng của một nhà thơ luôn cầu toàn – tác giả Hoa Địa Ngục viết tiếp: “Nhưng do năng lực giới hạn, thơ tôi chưa đạt được bốn tiêu chuẩn trên.”
Mời độc giả cùng người viết, đọc và tìm hiểu thơ Nguyễn Chí Thiện để coi tác giả đã đạt được đến đâu qua tôn chỉ Quan, Quần, Hưng, Oán theo lời bàn của Khổng Phu Tử
Thi khả dĩ quan
Thơ có khả năng giúp ta biết nhìn nhận. Nhìn nhận cái gì nếu không là những hình tượng của người, vật hoặc sự việc diễn tả trong câu thơ hoặc toàn bộ bài thơ, từ dấu tích bề ngoài cho tới những ý tưởng hàm ngụ bên trong và đàng sau người, vật hoặc sự việc.
Đan cử bài “Một tay em trổ…” trang 211 Hoa Địa Ngục:
“Một tay em trổ: Đời xua đuổi!
Một tay em trổ: Hận vô bờ!
Thế giới ơi, ngươi có thể ngờ
Đó là một tù nhân tám tuổi!
Trên bước đường tù, tôi rong ruổi
Tôi gặp hàng nghìn em bé như em!”
(1971)
Qua sáu câu thơ ngắn ngủi trên đây, bằng cặp mắt quan sát và bằng khối óc suy tư, -với tầm hiểu biết sơ đẳng-, người đọc nhìn thấy và nhận ra ngay dáng vẻ bề ngoài dị thường của một em bé với những vết chàm mang tự dạng trên hai tay. Một bên là ba chữ Đời xua đuổi, và bên kia: Hận vô bờ! Tác giả thảng thốt kêu lên: liệu thế giới ngoài kia có thể ngờ rằng đấy chính là nhân dạng của một tù nhân lên tám?
Rồi qua hai câu cuối, tác giả cho người đọc biết thêm: trên bước đường rong ruổi lăn lộn hết nhà tù này sang nhà tù khác dưới chế độ cộng sản trong ngót ba thập niên, ông đã từng bắt gặp hàng nghìn tù nhân “con nít” như thế!
Nhìn dáng vẻ bề ngoài dị dạng với nét chữ xâm trên tay của em bé tù nhân, người đọc không thể không nêu lên câu hỏi: tại sao lại đời xua đuổi? và tại sao lại hận vô bờ? Rồi ngay lập tức câu trả lời hiện ra trong trí: xã hội, chế độ đã xua đuổi, trù giập em. Từ đấy đã để lại trong em mối hận thù chất ngất khôn nguôi! Xa hơn, trong trí người đọc thơ Nguyễn Chí Thiện còn nảy sinh biết bao câu hỏi về nguyên nhân, hệ quả của những thế hệ trẻ thơ bất hạnh đang kéo dài kiếp sống vất vưởng trên đất nước ta hôm nay. Nó là hậu quả tất nhiên của một xã hội băng hoại, một nền giáo dục suy đồi xuống giốc tại Việt Nam mà qua những thông tin được gửi ra hàng ngày ai cũng biết.
Năm 1966, tức 5 năm trước đó, trong bài “Những thiếu nhi…” trang 139-140, Hoa Địa Ngục, tác giả viết:
“Những thiếu nhi điển hình chế độ
Thuở mới đi tù trông em thật ngộ!
Lon xon không phải mặc quần
Chiếc áo tù dài phủ kín gót chân
Giờ thấm thoát mười năm đã lớn
Mặt mũi vêu vao, tính tình hung tợn
Mở miệng là chửi bới chẳng từ ai
Có thể giết người vì củ sắn, củ khoai!
(1966)
Vẫn chỉ là những nét chấm phá hình ảnh của một em nhỏ sớm sa chân vào vòng lao lý trong chế độ cộng sản Việt Nam. Khác chăng là ở đây nhà thơ đã cho người đọc thấy rõ những đổi thay từ tính khí tới nhân dáng bề ngoài của một em bé dễ thương, ngộ nghĩnh –cho dẫu đấy là cái dễ thương, ngộ nghĩnh “cười ra nước mắt” của những ngày đầu mới chân ướt chân ráo bị đẩy vào tù, còn ở truồng với “chiếc áo tù dài phủ kín gót chân”, cho tới khi trở thành một thanh niên hung hãn, bặm trợn, máu lạnh, có thể chỉ vì miếng khoai, củ sắn mà biến thành kẻ sát nhân, hậu quả của 10 năm được đảng và chế độ cộng sản đào luyện trong gông cùm, sắt máu!
Với cách diển tả cô đọng, hiện thực, chỉ trong 8 câu thơ ngắn, Nguyễn Chí Thiện đã vẽ ra trước mắt người đọc một chuỗi những hoạt hình linh động đầy kịch tính. Trong số 700 bài thơ trong toàn tập thi phẩm Hoa Địa Ngục, người đọc bắt gặp không ít những lời thơ đơn sơ, mộc mạc, dễ tiếp nhận như hai bài trích dẫn trên đây. Chi tiết này đã được chính ông xác nhận trong bài đọc Tuyển Tập thơ văn của người viết(1) khoảng ngót một tháng trước khi ông phải vào bệnh viện. Đây là bài viết duy nhất cùng loại và là bút tích cuối cùng của tác giả Hoa Địa Ngục trước khi từ giã cõi đời.
Nguyễn Chí Thiện viết:
“Tôi là người làm thơ. Nhưng hầu hết thơ của tôi được ghi lại trong cảnh tù đày, mang nặng những đau thương, uất nghẹn của thân phận con người (…) Nó là những hiện thực trần trụi, đơn sơ, không có tu từ văn chương, đọc thấy ngay, hiểu ngay…”
Thi khả dĩ quần
Thơ có khả năng giúp ta biết hợp quần, liên kết. Vẫn nội dung hai bài thơ sáu và tám câu trên đây, người đọc thấy văng vẳng đâu đó một lời mời gọi những con người còn có lương tâm phải hợp quần, phải chung lưng đấu cật để cùng nhau làm một cái gì hầu xóa tan đi cái thảm trạng những mái đầu xanh bị đọa đày một cách bất nhân, vô đạo. Là những người đang sống giữa một xã hội văn minh, dân chủ, tự do, chúng ta thấy tuổi thơ được tôn trọng, bảo vệ như thế nào.
Chính từ cảm nhận ấy, những lời thơ gọi là “trần trụi, đơn sơ” trên đậy của cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện quả thật đã có tác dụng liên kết mọi người thành một khối, biết gác ngoài mọi tư kiến, tư hiềm để cùng dấn thân vào một cuộc vận động chung hầu xóa tan đi những cảnh tượng đau lòng mà những ai còn có lương tâm, biết nghĩ tới tương lai quốc gia dân tộc không thể làm ngơ.
Bằng cái nhìn và lối suy nghĩ chủ quan, tôi rất tâm đắc và đánh giá cao bài “Sẽ có một ngày…” trong thi phẩm Hoa Địa Ngục của cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện. Ngoài giá trị nhân bản hàm súc trong lời và ý thơ, nó còn hàm ẩn một khơi gợi, kích thích cho một cuộc hồi tâm, một chuyến trở về tập hợp bên nhau giữa bạn và thù, giữa những người đã bị những tháng năm dài chiến tranh, thù hận đẩy xa. Xin mời đọc lại toàn bộ bài thơ.
“Sẽ có một ngày con người hôm nay
Vất súng
Vất cùm
Vất cờ
Vất Đảng
Đội lại khăn tang
Đêm tàn ngày rạng
Quay ngang vòng nạng oan khiên
Về với miếu đường, mồ mả gia tiên
Mấy chục năm trời bức bách lãng quên
Bao hận thù độc địa dấy lên
Theo hương khói êm lan, tan vào cao rộng
Tất cả bị lùa qua cơn ác mộng
Kẻ lọc lừa
Kẻ bạo lực xô chân
Sống sót về đây an nhờ phúc phận
Trong buổi đoàn viên huynh đệ tương thân
Đứng bên nhau trong mất mát quây quần
Kẻ bùi ngùi hối hận
Kẻ bồi hồi kính cẩn
Đặt vòng hoa tái ngộ trên mộ cha ông
Khai sáng kỷ nguyên tã trắng thắng cờ hồng!
Tiếng sáo mục đồng êm ả
Tình quê tha thiết ngân nga
Thay tiếng “Tiến Quân Ca”
Và tiếng “Quốc Tế Ca”
… Là tiếng sáo diều trên trời xanh bao la!”
(1971)
Dĩ nhiên, những gì gói ghém trong những vần thơ tha thiết trên đây chỉ là mộng ước của tác giả, và cũng là mộng ước của mỗi người Việt Nam. Nhưng âm hưởng, tiết tấu hàm ngụ trong lời và ý thơ quyện vào không gian mờ ảo của khói hương nghi ngút có sức mạnh làm mềm những trái tim chai đá của những kẻ lạc đường, lâu nay bị lôi cuốn vào những tham vọng bất chính, trả lại cho đương sự những tình cảm thuần lương, chân thực, để còn biết bùi ngùi hối hận khi nghĩ về cơn ác mộng: người đối xử với người như loài lang sói!
Giữa cảnh đen tối, tuyệt vọng của lao tù, bệnh hoạn, người thơ Nguyễn Chí Thiện mơ về một ngày nào đó, súng ống, vũ khí giết người, cờ quạt, Đảng, Đoàn… sẽ bị vất hết để cho những con người hiền lương tìm đến bên nhau, cùng thắp lại nén hương bên phần mộ người thân từng bị bỏ quên trong những năm dài chinh chiến, hận thù.
Cho dù ước mơ của tác giả chưa thành hiện thực, nhưng quả thật trong một chừng mực nào đó, ý tưởng tha thiết hàm ngụ trong bài thơ trên đây của ông đã có sức lay động lòng người mãnh liệt. Cách đây không lâu, thời gian nhà thơ Nguyễn Chí Thiện còn tại thế, chính ông và người đang viết những giòng này đã được nghe tâm tình của một người anh em từ trong nước ra thăm thân nhân ở Mỹ.
Lần đâu tiên gặp mặt tác giả Hoa Địa Ngục, mắt anh sáng lên một niềm vui. Anh công khai cho biết đã cùng bạn bè thân quen ở quốc nội đọc đi đọc lại đến thuộc lòng nhiều bài trong tập thơ của Nguyễn Chí Thiện trên mạng internet. Anh thấm thía chia sẻ nỗi lòng của tác giả gói ghém trọng bài “Sẽ có một ngày…” Nó là một trong những động cơ khiến cho anh và một số bạn bè anh, những đảng viên CS hoặc cảm tình viên của chế độ lâu năm, trong sớm chiều phải suy nghĩ và đặt lại những gì mình tin tưởng từ bao nhiêu thập niên qua.
Thi khả dĩ hưng
Thơ có khả năng giúp ta hưng khởi, phấn chấn. Nghiền ngẫm gần 500 câu thơ cảm khái của Nguyễn Chí Thiện trong trường thi Đồng lầy, người đọc không khỏi trạnh lòng. Đấy là toàn cảnh bức tranh ảm đạm vẽ lại tâm tình đớn đau, tuyệt vọng của người thơ trước cảnh tang thương thấm đẫm máu lệ của con người bị dìm ngập trong vũng lầy hôi thối, chết chóc của xã hội Việt Nam kể từ khi lá cờ máu lên ngôi. Dưới đây là vài trích đoạn.
“Ngỡ cờ sao rực rỡ
Tô thắm màu xứ sở yêu thương
Có ngờ đâu giáo giở đã lên đường
Hung bạo phá bờ kim cổ
Tiếng mối rường rung đổ chuyển non sông
Mặt trời sự sống
Thổ ra
Từng vũng máu hồng
Ôi tiếc thương một mùa lúa vun trồng
Một Mùa Thu nước lũ
Trở thành bùn nước mênh mông
Lớp lớp sóng hồng
Man dại
Chìm trôi quá khứ tương lai
Máu, Lệ
Mồ hôi
Dớt dãi
Đi về ai nhận ra ai
Khiếp sợ!
Sững sờ!
Tê dại!
Lịch sử quay tít vòng ngược lại
Thời hùm beo rắn rết công khai
Ngàn vạn đấu trường mọc dậy giữa ban mai
Đúng lúc đất trời nhợt nhạt
Bọn giết người giảo hoạt
Nâng cốc mừng thắng lợi liên hoan
…
Đạo lý tối cao ở xứ đồng lầy
Là lừa thày phản bạn
Và tuyệt đối trung thành vô hạn
Với Đảng, với Đoàn, với lãnh tụ thiêng liêng!
Hạt thóc hạt ngô phút hóa xích xiềng
Họa phúc toàn quyền của Đảng
…
Tôi vẫn ngồi yên mơ màng như vậy
Mặc cho đàn muỗi quấy rầy
Bóng tối lan đầy khắp lối
Không còn phân biệt nổi
Trâu hay người lặn lội phía bờ xa…”
Nhưng, giữa hoản cảnh đau thương, tăm tối, tuyệt vọng ấy, từ đâu đó vẫn ngời lên một tia sáng hy vọng giữa đồng lầy ô trọc, đủ sức đánh động, phấn khích lòng người:
“Chúng tôi tuy chìm ngụp giữa bùn đen
Song sức sống con người hơn tất cả
Trước sau sẽ vùng lên quật ngã
Lũ quý yêu xuống tận đáy đồng lầy
Huyệt chôn vùi mùa Thu Nhục Nhã là đây
Hè, Xuân sẽ huy hoàng đứng dậy…, “
Bởi vì:
“Người dân đã có thừa kinh nghiệm // Bạo lực đen ngòm trắng nhởn nhe nanh // Trại lính, trại tù xây lũy thép vây quanh // Song bạo lực cũng đành bất lực // Trước sự chán chường tột bực của nhân tâm // Có những con người giả đui điếc thầm câm // Song rất thính và nhìn xa rất tốt // Đã thấy rõ ngày đồng lầy mai một // Con rắn hồng dù lột xác cũng không // Thoát khỏi lưới trời lồng lộng mênh mông // Lẽ cùng thông huyền bí vô chừng // Giờ phút lâm chung // Quỷ yêu làm sao ngờ nổi // Rồi đây // Khi đất trời gió nổi // Tàn hung ơi, bão lửa trốn vào đâu? // Bám vào đâu? // Lũ chúng bay dù cho có điên đầu // Lo âu, phòng bị // Bàn bạc cùng nhau // Chính đám sậy lau// Sẽ thiêu tất cả lũ bay thành tro xám! // Học thuyết Mác-Lê, một linh hồn u ám?// Không gốc rễ gì trên mảnh đất ông cha // Mấy chục năm phá nước, phá nhà // Đã tới lúc lũ tông đồ phải lôi ra pháp trường tất cả // Song bay vẫn tiệc tùng nhật dạ // Tưởng loài cây to khoẻ chặt đi rồi // Không gì nghi ngại nữa! // Bay có hay đâu sậy lau gặp lửa // Còn bùng to hơn cà đề, đa // Những con người chỉ có xương da // Sức bật, lật nhào tung hết // Hoa cuộc sống // Đảng xéo dày mong nát chết // Nhưng mà không, sông núi vẫn lưu hương // Mỗi bờ tre góc phố, vạn nẻo đường // Hương yêu dấu còn thầm vương thắm thiết // Nếu tất cả những tâm hồn rên xiết // Không cúi đầu cam chịu sống đau thương // Nếu chúng ta quyết định một con đường // Con đường máu, con đường giải thoát // Dù có phải xương tan, thịt nát // Trong lửa thiêng trừng phạt bọn yêu ma // Dù chết chưa trông thấy nở mùa hoa // Thì cũng sống cuộc đời không nhục nhã // Thì cũng sống cuộc đời oanh liệt đã // Nếu chúng ta cùng đồng tâm tất cả // Lấy máu đào tươi thắm tưới cho hoa // Máu ươm hoa, hoa máu chan hòa // Hoa sẽ nở muôn nhà muôn vạn đóa // Hoa hạnh phúc tự do vô giá // Máu căm hờn, phun đẫm mới đâm bông // Đất nước sa vào trong một hầm chông // Không phải một ngày thoát ra được đó // Con thuyền ra khơi phải chờ lộng gió // Phá xích, phá xiềng phải sức búa đao // Còn chúng ta phải lấy sức làm bè // Lấy máu trút ra, tạo thành sông nước // Mới mong nổi lên vũng lầy tàn ngược // Nắm lấy cây sào cứu nạn trên cao // Tiếp súng, tiếp gươm bè bạn viện vào // Phá núi, xẻ mây đón chào bão lộng // Nếu có thể tiến vào hang động // Tiêu diệt yêu ma // Thu lại đất trời // Thu lại màu xanh // Ánh sáng // Cuộc đời // Chuyện lâu dài, sự sống ngắn, chao ôi! // Nỗi chờ mong thắm thiết mãi trong tôi // Tôi mong mãi một tiếng gì như biển ầm vang dội
…
Tôi lắng nghe
Hình như tiếng đó đã bắt đầu
Nhưng tôi hiểu rằng đó là tiếng của lịch sử dài lâu
Nên trời đêm dù thăm thẳm ngòm sâu
Dường như vô giới hạn trên đầu
Tôi vẫn nguyện cầu
Vẫn sống và tin
Bình minh tới
Bình minh sẽ tới…”
Lời thơ dồn dập, ý thơ lồng lộng, quyết liệt như bài hịch xuất quân, tạo nên nguồn hưng phấn bất ngờ cho người đọc.
Trong bài “Khi Mỹ chạy…” trang 238-239 thi phẩm Hoa Địa Ngục, sau hai câu mang âm hưởng một tâm sự buồn đau: “Khi Mỹ chạy bỏ miền Nam cho Cộng sản,
Sức mạnh toàn cầu nhục nhã kêu than!!!” Tiếp đó là những lời thơ có sức xuyên núi, phá thành, dù người viết đang sống “Giữa tù lao, bệnh hoạn, cơ hàn”, bởi vì:
“Thơ vẫn bắn và thưa dư sức đạn!
Vì thơ biết một ngày mai xa xôi nhưng xán lạn
Không giành cho thế lực yêu gian
…
Thơ vẫn đó, gông cùm trên ván
Âm thầm, thâm tím, kiên gan,
Biến trái tim thành ‘Chiếu Yêu Kính’ giúp nhân gian,
Tất cả suy tàn,
Sức thơ vô hạn
Thắng không gian và thắng cả thời gian
Sắt thép quân thù năm tháng gỉ han!”
(1975)
Và vẫn những lời thơ bốc lửa, phấn khích như thế, trong hai bài “Đảng đày tôi…” trang 222 và “Trong bóng đêm…” trang 249 Hoa Địa Ngục, người thơ đã truyền vào hơi thở vào huyết quản, vào tâm não người đọc ông một ý chí quật cường, một tinh thần hăng say, quyết liệt, bứt phá, để trong một giây xúc động tột cùng, dám hy sinh tất cả để mong làm một cái gì, chống lại những thế lực hung tàn, ác độc để cứu nguy dân nước.
“Đảng đày tôi trong rừng
Mong tôi, xác bón từng gốc sắn
Tôi hóa thành người săn bắn
Và trở về đầy ngọc rắn sừng tê
Đảng dìm tôi xuống bể
Mong tôi, đáy nước chìm sâu
Tôi hóa thành người thợ lặn
Và nổi lên ngời sáng ngọc châu
Đảng vùi tôi trong đất sâu
Mong tôi, hóa bùn đen dưới đó
Tôi hóa thành người thợ mỏ
Và đào lên quặng quý từng kho
– Không phải quặng kim cương hay quặng vàng chế đồ nữ trang xinh nhỏ
Mà quặng uranium chế bom nguyên tử!!!”
(1972)
“Trong bóng đêm đè nghẹt
Phục sẵn một mặt trời
Trong đau khổ không lời
Phục sẵn toàn sấm sét
Trong lớp người đói rét
Phục sẵn một đoàn quân
Khi vận nước xoay vần
Tất cả thành nguyên tử!”
(1976)
Nếu Khổng Tử tái sinh lúc này hẳn ngài không thể không gật đầu, vuốt râu tâm đắc khi đọc những vần thơ hùng tráng trên đây của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, vì hơn hết thảy, nó là biểu chứng rành rành cho định nghĩa “thi khả dĩ hưng” của ông.
Thi khả dĩ oán
Thơ có khả năng giúp ta biết oán hận. (Dĩ nhiên là những khi có nhu cầu phải oán hận, phải phẫn nộ để bảo toàn nhân cách, nhất là trong trường hợp đối tượng của oán ghét, phẫn hận là sự ác, gây tổn hại tới nhân quyền, nhân phẩm và sự sống con người.)
Có thể đoan quyết mà không sợ sai lầm là gần như mỗi câu, mỗi bài thơ của cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện đều gợi lên những tình cảm oán hờn, phẫn nộ trong ta. May mắn được quen thân và gần gũi tác giả Hoa Địa Ngục trong nhiều năm, cá nhân tôi nhận ra ở ông một nhân cách lớn, một con người có tâm hồn nhân bản, luôn bao dung, khoan thứ, chan hòa lòng yêu thương. Nó biểu hiện tròn đầy trong cung cách suy nghĩ, hành sử của ông trong đời sống ở bất cứ giai đoạn, cảnh ngộ nào. Cần xác định như vậy để chúng ta hiểu con người thật của Nguyễn Chí Thiện ngay cả khi đọc được những lời thơ bỗ bã, trần trụi, có thể nói là độc địa của ông chĩa vào đảng cộng sản, chủ nghĩa cộng sản và những khuôn mặt biểu tượng cho thứ chủ nghĩa tàn độc, phi nhân bản này.
Mời độc giả đọc lại hai câu đầu trong mỗi khổ bốn câu của bài thơ “Đảng đày tôi” ở trên để thấy đảng cộng sản đã xếp loại ông vào hạng kẻ thù hàng đầu cần truy diệt:
“Đảng đày tôi trong rừng
Mong tôi, xác bón từng gốc sắn!”
“Đảng dìm tôi xuống bể
Mong tôi, đáy nước chìm sâu!”
“Đảng vùi tôi trong đất sâu
Mong tôi, hóa bùn đen dưới đó!”
Đọc lại tiểu sử tác giả Hoa Địa Ngục, người ta được biết căn nguyên khiến Nguyễn Chí Thiện bị cộng sản tống ngục lần đầu ở lứa tuổi đôi mươi chỉ vì khi nhận lời dạy thế môn sử cho một người bạn ông đã mạnh dạn, thẳng thắn chỉ ra những chi tiết gian dối trong sách giáo khoa của chế độ Hà Nội(2). Kể từ đấy cho tới năm 1991, chỉ trong vòng ba thập niên, ông đã phải ở tù 27 năm dài không xét xử, không bản án, bao gồm cả chục năm bị hành hạ tàn nhẫn dưới chế độ kiên giam, tay chân bị cùm kẹp ngày đêm.
Bài “Xưa Lý Bạch…” một mặt vẽ lại cho người đọc thấy tâm tình và cảnh ngộ tang thương, khốn khó của tù nhân lương tâm Nguyễn Chí Thiện. Mặt khác nó còn là một bản đối chiếu giúp công luận nhận ra một sự thật khó tin là vào những năm cuối của thế kỷ 20, con người –kể cả thành phần ưu tuyển là nhà văn nhà thơ- dưới nanh vuốt của chế độ độc tài độc đàng cộng sản bị đối xử còn tàn tệ hơn cả thời phong kiến xa xưa:
“Xưa Lý Bạch, ngửng đầu nhìn trăng sáng
Rồi cúi đầu thương nhớ quê hương
Nay tôi, ngẩng đầu nhìn nhện giăng bụi bám
Và cúi đầu giết rệp, nhặt cơm vương
Lý Bạch rượu say gác chân lên bụng vua Đường
Tôi đói lả gác lên cùm gỉ xám
Lý Bạch sống thời độc tôn u ám
Phong kiến bạo tàn chẳng có tự do
Còn tôi sống thời cộng sản ấm no
Hạnh phúc tự do, thiên đường mặt đất
Rủi Lý Bạch, mà may tôi thật!”
(1967)
Trở lại với nội dung trường thi “Đồng lầy”, người đọc tìm thấy hàng trăm dẫn chứng về khả năng khơi gợi tình cảm “oán than, phẫn nộ” trước nỗi oan khiên mà đồng bào ta đã phải chịu trong hơn nửa thế kỷ qua, trong đó tác giả Hoa Địa Ngục là một điển hình bi đát. Để khỏi mất công tìm kiếm, mời quý vị đọc lại trích đoạn đầu trong trường thi “Đồng lầy” ở phần trên để cảm nhận tất cả nỗi đau đớn, uất nghẹn của con người bị bủa vây, cùm kẹp trên đất nước ta kể từ ngày chủ nghĩa cộng sản tràn vào.
Bài “Anh gặp em…”, trang 129 Hoa Địa Ngục, được nhà thơ Nguyễn Chí Thiện phô diễn lại hình ảnh tội nghiệp của người con gái miền Nam, khi đất nước bị chia đôi vào năm 1954, vì nhẹ dạ nghe lời dụ dỗ đã bỏ quê hương bản quán tập kết ra Bắc, để đến nỗi thân tàn ma dại khi đảng và chế độ đẩy vào vòng lao lý. Nội dung và âm hưởng hàm súc trong bài thơ này của cố thi sĩ họ Nguyễn gói ghém trọn vẹn tất cả bốn tiêu chuẩn Quan, Quần, Hưng, Oán theo cách nhìn về sứ mạng thi ca của người xưa.
Thứ nhất, bài thơ phơi bày trọn vẹn trước mắt ta hình tượng thảm thương, rách nát, ốm o, bệnh tật và cuối cùng là cái chết đau đớn, cô đơn của cô gái vì lỡ lầm chọn con đường tập kết từ Nam ra Bắc để trở thành tù nhân “bất đắc dĩ” của một chế độ bất nhân! Từ đấy cũng toát lên nhân cách và con người nhân bản của tác giả Hoa Địa Ngục.
Thứ hai, thứ ba rồi thứ tư, xuyên qua những nét chấm phá trên đây của người thơ Nguyễn Chí Thiện, những tiếng nói thầm câm hàm ngụ trong bài “Anh gặp em…” đã có tác dụng nối kết những người Việt Nam yêu nước thương nòi lại để tác động, phấn khích lẫn nhau, khơi gợi thất tình, biết căm thù, oán giận, phẫn nộ, biết ngẩng cao đầu trực diện với sự ác, ngõ hầu kiên vững một niềm tin vào nguyên lý bất di dịch là “đạo nghĩa tất thắng gian tà”, sớm hay muộn, chắc chắn “Bình minh tới // Bình minh sẽ tới”.
Bình minh của mỗi cá nhân và bình minh của toàn thể dân tộc.
“Anh gặp em trong bốn bức rào dày,
Má gầy, mắt trũng
Phổi em lao
Chân em phù thũng
Gió lạnh từng cơn rú qua thung lũng
Em ngồi run
Ôm ngực còm nhom
Y sĩ công an
Nhìn em
Thôi nạt nộ om sòm(3)
Em ngồi lọt thỏm
Giữa bọn người vàng bủng, co ro
Những tiếng ho
Những cục đờm màu
Mái tóc rối đầu em rũ xuống
Mình em
Teo nhỏ, lõa lồ!
Em có gì đâu mà em xấu hổ!
Em là đau khổ hiện thân
Ngấn lệ đêm qua còn dấu hoen nhòa
Trên gò má tái
Trong lòng anh bấy nay xám lại
Nhìn em
Lệ muốn chảy dài
Anh nắm chặt bàn tay, em hơi rụt lại
Em nhìn anh,
Mắt đen tròn, trẻ dại
Nước da xanh tái thoáng ửng màu
Trong quãng đời tù phiêu dạt bấy lâu
Đau ốm một mình tội thân em quá!
Chắc đã nhiều đêm em khóc như đêm qua
Khóc mẹ
Khóc nhà
Khóc buổi rời miền Nam thơ ấu
Chân trời hun hút nay đậu?
Rồi đây
Em nằm dưới đất sâu
Em sẽ hiểu một điều
Là đời em ở trên mặt đất
Đất nước đè em
Nặng chĩu hơn nhiều!
Những lúc nghĩ thân mình bó trong manh chiếu
Anh biết lòng em kinh hãi hơn ai!
Khi gió bấc ào ào qua vách ải
Những manh áo vải
Tả tơi!
Vật vã!
Vào thịt da
Em có lạnh lắm không?
Mưa gió mênh mông
Thung lũng
Sũng nước bùn
Bệnh xá mối đùn, ẩm mốc
Những khuôn mặt xanh vàng gầy dộc
Nhìn nhau
Đờ đẫn không lời
Nhát nhát em ho
Từng miếng phổi rụng rời
Bọt sùi, đỏ thắm!
Em chắc oán đời em nhiều lắm
Oán con tàu tập kết Ba Lan
Trên sóng năm nào
Đảo chao
Đưa em rời miền Nam chói nắng
Sớm qua ngồi, tay em anh nắm
Muốn truyền cho nhau chút tình lửa ấm
Mặc bao ngăn cấm đê hèn
Sáng nay em
Không trống
Không kèn
Giã từ cuộc sống!
Xác em dấp trên đồi cao gió lộng
Hồn anh trống rỗng!
Tả tơi!”
(1965)
Bài thơ chấm dứt bằng mấy chữ trống rỗng! tả tơi! dội lên trong hồn người đọc một niềm cảm thương chất ngất pha lẫn hận thù. Cảm thương cho thân phận xấu số của người con gái sinh bất phùng thời. Cảm thương cho mấy chục triệu đồng bào đang gặp cơn ma chướng mà những gì chụp xuống thân phận tù nhân lương tâm Nguyễn Chí Thiện trong suốt 27 năm trường là một minh chứng. Từ niềm cảm thương được nối kết trong tình tự dân tộc ấy, một cơn oán hận ngút ngàn bùng phát trong tim óc mọi con dân Việt Nam trước dã tâm và những hành vi ác độc của chủ nghĩa bạo tàn cộng sản.
Ai? Kẻ nào đã đem chủ thuyết Mác-Lê vào gieo rắc tang thương, máu lệ trên quê hương ta? Nguyễn Chí Thiện là người đã chọn ở lại miền Bắc sau tháng 7 năm 1954 khi đất nước bị chia đôi. Nhưng cũng chính ông là người đầu tiên đã sáng suốt nhận ra không ai khác hơn là Hồ Chí Minh để công khai lên án y là “tội đồ dân tộc”, kẻ mà cho đến nay, mặc dù đã chết rục xương hơn 40 năm trước, vẫn còn được những đồ tử đồ tôn của y coi như thần tượng, là một thứ “cha già” để làm chỗ dựa lưng cho chế độ.
Ngay từ năm 1964, khi họ Hồ còn ở ngai quyền lực, nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đã viết bài “chửi” thậm tệ nhân sinh nhật ông ta. Theo ông, Hồ Chí Minh chỉ là thứ “Chính trị gia sọt rác”, vì thế không xứng đáng để ông “Đổ mồ hôi… làm thơ” cho dẫu là làm thơ để “chửi”. Giữa thời vàng son của chế độ, giữa lúc thịnh thời của một kẻ đang được đảng và nhà nước xưng tụng, tâng bốc là “Cha Già Dân Tộc”, thế mà khi kết thúc bài thơ nhân sinh nhật “Bác”, Nguyễn Chí Thiện dám bạo tay viết ba chữ “Kệ cha Bác!”
Chưa hết, bốn năm sau, năm 1968 cũng là năm Hồ Chí Minh chết, nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đã hạ bút viết “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, câu nói từng được thốt ra từ cửa miêng họ Hồ để mở đầu cho một bài thơ bất hủ của ông. Trong bài này, tác giả đã dùng những danh xưng “xách mé” để chỉ họ Hồ, kẻ mà ngay từ buổi bình minh của chế độ đã huênh hoang phát ngôn như thế. Ông minh nhiên gọi Hồ Chí Minh là “nó”, là “thằng.” (Tò mò đếm thử, người ta đọc được trong bài thơ 54 câu, ngoài một chữ “thằng”, Nguyễn Chí Thiện đã dùng tới 32 chữ “nó” để chỉ danh tính Hồ Chí Minh).
Như đã nói ở trên, ngày nay khi nhân loại đã khởi sự bước vào thập niên thứ hai của đệ tam thiên niên, dù họ Hồ đã về với tổ sư Karl Max của ông ta, đảng và nhà nước CSVN vẫn tiếp tục sơn phết xưng tụng, coi y như một thứ thần tượng, và kể cả những phần tử phản tỉnh vẫn chưa dám trực diện nói động đến y. Có hiểu như vậy chúng ta mới thấy được hết sự căm hận của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đối với chủ nghĩa cộng sản như thế nào. Từ mối căm hận đến tận xương tủy ấy, nhà thơ họ Nguyễn đã trút hết tất cả nỗi bực tức và cơn phẫn nộ ngất trời của ông lên kẻ “tội dồ dân tộc” là Hồ Chí Minh.
Hơn tất cả, từ cách dùng ngôn từ một cách bỗ bã, bộc trực cho tới lối vận dụng, nối kết ý tưởng trong thơ, tác giả đã khơi gợi được trong lòng người đọc một nỗi hờn oán, phẫn nộ thật chính đáng khiến mọi người mặc nhiên đồng thuận với người thơ khi nhận chân được bộ mặt giả nhân giả nghĩa, hoàn toàn lệ thuộc ngoại bang để công khai có những hành vi hèn với giặc ác với dân của họ Hồ, qua những động thái của thân phận tôi đòi “Lúc rụi vào Tàu // Lúc rúc vào Nga // Nó gọi Tàu, Nga, là cha anh nó // Và tinh nguyện làm con chó nhỏ // Xông xáo giữ nhà, gác ngõ cho cha anh”!!!
Để độc giả khỏi mất công mở Hoa Địa Ngục, xin ghi lại toàn văn bài thơ sau đây:
“Không có gì quý hơn độc lập tự do
Tôi biết nó, thằng nói câu đó
Tôi biết nó, đồng bào miền Bắc này biết nó
Việc nó làm, tội nó phạm làm sao?
Nó đầu tiên đem râu nó bện vào
Hình xác lão Mao lông lá
Bàn tay Nga đầy băng tuyết giá
Cũng nhoài qua lục địa Trung Hoa
Không phải xoa đầu mà túm tóc nó từ xa
Nó đứng không yên
Tất bật
Điên đầu
Lúc rụi vào Tàu
Lúc rúc vào Nga
Nó gọi Tàu, Nga, là cha anh nó
Và tình nguyện làm con chó nhỏ
Xông xáo giữ nhà, gác cửa cha anh
Nó tận thu từ quả trứng, quả chanh
Học thói hung tàn của cha anh nó
Cuộc chiến tranh chết vợi hết thanh niên
Đương diễn ra triền miên ghê gớm đó
Cũng là do Nga giật, Tàu co
Tiếp nhiên liệu, gây mồi cho nó
Súng, tăng, tên lửa, tàu bay
Nếu không, nó đánh bằng tay?
Ôi đó, thứ độc lập không có gì quý hơn của nó
Tôi biết rõ, đồng bào miền Bắc này biết rõ
Việc nó làm, tội nó phạm ra sao
Nó là tên trùm đao phủ năm nào
Hồi Cách Mạng đã đem tù, đem bắn
Độ nửa triệu nhân dân, rồi bảo là lầm lẫn!
Đường nó đi trùng điệp bất nhân
Hầm hập trời đêm nguyên thủy
Đói khổ dựng cờ Đại Súy
Con cá, lá rau nát nhầu quản lý
Tiếng thớt, tiếng dao vọng từ hồi ký
Tiếng thở, lời than, đem họa ụp vào thân!
Nó tập trung hàng chục vạn “ngụy quân”
Nạn nhân của đường lối
“Khoan hồng chí nhân”của nó
Mọi tầng lớp nhân dân bị cầm chân trên đất nó
Tự do, không thời hạn đi tù!
Mắt nó nhìn ai cũng hóa kẻ thù
Vì ai cũng đói mòn, nhục nhằn, cắn răng tạm nuốt
Hiếm có gia đình không có người bị nó cho đi suốt(4)
Đất nó thầm câm cũng chẳng được tha
Tất cả phải thành loa
Sa sả đêm ngày ngợi ca nó và Đảng nó
Đó là thứ tư do không có gì quý hơn của nó!
Ôi, Độc Lập, Tự Do!
Xưa cũng chỉ vì quý hai thứ đó
Đất Bắc mắc lừa mất vào tay nó!
Thế mà nay vẫn còn có người mơ hồ nghe nó
Nó mới vạn lần cần nguyền rủa thực to
(1968)
Lời cuối – Dù chỉ làm công việc sờ voi, mới lướt qua và lược trích một phần rất nhỏ trong số 700 bài trong thi phẩm Hoa Địa Ngục, người viết trộm nghĩ rằng:
thơ Nguyễn Chí Thiện đã gói trọn được tôn chỉ Quan, Quần, Hưng, Oán theo quan điểm của Khổng Tử. Điều này dễ hiểu. Trước hết, vì ông là một nhà thơ có chân tài. Và tài năng siêu đẳng ấy đã chắp cánh cho thơ ông bay cao nhờ lòng yêu nước, thương dân cao như núi, dài như trường giang và sâu rộng như biển cả.
Tất thảy đã trang bị cho ông một khối óc siêu phàm, một cặp mắt tinh tế, một trái tim bén nhạy, biết thương cảm trước nỗi khổ đau của con người và biết biện phân thiện ác, chân giả giữa một xã hội điên loạn, gian manh, trí trá của một miền Bắc Việt Nam bị áp đặt dưới chế độ bạo tàn cộng sản với một bộ máy cầm quyền được điều hành bởi những kẻ bất nhân, vô đạo mang những trái tim bằng đá.
Rất nhiều lần Nguyễn Chí Thiện công khai xác nhận ông không phải là người hùng. Trong Lời Tựa thi phẩm Hoa Địa Ngục, ông từng viết:
“Tôi cố lên gân, nhủ mình phải có khí phách anh hừng. Nhưng vì trong máu không có một tí chất anh hùng nào cả… nên lâm vào cảnh: ‘Năm rồi năm, trời đất mịt mùng // Khí phách anh hùng rũ lả’”
Nhưng đọc thơ ông rồi suy nghĩ về cuộc đời ra tù vào khám như cơm bữa của ông, nhất là qua những chứng từ của những tù nhân lương tâm chung cảnh ngộ với ông, chúng ta không thể có lời kết luận nào khác hơn: nếu từ anh hùng để chỉ những con người gạn dạ, đởm lược, kiên trì, dám làm những chuyện phi thường, ân oán, thương ghét phân minh, biết phò nguy, cứu khổ, giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha… thì cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện phải được coi là người hội đủ hầu hết những đức tính ấy.
Thơ, văn ông và 73 năm cuộc đời ông đã chứng xác như vậy.
Viết trong niềm nhớ thương, quý trọng một người bạn, một thi sĩ, một nhân tài, một công dân gương mẫu của đất nước Việt Nam nhân những ngày chuẩn bị tưởng niệm 100 ngày ông giã từ đồng bào, bè bạn để đi về miền miên viễn.
Trần Phong Vũ
Nam California
ngày những ngày cuối năm 2012
(1) Bài “Tôi đọc Tuyển Tập Trần Phong Vũ” nhà thơ Nguyễn Chí Thiện viết vào những ngày đầu mùa Thu năm 2012 và được đăng lên mạng Diễn Đàn Thế Kỷ, DCVOnline khoảng trung tuần tháng 9-2012, đồng thời đã được đăng trên hai nguyệt san Diễn Đàn Giáo Dân (nam California), Kỷ Nguyên Mới (Washington DC) số phát hành tháng 10-2012. Đây là bài viết đầu tiên thuộc thể loại này của tác giả Hỏa Lò.
(2) Theo tài liệu của GS Nguyễn Xuân Vinh trong một bài viết được phổ biến rộng rãi trên NET ngày 03-10-2012, một ngày sau khi nhà thơ NCT qua đời, thì
“Vào khoảng cuối năm 1960, một người bạn là giáo sư môn Sử-Địa bậc trung học đã nhờ anh dậy giúp hai giờ khi ông ta bị ốm. Cuốn sách được dùng cho lớp học là “Cách Mạng Tháng Tám 1945” do nhà xuất bản Sự Thật ở Hà Nội phát hành. Vì thấy cuốn sách đã xuyên tạc sự thật khi viết rằng Đệ Nhị Thế Chiến được kết thúc là nhờ Quân đội Sô Viết đã chiến thắng Quân Đội Hoàng Gia Nhật Bản, nhà thơ với hào khí của tuổi trẻ, và vì tôn trọng sự thật đã giảng giải cho học sinh trong lớp anh dậy biết rằng Nhật đã đầu hàng vô điều kiện với Đồng Minh sau khi Hoa Kỳ thả hai quả bom nguyên tử lên những thành phố Hiroshima và Nagasaki. Vào khoảng hai tháng sau đó anh bị bắt và đưa ra toà kết án hai năm tù về tội phản tuyên truyền. Trên thực tế, bản án này đã giam giữ anh ba năm và sáu tháng ở những trại khổ sai ở Phú Thọ và Yên Bái”
(3) Trong Lời Tựa thi phẩm Hoa Địa Ngục, tác giả cho biết “…trong bài “Anh gặp em”, lúc đầu tôi viết: Y sĩ công an //Nhìn em // Nạt nộ om sòm. Đó là sự thực, nhưng chưa phải là sự thực hoàn toàn, người đọc có thể hiểu lầm, cho là vô lý. Tại sao khi tên Y sĩ công an nhìn cô gái trẻ miền Nam ho ra máu, sắp chết, lại nạt nộ? Cái tên y sĩ này lúc nào cũng nạt nộ, túm tóc, tát, đá bệnh nhân. Đó là thói quen của hắn, chứ không phải vì nhìn thấy cô gái đó mới nạt nộ. Tôi đọc cho anh Phùng Cung nghe để bàn thêm. Anh Cung suy nghĩ rồi nói “Thôi, nên đổi lại là: Y sĩ công an // Nhìn em // Thôi nạt nộ om sòm. Và chúng tôi đồng ý với nhau là cho tên Y sĩ vô lại đó được làm người một lần.”
(4) Tập trung
Ký giả RFA Việt Long phỏng vấn
ký giả Đinh Quang Anh Thái tại Washington DC về tâm tư và cuộc đời thi sĩ Nguyễn Chí Thiện
http://www.youtube.com/watch?v=GADebAgIeQw
BÀI GIẢNG LỄ GIỖ
CỐ THI SĨ THOMAS MORE NGUYỄN CHÍ THIỆN
Bài Phúc Âm Lc 24, 13-35.
Trọng kính Đức Cha, Quý Cha
Kính thưa Quý Thân Hào Nhân Sĩ và Quý Khách,
Kính thưa cộng đoàn dân Chúa,
Bài Tin Mừng hai môn đệ đi đường Emmaus có một khởi đầu buồn nhưng có một kết thúc vui.
Khởi đầu cuộc hành trình Emmaus là một con đường làng bé nhỏ, gồ ghề, lầy lội. Người lữ khách mang tâm trạng buồn nản, thất vọng, thất thểu bước đi trong bóng trời chiều buồn bã. Nhưng trên đường trở về, Emmaus đã trở thành con đường hy vọng vì đã gặp Đức Kito. Đi xa về gần. Đi buồn về vui. Đi u ám về rạng rỡ. Đi thất vọng, về tràn trề hy vọng.
Cuộc đời và cuộc hành trình đức tin của cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện cũng là một hành trình Emmaus mới. Có những bước đi rất gian nan, thống khổ, nhưng với niềm tin và hy vọng, sau cùng đã gặp gỡ Đức Kito, người lữ khách ấy thấy con đường về sáng lên ơn cứu độ.
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Cây nghiêng chiều nào sẽ đổ theo chiều ấy.” Quả thật, giữa cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện và Trung Tâm Công Giáo có một liên hệ đặc biệt:
-Năm 1996, chỉ một năm sau khi đến Hoa Kỳ vào năm 1995, cố thi sĩ đã chọn TTCG để giới thiệu thi phẩm Hoa Địa Ngục 2, tức là tác phầm Hạt Máu Thơ để nói lên lòng yêu nước và thương yêu đồng bào của mình.
-Năm 2001, cố thi sĩ lại chọn TTCG để giới thiệu tác phẩm “Hoả Lò” với sự hiện diện và giới thiệu của giáo sư Trần Huy Bích và nhà văn Trần Phong Vũ, hiện cũng có mặt hôm nay.
-Năm 2005, cố thi sĩ đã giới thiệu tác phẩm “Giáo Hoàng Gioan Phaolo II Vĩ Nhân Thời Đại” của nhà văn Trần Phong Vũ cũng tại TTCG nữa.
Đây là lần thứ ba cố thi sĩ xuất hiện long trọng tại Hội Trường của TTCG, không kể những buổi sinh hoạt ra mắt sách khác nữa tại TTCG. Nhưng hôm nay thì khác, cố thi sĩ đã từ Hội Trường của TTCG để hân hoan bước lên Đền Các Thánh Tử Đạo Việt Nam của TTCG với danh xưng mới, cố thi sĩ Thomas More Nguyễn Chí Thiện.
Trong danh xưng mới này, thì con người vốn thinh lặng và trầm ngâm ngày xưa ngồi ở Hội Trường TTCG, nay trở thành cởi mở, công bố và loan báo Tin Mừng của Đức Kito. Cố thi sĩ đã trở nên gần gũi và thân thương với tất cả mọi người chúng ta hiện diện trong Thánh Lễ hôm nay, vì có cùng một lý tưởng quốc gia dân tộc, có cùng một đức tin vào Đức Kito, Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta.
Bởi thế, đại diện cho TTCG, con cảm thấy được vinh dự chia sẻ đôi điều về cố thi sĩ, cho dù nhà thơ quá lớn đối với con xét về tài ba, danh tiếng, phong cách và kinh nghiệm. Con xin khiêm tốn chia sẻ trong tâm tình ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa như Đức Maria đã dâng lời ngợi khen Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ca ngợi Chúa và thần trí tôi mừng vui trong Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi”. Phải, đây cũng chính là tâm tình cuối đời của cố thi sĩ sau bao nhiêu năm lao tù cùng cực trên dương thế.
1-Trước hết, chúng ta ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa vì cố thi sĩ đã có một lựa chọn khôn ngoan nhất. Khôn ngoan trong việc lựa chọn cho mình một quyết định đúng nhất trong giây phút định mệnh quan trọng nhất của cuộc đời. Đó là chọn làm Kito hữu, làm con cái Thiên Chúa, bước theo gương của thánh Thomas More, bổn mạng của các chính trị gia luôn bảo vệ công lý và sự thật.
Cố thi sĩ đã được chính thức rửa tội vào sáng Chúa Nhật ngày 30/9/2013 do Lm Giuse Cao Phương Kỷ. Nhưng trước đó, tôi thiết nghĩ cố thi sĩ đã chịu rửa tội trong đau khổ, trong máu và nước mắt vì công lý và sự thật trong suốt 27 năm tù.
Thật đúng như lời Thánh Vịnh 1: “Phúc thay người chẳng nghe theo lời bọn ác nhân. Chẳng bước vào đường quân tội lỗi.” Trong cuộc đời, cố thi sĩ đã có rất nhiều những lựa chọn độc đáo. Ông đã có lựa chọn can đảm nhất khi kiên định lập trường chống lại bạo quyền cộng sản trong 27 năm tù. Ông đã có lựa chọn liều lĩnh nhất khi đột nhập vào toà đại sứ Anh chuyển giao 400 bài thơ Hoa Địa Ngục.
Ông đã có chọn lựa thẳng thắn nhất khi không ngừng đấu tranh chống lại sự dữ dù ở tù hay ở hải ngoại. Những lựa chọn này đã làm cho cuộc đời ông lao đao nhất, lận đận nhất với cùm gông trong xà lim của đêm tối, hay bị nghi ngờ miệt thị ở hải ngoại. Riêng chỉ có lựa chọn khôn ngoan nhất này, đó là lựa chọn làm con cái Thiên Chúa đã giải thoát ông vào “Trời mới đất mới”, nơi không còn đau khổ và nước mắt như lời sách Giáo Lý Công Giáo số 1215 đã dạy: “Phép Rửa Tội là hồng ân đẹp nhất và tuyệt vời nhất trong các hồng ân của Thiên Chúa.” Chúng ta ngợi khen và tạ ơn Chúa vì ông đã có lựa chọn khôn ngoan nhất này đã mang lại cho ông sự may mắn duy nhất trong đời giữa bao nhiêu điều không may trong cuộc đời ông!
2-Điểm thứ hai chúng ta ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa vì quyết định khôn ngoan này là hoa trái của cả một cuộc hành trình đức tin dài trong thao thức và tìm kiếm qua nhiều thập niên.
Có thể chia hành trình đức tin của ông thành hai giai đoạn. Giai đoạn gặp gỡ những giáo dân, tu sĩ, ngoài đời và trong tù khi bị tống ngục lần thứ nhất năm 1961 đã nhen nhúm hạt giống đức tin trong lòng ông. Những chứng nhân đức tin sống động ông đã gặp gỡ như ông cụ Vũ Thế Hùng, thân phụ Lm Vũ Khởi Phụng, ông Nguyễn Ký, cựu đại uý Kiều Duy Vĩnh, các anh em biệt kích Công Giáo, quý tu sĩ, chủng sinh và linh mục ở trại Phong Quang.
Và có thể kể thêm những ảnh hưởng sau này ở hải ngoại qua sự gặp gỡ kết tình thân thiết với các anh em nhóm Gioan Tiền Hô, ban biên tập Diễn Đàn Giáo Dân, và đặc biệt là tình bạn gắn bó với nhà văn Trần Phong Vũ. Kế đến là giai đoạn quyết định xảy ra vào cuối đợt tù thứ ba (1990) ông đã may mắn gặp cha Tadeo Nguyễn Văn Lý ở trại tù Ba Sao. Tại đậy hai cha con đã có dịp cùng sống chung trong một phòng để trao đổi và học hỏi giáo lý hơn một năm trời với nhau.
Trong các giai đoạn ngục tù trên, cố thi sĩ đã thể hiện niềm tin của mình nơi Ông Trời, Thượng Đế qua các vần thơ trong Hoa Địa Ngục. Niềm tin đó đã mang lại sức mạnh cho ông trong nghịch cảnh lao tù để cất lên những lời cầu xin tha thiết:
“Nén quằn quại nổi chìm, đớn đau là thế,
Bạc cả tóc râu dưới đáy vực dầu,
Ta chỉ ngẩng đầu, cầu xin Thượng Đế”
(Dù Đời Ta 1973).
“Cộng sản đầy ta sống trong chết dở,
Muốn ta tàn tắt cùng thơ.
Song ta tin có Trời kia cứu trợ,
Tất cả dần dà ta sẽ vượt qua.”
(Tù Tội 1986)
Khi sinh ra, sức khoẻ của ông đã yếu đuối. Tuy người cao ráo, nhưng lúc 17 tuổi đã bị bệnh lao, nên ông cầu xin thống thiết vào lòng nhân từ của Thượng Đế:
“Thượng Đế kia nổi tiếng nhân từ,
Sao với tôi người chẳng vô tư.
Sai bà mụ nặn tôi trong bụng,
Một thân hình bệnh hoạn, tàn hư”
(Thượng Đế 1978)
Khi nỗi bất hạnh gia tăng dồn dập với chán nản, buồn phiền thì lời van xin của ông càng da diết khẩn cầu:
“Nếu cuộc đời không có những ngày mưa,
Trời nắng ấm sẽ hoá thành nắng cháy.
Nhưng Thượng Đế, đời con mưa quá nửa,
Dột nát lắm rồi, Người ban nắng cho con”
(Những Ghi Chép Vụn Vặt)
Đây là những lời cầu khấn liên lỉ, van xin tha thiết phát xuất từ một niềm tin tưởng cậy trông nơi Thượng Đế giống như tâm trạng của các ngôn sứ khi gặp nguy khốn, hay tâm trạng đau khổ của dân Israel như đã được diễn tả trong các Thánh Vịnh.
Nhìn lại cuộc đời của cố thi sĩ, qua các vần thơ trong Hoa Địa Ngục và nhất là sau khi được rửa tội, tôi nhận ra hành trình đức tin của ông. Đó là một cuộc hành trình dài từ thời thơ ấu, vượt qua 27 năm tù tội, 17 năm ở hải ngoại. Đó là một sợi giây chuỗi nối kết nhau bằng các biến cố và được kết thúc đẹp đẽ bằng niềm tin nơi Thập Giá của Đức Kito.
Nếu các biến cố thăng trầm trong lịch sử dân Do Thái được diễn tả trong các Thánh Vịnh với những lời van xin cầu khẩn tha thiết trông mong tình thương, ơn cứu độ, sức mạnh và ơn trợ giúp của Thiên Chúa, thì những lời ai oán, uất hận, van xin trong Hoa Địa Ngục đối với sự hoành hành của sự dữ cũng không phải chỉ là của cá nhân cố thi sĩ, mà là của cả dân tộc Việt Nam thương đau, quằn quại, rên xiết trong bóng tối của gian ác và sự dữ do chủ nghĩa cộng sản áp đặt.
Bởi thế, có thể nói, tâm tình của cố thi sĩ trong Hoa Địa Ngục là lời van xin khẩn nguyện của cả dân tộc Việt Nam. Vì nỗi thống khổ của ông đại diện cho nỗi khổ đau của cả dân tộc trải dài khắp lịch sử Việt Nam thương đau. Và niềm tin của thi sĩ nơi Thượng Đế cũng là niềm tin và hy vọng của cả dân tộc Việt Nam chúng ta nữa.
3-Điểm thứ ba, trong cách nhìn so sánh và đối chiếu như vậy, chúng ta có thể dâng lên Thiên Chúa lời ngợi khen và tạ ơn khác nữa. Đó là nhân cách của cố thi sĩ: một nhân cách và lối sống ngay thẳng, cương trực, và đáng kính trọng của một vị quân tử, một kẻ sĩ, một thi sĩ, một ngục sĩ, một chí sĩ, và một chiến sĩ. Nhân cách đó dường như là lối sống và phong độ của một vị Ngôn Sứ trong nghịch cảnh của khổ đau và thử thách vì chân lý và sự thật.
-Sự cương trực và thẳng thắn: trong suốt 73 năm có mặt trên đời, ngoài những năm thơ ấu và những thời khoảng tự do nửa vời giữa ba lần nằm khám là 27 năm tù kèm thêm 17 năm như cánh chim trời phiêu bạt ở hải ngoại, cố thi sĩ luôn đứng thẳng cho dù nhiều phen sóng gió.
Dù sống trong tù hay được tự do ở hải ngoại, con người, nhân cách, khí phách, và lối sống của ông vẫn không hề thay đổi. Cố thi sĩ vẫn giữ nguyên lối sống cũ, sống nghèo, sống đơn sơ. Ông không bị sức mạnh của tiền bạc giàu sang lôi cuốn với những quyến rũ của khoái lạc, sắc dục, mặc dù ông có rất nhiều cơ hội để thay đổi cuộc đời mình một cách chính đáng mà không phải hổ thẹn với lương tâm của mình.
-Một nhân cách đáng kính trọng. Các bạn tù chung đều tỏ sự kính trọng nhân cách của ông. Linh mục Tadeo Nguyễn Văn Lý đã chia sẽ với nhà văn Trần Phong Vũ qua điện thoại, được ghi nhận trong cuốn “Nguyễn Chí Thiện Trái Tim Hồng” như sau:
“Qua những năm tháng ở tù cộng sản, tôi chưa thấy một tù nhân nào có được cái chí khí hiên ngang và tinh thần tự trọng như Nguyễn Chí Thiện. Như anh đã biết, trong cảnh tù, hầu hết tù nhân đều đói, đói triền miên, mà vì quá đói nên gặp thứ gì cũng ăn, bất kể sống, sượng hay độc hại có thể nguy hiểm tới sinh mạng… Riêng Nguyễn Chí Thiện, anh thường khảnh ăn và ăn uống rất chừng mực. Trong những lần được thân nhân hoặc giáo dân tiếp tế, thăm nuôi, tôi thường đem ra chia cho anh em bạn tù, kể cả đám tù hình sự. Khi chia cho Nguyễn Chí Thiện, rất ít khi anh nhận. Anh thường từ tốn tìm cách thoái thác, hoặc chỉ nhận một phần nhỏ. Anh nói: “Con ăn ít lắm. Xin cha giữ lại chia cho những anh em cần hơn.”
Trọng kính Đức Cha, Quý Cha, và toàn thể Quý Khách,
Trong đau khổ, tuyệt vọng, nhà thơ Phùng Quán đã tâm sự: “Có những giây phút ngã lòng, tôi đã vịn câu thơ mà đứng dậy.” Đối với cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện, ông đã không chỉ “vịn câu thơ mà đứng dậy”, nhưng vịn vào linh hồn bất tử của thơ mà đứng dậy. Ông đã vịn vào sức mạnh của niềm tin nơi Đấng Tối Cao mà đứng dậy.
Ông đã ở tù ròng rã 27 năm trường, nhưng nhờ sức mạnh của thơ, của niềm tin vào linh hồn bất tử, vào sự nâng đỡ của Thượng Đế, nên ông vẫn bền lòng vững chí, như tên của ông là Nguyễn Chí Thiện. Với bản chất hiền lương, trong sáng, luôn hướng về Chân Thiện Mỹ, hướng về Đấng Chí Thánh, Đấng Chí Thiện như lời ông tự nhủ trong thơ:
“Nhà thơ ơi, phải biết,
Giữ linh hồn cho tinh khiết…
Nhà thơ còn phải biết,
Sống trong cõi đời như không bao giờ chết.”
Giống như hai môn đệ trên đường Emmaus, chính niềm tin vào Đức Kito Phục Sinh đã giúp họ trở về trong hy vọng, thì đối với cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện, cho dù cuộc đời ông phải chịu quá nhiều bất hạnh như lời Thánh Vịnh 89 diễn tả: “Tính tuổi thọ trong ngoài bẩy chục… Mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ…” Nhưng với niềm tin vào Đấng Tối Cao, cố thi sĩ đã chấp nhận tất cả gian lao khốn khó và xem đó là sứ mệnh của mình:
“Nhưng số phận ta quá nhiều khắc nghiệt
Có lẽ Trời bắt ta phải chịu nhiều rên xiết
Để cho ta có thể hoàn thành công việc
Dùng lời ca ngăn hoạ đỏ lan tràn”
Phải, niềm tin vào Thiên Chúa, niềm tin vào ơn gọi của mình đã biến đổi tất cả những đau khổ, gian lao trở nên có ý nghĩa, có một định hướng chung cho toàn thể những khổ đau trong cuộc đời của ông. Cuộc đời của một quân tử, một thi sĩ, một ngục sĩ, một chí sĩ, và một chiến sĩ. Nói chung, đó là ơn gọi của một NGÔN SỨ!
Đây chính là đích điểm cuối cùng ông đã thực hiện khi chịu phép Rửa Tội vào Năm Đức Tin này để hoàn tất ơn gọi của mình như một ngôn sứ trước khi từ giã cõi đời này trong tâm tình ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa cùng với Đức Maria: “Linh hồn tôi ca ngợi Chúa và thần trí tôi mừng vui trong Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi.” Amen.
Đền Các Thánh Tử Đạo Việt Nam,
Trung Tâm Công Giáo,
Santa Ana ngày 28 tháng 9 năm 2013
Lễ giỗ cố thi sĩ Thomas More Nguyễn Chí Thiện,
Lm Joseph Nguyễn Thái.
Ngọn lửa tâm can
Nguyễn Chí Thiện
Tuesday, October 02,
2012 6:15:13 PM
Ngô Nhân Dụng
Nguyễn Chí Thiện đã nhìn thấy Cái Ác. Và anh đã gọi thẳng tên nó ra. Có lẽ vì tên anh là Chí Thiện, cho nên suốt đời anh lo vạch mặt Cái Ác.
Không bao giờ nghỉ. Anh là người chững chạc. Một người thành thật, hồn nhiên, có tư cách, đáng kính trọng. Anh luôn luôn khích lệ, góp ý kiến, không chờ được hỏi, không khách sáo.
Gặp nhau hôm hội Bắc Ninh ở đây, anh chỉ cho mấy chỗ sai chính tả trong bài tôi viết về quá trình “Hán hóa miền Nam Trung Quốc.” Tôi nói với anh đó là một bài trong cuốn sách đang viết giở về thời Bắc thuộc; với câu hỏi chính là vì sao dân Việt Nam bị đô hộ một ngàn năm vẫn không mất nước; anh đề nghị ngay: Nếu vậy thì anh phải đề cập đến những thắc mắc như thế này, thế này…
Lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau là ngày giỗ Ðỗ Ngọc Yến vừa qua, tôi đã nhờ anh đọc hộ hơn trăm trang bản thảo cuốn sách; như anh đã hứa. Năm 1995, Ðỗ Ngọc Yến gõ cửa phòng, báo tin “Có khách;” mở cửa ra, không ngờ thấy anh Nguyễn Chí Thiện đang cười tươi, đưa tay ra bắt: “Tôi muốn gặp ông vì tuần trước mới ngồi ở Hà Nội với mấy anh ấy, nghe ông nói trên đài BBC.” Anh kể tên mấy người bạn cùng nghe đài, những người tôi đã nghe tên mà chưa bao giờ gặp. Gặp anh, giống như gặp một người từ thế giới bên kia. Từ đó, chúng tôi là bạn.
Một lần Giáo Sư Trần Quốc Vượng đã hỏi tôi và bạn Nguyễn Hữu Chung: “Các cậu có biết tại sao những người đồng canh, đồng tuế
lại dễ thân nhau hơn không?” Và ông trả lời: “Vì họ cùng chịu những hoạn nạn giống nhau. Cùng trải qua những cuộc cách mạng, những cuộc chiến tranh, những nạn đói như nhau …”
Tôi cùng tuổi với anh Nguyễn Chí Thiện. Nhưng quả thật, chúng tôi trải qua những kinh nghiệm cuộc đời khác hẳn nhau. Năm 1954, mẹ tôi đã dẫn các con vào Nam. Sau cuộc di cư, cuộc đời của anh và tôi đã đi theo những con đường khác. Năm chúng tôi sống ở tuổi 20 thì nhiều thanh niên ở miền Nam và miền Bắc cũng nuôi những hy vọng giống nhau. Trong bài thơ Ðồng Lầy, anh viết:
“Ngày ấy, tuy xa mà như còn đấy
Tuổi hai mươi, tuổi bước vào đời
Hồn lộng cao, gió thổi chơi vơi
Bốn phía bao la chỉ thấy
Chân mây, rộng mới tuyệt vời!
… Tuổi hai mươi tuổi của không ngờ.
Không sợ!
Viển vông đẹp tựa bài thơ
Mơ ước
Ðợi chờ
Vĩ đại.”
Nhưng sau đó, Nguyễn Chí Thiện đã gặp Cái Ác. Ðã nhìn thấy rõ mặt Cái Ác. Anh gọi đích danh Cái Ác. Từ đó, định mệnh của anh là vạch mặt chỉ tên Cái Ác. Nguyễn Chí Thiện đã vạch tội Cái Ác trong những trò giáo giở:
Tuổi hai mươi mắt nhìn đời trẻ dại
Ngỡ cờ sao rực rỡ.
Tô thắm màu xứ sở yêu thương
Có ngờ đâu giáo giở đã lên đường.
Năm 22 tuổi tôi làm nghề dạy học, vẫn làm thơ, mơ mộng yêu đương, còn anh đã vào tù vì vạch mặt chỉ tên Cái Ác. Năm 25 tuổi ở miền Nam chúng tôi đang đi biểu tình đả đảo Hiến Chương Vũng Tàu, nuôi hy vọng xây dựng một chế độ tự do dân chủ; còn anh được tự do chưa đầy một năm thì lại bị bắt giam hơn 11 năm nữa. Năm 1965 chúng tôi đi làm trại công tác xã hội, cùng các sinh viên, học sinh đi giúp đồng bào nông thôn; còn anh đã nhìn thấy, như trong bài thơ Ðất Này:
Ðất này chẳng có niềm vui
Ngày quệt mồ hôi, đêm chùi lệ ướt
Trại lính, trại tù người đi không ngớt
Người về thưa thớt dăm ba…
Trẻ con đói xanh như tàu lá
… Buồn tất cả
Chỉ cái loa là vui!”
Ở một nơi mà cả nước phải suy tôn “Cha Già Dân Tộc,” Nguyễn Chí Thiện vạch ra:
Mi ngu si, mi chăng biết gì!
Cha mẹ mi là dân tộc Việt
Anh chị mi là dân tộc Việt
Mi ngủ với ai mà là cha già của họ, hỡi Hồ Ly!
Cái Ác không phải chỉ hiện hình trong một con người gian trá, mà trong cả một chế độ, một chủ nghĩa, một guồng máy. Cái Ác lớn đẻ ra nhiều Cái Ác nhỏ.
Ðạo lý tối cao của xứ đồng lầy.
Là lừa thầy phản bạn
Và tuyệt đối trung thành vô hạn.
Với Ðảng, với Ðoàn, với lãnh tụ thiêng liêng.
Hạt thóc, hạt ngô phút hóa xích xiềng.
Họa phúc toàn quyền của đảng.
Chúng trưởng sinh trong đêm tối nhiều năm.
Nên chúng tưởng màu đen là ánh sáng!
Ếch nhái vẫn đồng thanh đểu cáng
Chửi bới mặt trời, ca ngợi đêm đen.
Năm 1980 Nguyễn Chí Thiện đã viết những lời phê phán mà ngày nay các nhà tranh đấu cho dân chủ ở nước ta cũng lên tiếng tố giác. Vì sau hơn 30 năm cuộc sống đất trước mặt vẫn như vậy:
“Mấy cái đầu
Mấy cái đầu bé tẹo
Quản lý nước, nước nghèo
Cai trị dân, dân khổ
Chỉ được cái lỳ ra, không xấu hổ!”
Nguyễn Chí Thiện đã chỉ rõ mặt Cái Ác. Anh đã dùng cả cuộc đời anh để vạch trần Cái Ác. Cái Ác của Lê Nin đã được nhập khẩu vào nước ta. Một bài thơ viết năm 1983, khi cả nước bị nạn đói, ở Thanh Hóa có người đã chết đói:
“Ðể mãi mãi được làm chúa tể
Ðể đánh bật đào tung gốc rễ
Giá trị tinh thần đạo lý bền sâu
Ðể bắt dân đen quỵ gối, cúi đầu
Ngậm đắng, nuốt sầu
Chịu trói!
Biện pháp hàng đầu: cái đói!
Biện pháp nhiệm mầu: cái đói!
Khi người ta đói
Xin đừng có nói văn hoa
Cùng đạo lý cao xa!
Vì những lời hay ý đẹp
Cái dạ dầy lép kẹp không nghe!
Ðể bắt nó nghe
Ðể bắt nó làm
Phải có trại giam, cái cùm, khẩu súng
Cùng muôn thủ đoạn gian hùng
Dồn ép nó lâm vào thế kiệt cùng
Không thể cựa!
Bắt nó phục tùng, hóa thành trâu ngựa
Phải tuân theo
Mọi yêu cầu của chế độ hùm beo!
Lúc đó, ăn uống mới ban cho một tí!
Tem phiếu mới phân chia từng tí!
Lê nin nói vô cùng có lý
Khi căn dặn bọn tay chân đồng chí:
“Không kỷ luật nào bằng kỷ luật đói, chớ nên quên”
Còn chúng ta cũng chớ nên quên
Phải ghi nhớ điều này:
Khống chế dạ dầy là chiến lược dài lâu
Chiến lược hàng đầu của đảng!”
Nguyễn Chí Thiện dùng thơ như một vũ khí chiến đấu với Cái Ác:
Thơ của tôi không phải là thơ
Mà là tiếng cuộc đời nức nở
Nhưng anh cũng ca ngợi công dụng của thơ. Anh Nguyễn Thanh Hải, mới bị kết án tù 12 năm, chắc sẽ thích thú những câu thơ viết năm 1972, Nguyễn Chí Thiện đã tiên tri, nhắc đến biệt hiệu Ðiếu Cầy của anh:
Nhà thơ có khả năng biến chiếc điếu cày thành bất tử
Biến đám cầm quyền nghiêng ngả non sông
Thành lũ hề nhố nhế lông bông
Phải sống với Cái Ác một nửa cuộc đời, nhưng Nguyễn Chí Thiện vẫn nói lên những tiếng của hy vọng:
Dù thể xác lao tù héo khô muốn đổ
Dù đau lòng dưới năm tháng vùi chôn
Ta đã sống và không xấu hổ
Vì ta cứu giữ được linh hồn
Nguyễn Chí Thiện đã ra đi. Một nạn nhân của Cái Ác nhưng vẫn giữ được tâm hồn Thiện. Những ai gần gũi anh chắc đều thấy anh tính tình hồn nhiên, giản dị. Tôi chưa nghe anh nói xấu về một người nào bao giờ, trừ Cái Ác. Tôi rất mừng trước khi qua đời anh đã tìm thấy một tôn giáo. Ðứng trước ngưỡng cửa giữa sự sống và sự chết, một niềm tin sẽ giúp anh ra đi trong bình an. Nguyễn Chí Thiện từ nay sẽ không còn bị Cái Ác quấn lấy nữa. Nhưng Ngọn Lửa Tim Gan của anh sẽ còn cháy mãi trong lòng chúng ta:
Vang mãi vô hạn
Tiếng lòng chứa chan!
Sáng mãi vô hạn
Ngọn lửa tâm can!
Ngô Nhân Dụng
Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện
Tác giả tập thơ Hoa Địa Ngục và tập truyện Hoả Lò,
Hơn 700 bài thơ viết trong 27 năm bị Việt cộng giam tù.
AUDIO:
Di ngôn thi sĩ Nguyễn Chí Thiện. Tâm tình
với đồng bào quốc nội Việt Nam, đặc biệt
các chiến sĩ tự do đang phản kháng chế độ.
Hải ngoại, Tết Nhâm Thìn 2012
http://www.freevietnews.com/audio/20120121_NtNguyenChiThien.m3u
VIDEO:
Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện nói về chiến dịch
kinh hoàng Cải Cách Ruộng Đất qua tác phẩm
“Ngày Long Trời Đêm Lở Đất” do nhà xuất bản
Cành Nam (Gs Nguyễn Ngọc Bích) ấn hành.
http://www.youtube.com/watch?v=2CGlcmkatmw
4 VIDEO thâu âm ngày 25 tháng 6 năm 2007,
Ký giả Hoàng Trọng Thụy của Radio/TV VNCR
phỏng vấn thi sĩ đấu tranh Nguyễn Chí Thiện
Nguyễn Chí Thiện bình luận về tình hình Việt Nam, quyền
tự do ngôn luận, chế độ VC độc tài, khủng bố dân, đầy nhà tù.
Về tâm trạng đồng bào hải ngoại tuy gởi tiền về thân nhân
và về thăm nhà, nhưng vẫn chống chế độ Việt cộng độc tài.
Nói về kinh tế VN, về các quốc gia có thể chế dân chủ tự do.
http://www.youtube.com/watch?v=6BdqzUYB6SA&feature=related (1)
http://www.youtube.com/watch?v=54-heN0a3JY&feature=relmfu (2)
http://www.youtube.com/watch?v=1V-fGlYCpNI&feature=relmfu(3)
http://www.youtube.com/watch?v=Jz69ZCkelGg&feature=relmfu (4)
Vinh Danh Một Nhà Thơ
Nguyễn Chí Thiện,
Nhà thơ trung kiên bất khuất
Hai mươi bảy năm bi đát gian truân
Trong lao tù cộng sản
Lòng phẫn uất, chí quật cường dũng cảm
Truyền thống anh hùng, gương sáng tiền nhân
Trong nguy nan vẫn vững tinh thần
Ngửng cao đầu trước cường quyền bạo lực
Nguyễn Chí Thiện,
Ông là người như thế
|Trong tăm tối ngục tù vẫn hiện sáng nguồn thơ
Thơ trong từng nhịp tim
Thơ trong khối thượng tầng cơ thể
Những giòng thơ trần truồng bất hủ
Phơi bày Tội Ác và Sự Thật
của Hồ chí minh cùng bè lũ
Đảng cộng sản Việt Nam
Đảng cướp Việt gian, nhãn hiệu búa liềm
Làm tay sai cho bọn Tàu Nga đỏ
Nhận lịnh lũ quan thầy
Chúng bày trò đấu tranh giai cấp
Giải phóng dân tộc
Thực chất là mưu đồ cướp Nước
Cướp của giết người
Cướp quyền dân
Gây thảm họa diệt vong nòi giống Việt
Ôi! Vận nước đương thời hung hiểm
Ơi! Những giòng thơ Nguyễn Chí Thiện hiên ngang
Lột mặt nạ dối gian bầy cộng dữ
Mọi loại hoa, hoa nào không tàn úa?
Riêng “Hoa Địa Ngục” vẫn tươi mãi chốn trần gian
Văn sử Việt Nam sẽ sang trang ghi nhớ
Một nhà thơ vì chính nghĩa đấu tranh
Nguyễn Chí Thiện,
Ông đã về quê vĩnh hằng
Tấm lòng dương thế đôi dòng tiễn đưa
— Vưu Long Dân Sĩ
Washington State
Cuối thu 2012
Cuộc đời tù đày và đấu tranh của
nhà thơ Nguyễn Chí Thiện
Trần Bình Nam
Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện qua đời tại bệnh viện Western Medical Center tại Santa Ana sáng sớm ngày 2 tháng 10 năm 2012. Anh ra đi khi trời hừng sáng, bình an như sự lựa chọn của anh. Tôi đến thăm anh ngày 1/10. Bên giường bệnh là nhà báo Trần Phong Vũ. Anh Vũ cho biết dường như anh Nguyễn Chí Thiện bị ung thư phổi. Và bác sĩ đã báo cho anh Thiện triệu chứng nhưng anh không tiến hành chữa trị. Anh có sự lựa chọn của một người cao niên biết bị bệnh hiểm. Trên giường bệnh trắng tinh anh nằm im, nước da hồng hào, trán ấm, thở dưỡng khí, không trao đổi được bằng lời nhưng đôi mắt tinh anh cho biết anh còn nhận được anh em.
Thật buồn và thật là một mất mát lớn. Cái dũng khí, cái nhìn lớn của anh Nguyễn Chí Thiện là một thứ quý hiếm lịch sử Việt Nam không phải lúc nào cũng có.
Theo các tài liệu anh Nguyễn Chí Thiện sinh năm 1939 tại phố Hàng Bột Hà nội, sau về Hải Phòng sinh sống. Năm 1958 nhân dính líu với vụ Nhân Văn Giai Phẩm anh bị tù 2 năm. Năm 1961 anh lại bị bắt vì tham gia nhóm Đoàn Kết. Ra tù anh Nguyễn Chí Thiện vẫn tiếp tục các hoạt động chống đảng Cộng sản. Năm 1965 anh bị bắt lại và lần này bị giam 13 năm qua các trại tù nằm dọc sông Hồng Hà.
Sau khi cộng sản chiếm miền nam, năm 1978 Nguyễn Chí Thiện được phóng thích và trả về Hải Phòng. Anh làm nghề kèm trẻ tại tư gia để sống. Mẹ anh mất năm 1970, bố anh mất vài năm sau đó.
Nguyễn Chí Thiện được thế giới bên ngoài biết đến qua tập thơ mang nhiều tên như “Tiếng Vọng Từ Đáy Vực”, “Hoa Địa Ngục” anh âm thầm làm trong những năm tù đày. Ngày 2/4/1979 anh lần mò lên Hà nội, quẳng tập thơ vào khuôn viên tòa đại sứ Anh. Anh bị bắt.
Do sự can thiệp của Hội Văn Bút Quốc Tế, Hội Văn Bút Việt Nam Hải ngoại và cộng đồng người Việt tị nạn, năm 1990 anh được trả tự do. Cuối năm 1995, sau khi thiết lập bang giao với Hoa Kỳ, Hà nội cho phép anh sang định cư tại Hoa Kỳ dựa vào thủ tục bảo lãnh của người anh ruột nguyên là sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hòa.
Tập thơ của anh được chính phủ Anh giao lại cho cộng đồng Việt Nam và nội dung của nó đã tạo nên một xúc động chưa từng có. Tập thơ đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Nó chứa đựng mặt thật của chủ nghĩa cộng sản và chế độ mang tên nó tại Việt Nam. Tập thơ cũng chứa đựng những tiên đoán chính xác về sự suy tàn của chủ nghĩa, và sự yếu kém của thế giới trước sức mạnh yêu ma của chủ nghĩa cộng sản, nhất là sự hoang tưởng của một số trí thức và triết gia phương Tây.
Hôm nay Nguyễn Chí Thiện đã nằm xuống, chúng ta hãy ngoãnh nhìn cuộc đời của anh để ghi lại những kỳ tích của một cuộc đời đấu tranh chống bạo tàn hiếm có.
Năm 16 tuổi khi quân đội của ông Hồ Chí Minh vào tiếp thu thành phố Hà nội, anh vui mừng trong vận hội mới:
Ngày ấy tuy xa mà như còn đấy
Tuổi hai mươi tuổi bước vào đời
Hồn lộng cao, gió thổi chơi vơi
Bốn phía bao la chỉ thấy
Chân mây rộng mở tuyệt vời
Đồng Lầy – 1972
Nhưng Nguyễn Chí Thiện đã nhanh chóng nhận thấy
sự tráo trở bất lương của người cộng sản:
Bùn đọng hồ ao mạn dưới phục chờ
Tuổi hai mươi tuổi của không ngờ
Không sợ! Đồng Lầy – 1972
Chiến dịch cải cách ruộng đất đã biến Việt Nam thành một đấu tố trường đầy máu và nước mắt:
Ngàn vạn đấu trường mọc dậy giữa ban mai …………………
Bãi sú, bờ lau, rừng rú
Thây người vun bón nuôi cây
Đạo lý tối cao của xứ đồng lầy
Là lừa thầy phản bạn
Và tuyệt đối trung thành với vô hạn
Với Đảng, với Đoàn, với lãnh tụ thiêng liêng
Đồng Lầy – 1972
Nhận thức của Nguyễn Chí Thiện đã đưa anh vào tù năm 1958 và ra vào nhiều lần tổng cọng30 năm. Nhưng lao tù không khuất phục được anh:
Dù đời ta sa đáy vực khổ oan
Cũng được, miễn là thoát ra khỏi đó
Đời ta sẽ tự do như gió
Mang lời ca tha thiết tâm can
Dù đời ta – 1973
Nguyễn Chí Thiện không tin tưởng suông. Anh tin tưởng các chế độ cộng sản sẽ sụp đổ với một luận cứ vững chắc không khác gì 4 thế kỷ trước nhà khoa học Galileo người Ý đã tin quả đất tròn dù phải bị xử tội chết. Nguyễn Chí Thiện nhắn với đảng cộng sản:
Người nhô lên trong cơn động đất nhất thời
Thì rồi cũng có thể nhất thời
Người chìm trọn trong những cơn động đất Núi – 1973
Lời tiên đoán của anh đã xẩy ra 17 năm sau khi hàng lọat các nước cộng sản Đông Âu rồi đến Liên xô, thành trì của chủ nghĩa sụp đổ.
Năm 1975 khi được tin cộng sản Hà nội chiếm trọn miền Nam, Hoa Kỳ rút quân, cả thế giới cúi đầu nhục nhã, Nguyễn Chí Thiện đang bị giam tại nhà tù Phong Quang Lào Kay bình tĩnh viết:
Khi Mỹ chạy bỏ miền Nam cho cộng sản
Sức mạnh toàn cầu nhục nhã kêu than
Giữa lao tù bệnh hoạn cơ hàn
Thơ vẫn bắn, và thừa dư sức đạn!
Vì thơ biết một ngày mai xa xôi nhưng sáng lạn
Không dành cho thế lực yêu gian
Khi Mỹ chạy – 1975
Anh khuyên thế giới đừng sợ hải và mất lòng tin
Đừng sợ cái cực kỳ man rợ
Dù nó đương thời rông rỡ nơi nơi
Phải vững tin vào bước tiến con người Đừng sợ – 1975
Nhưng trong trí óc tuyệt vời và nhân bản của anh, Nguyễn Chí Thiện vẫn mường tượng một tiến trình sụp đổ trong hòa bình, một điều không một nhà chính trị lớn nào trên thế giới dám tiên đoán cho mãi đến năm 1989. Năm 1971 khi đang bị giam tại nhà lao Phú Thọ, anh đã làm bài thơ “Sẽ có một ngày” bất hũ:
Sẽ có một ngày con người hôm nay
Vất súng vất cùm, vất cờ, vất Đảng
Đội lại khăn tang, quay ngang vòng nạng
Oan khiên!
Về với miếu đường mồ mã gia tiên
Mấy chục năm trời bức bách lãng quên
Bao hận thù độc địa dấy lên
Theo hương khói êm lan, tan về cao rộng
Tấ cả bị lùa qua cơn ác mộng
Kẻ lọc lừa kẻ bạo lực xô chân
Sống sót về đây an nhờ phúc phận
Trong buổi đoàn viên huynh đệ tương thân
Đứng bên nhau trong mất mát quây quần
Kẻ bùi ngùi hối hận
Kẻ bồi hồi kính cẩn
Đặt vòng hoa tái ngộ lên mộ cha ông
Khai sáng kỷ nguyên tả trắng thắng cờ hồng
Tiếng sáo mục đồng êm ả
Tình quê tha thiết ngân nga
Thay tiếng “Tiến Quân ca”
Và “Quốc Tế ca”
Là tiếng sáo diều trên trời xanh bao la!
Sẽ có một ngày -1971
Hôm nay Nguyễn Chí Thiện đã vĩnh viễn rời chúng ta, nhưng tinh thần anh vẫn còn đây: trong sáng, kiên quyết, nhìn xa, nhân bản giữa đại nạn của nhân loại và của đất nước không may vẫn còn đầy chia rẽ của chúng ta.
Anh Nguyễn Chí Thiện! Anh đi như một vì sao chợt tắt. Nhưng ánh sáng xẹt trên nền trời vẫn còn ôm ấp, an ủi và nuôi dưỡng lòng tin của dân tộc Việt Nam.
Trần Bình Nam
Oct. 3, 2012
www.tranbinhnam.com
AUDIO:
Ông Nguyễn Chí Thiện nói về Tự Do Ngôn Luận.
Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện, tác giả hồi ký Hoả Lò và tập thơ
Tiếng Vọng Từ Đáy Vực, với khoảng 700 bài thơ nổi danh viết
từ nhà tù cộng sản tàn bạo giam cầm ông suốt 27 năm. Thơ
ông được dịch ra nhiều thứ tiếng. (bấm nghe âm thanh)
http://audio.freevietnews.com/20080710_nguyenchithien.m3u
Tự Do Ngôn Luận là
Linh Hồn của Mọi Thứ Tự Do
Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện
Hải ngoại ngày 10-7-2008
Hôm nay tôi xin trình bày một đề tài rất là quen thuộc và cũng rất là quan trọng, đó là vấn đề Tự Do Ngôn Luận. Sự thực, thì quyền tự do ngôn luận từ lâu lắm rồi, hằng bao nhiêu thế kỷ trước, cổ nhân đánh giá nó rất quan trọng, có thể nói là quan trọng bậc nhất. Tôi nêu thí dụ: văn hào triết gia Pháp Voltaire thế kỷ 18 nói rằng “Tự Do Ngôn Luận là linh hồn của mọi thứ Tự Do“. Tại sao mà nó lại quan trọng như vậy ?
Một xã hội mà không có tự do ngôn luận, thì không có văn hóa, không có văn học nghệ thuật! Mà văn hoá văn học nghệ thuật là linh hồn của một dân tộc. Không có những cái đó, thì dân tộc không có hồn. Thí dụ nước Việt Nam chúng ta bây giờ không có Truyện Kiều, không có Chinh Phụ Ngâm, không có Cung Oán Ngâm Khúc, không có Hồ Xuân Hương, không có Tú Xương, không có Yên Đổ vân vân. Thì Đất Nước chúng ta là cái nước gì ? Không còn gì là văn hiến nữa. Cho nên Tự Do là cực kỳ quan trọng!
Dưới chế độ độc tài cộng sản, từ khi Hồ chí minh chiếm được toàn bộ miền Bắc vào năm 1954, thì quyền tự do ngôn luận ở miền Bắc coi như bị mất hoàn toàn. Sau năm 1985, lại đến lượt miền Nam mất hoàn toàn. Thì chúng tôi phải phân tích cái này, vì tôi là người sống dưới chế độ cộng sản nhiều, cho nên tôi thấy một điều là tại sao cộng sản lại sợ Tiếng Nói như vậy ?
Chúng ta phân tích thấy như vầy: cộng sản sống bằng lừa bịp, sống bằng giả dối, bằng che đậy bưng bít. Một mặt nữa là sống bằng bạo lực. Bạo lực không thể nào đứng một mình được. Để thanh minh cho bạo lực đó, để tô vẽ cho bạo lực đó, thì phải có sự dối trá. Dối trá ở đây nó là tuyên truyền. Mà muốn dối trá lừa bịp được, thì phải bóp chết những tiếng nói trung thực. Nghĩa là bóp chết Tự Do Ngôn Luận !
Chính vì vậy, chế độ cộng sản coi Tự Do Ngôn Luận là quan trọng hàng đầu! Nó còn coi trọng hơn là ngân hàng! Khi nó về tiếp thu Hà Nội, thì việc đầu tiên là nó phải kiểm soát tự do ngôn luận. Các báo chí thuộc vào tay Đảng ngay lập tức.
Tôi nhớ hồi năm 1954 khi nó mới vào Hà Nội, thì lập tức vài tờ báo tư nhân còn sót lại như Tia Sáng trên danh nghĩa là vẫn còn, nhưng thực tế là bị cài người của Đảng vào, để chỉ huy tờ báo đó. Vì nó coi tự do ngôn luận quá quan trọng.
Cộng Sản sợ hãi Tự Do Ngôn Luận
Về luân lý, chủ nghĩa cộng sản nó nói rằng mọi hành động con người đều xuất phát từ tư tưởng. Cho nên đấy là công tác Tư Tưởng chúng nó coi như hàng đầu. Tư tưởng cộng sản là cái gì? Là nhồi sọ, là tuyên truyền những cái không đúng với Sự Thật, đề cao “công đức” của Đảng.
Mọi tư tưởng đều phát xuất từ hành động. Muốn cho con người có thể lao vào chỗ chết, muốn cho con người phải tôn thờ lãnh tụ, muốn có con người phải “con tố bố vợ tố chồng”, thì cái tư tưởng đó phải gieo vào đầu con người, thì nó mới xuất phát thành hành động. Mà muốn nó xuất phát từ hành động, thì phải đi qua cái cầu ngôn ngữ. Thế cho nên cộng sản nó coi mặt trận Tư Tưởng là mặt trận hàng đầu. Vì vậy ngôn luận là cái thứ cấm kỵ hàng đầu của cộng sản. Đó là cái suy nghĩ đầu tiên mà nó phải chiến đấu.
Tôi xin nêu một thí dụ: Chưa bao giờ có thời đại nào trong lịch sử mà có thể nói là quyền Tự Do Ngôn Luận của con người bị chà đạp đến cái mức như ở dưới chế độ cộng sản! Tôi nói có bằng cớ: một lời than thở với nhau thôi, bạn bè ngồi than thở về cảnh khổ đói thiếu ăn, chưa động đến chính quyền đâu nhé, thì có người báo cáo. Thế là đã đủ đi tù. Mà đi tù đây là đi tù không xét xử, theo lệnh “tập trung cải tạo”. Tiếng thở lời than đem họa vào thân người ta! Tôi ở trong tù, tôi chứng kiến không biết bao nhiêu là cảnh đó! Bao nhiêu là con người bị như vậy.
Một thí dụ điển hình: Tôi có ông bạn ở Hải Phòng, năm 1958 ông đi tù với tôi. Lúc tôi vào tù Hải Phòng năm 1960, thì ông ta bị bắt vào 1958. Thế tội ông ta là gì? Tội duy nhất là vì ông nghèo khổ quá, rồi có họ hàng bên Pháp bấy giờ có tiền, thì ông viết một phong thư gởi sang Pháp. Viết phong thư đó cũng không dám nói là mình nghèo, vì nói nghèo là bôi xấu chế độ. Cái đó dễ đi tù vì cộng sản nó có cớ rồi. Thế thì ông phải viết bóng gió rằng bây giờ gia đình chúng tôi ở trong nhà có giồng cây mồng tơi, đàng sau sân thì có một cây mướp. Nói như vậy để tả khổ đấy! Vì tục ngữ Việt Nam có câu “nghèo rớt mồng tơi, nghèo xác xơ mướp” đấy!
Thế là, vì cộng sản nó sợ tự do ngôn luận, sợ tiếng nói lọt ra ngoài, nên tất cả các thư từ nó kiểm soát hết. Thì cái thư của ông bạn tôi viết cũng gây tội đó. Nói là bạn, chớ ông hơn tôi đến 20 tuổi. Bạn tù thôi. Nó mang cái thơ đó như là một bằng chứng nói xấu chế độ đây! Là đem ra tòa! Và xử ông ta 5 năm tù! Trên thực tế là ông ta phải ở đến trên 10 năm mới được về! Cộng sản nó sợ tiếng nói đến mức như thế !
Thí dụ thứ hai: có một anh thanh niên chỉ hơn tôi vài tuổi thôi. Năm ấy là 1960 ở Hải Phòng. Anh ấy xuống tàu ở cảng Hải Phòng, anh ấy trốn. Anh này học hành chỉ khoảng lớp 3 thôi. Người Hoa, đẻ ở Việt Nam, nói tiếng Việt được. Cộng sản phát hiện ra là thiếu người, nó khám Tầu Tây Đức, nó giỡ tất cả hàng hoá đã chất xong, mang lên bờ.
Sau khi bắt anh ta rồi, thì nó lại giỡ hàng hoá xếp lại vào tầu. Tàu đó bị lỡ hẹn, quá giờ, bị phạt quá giờ ở cảng đó. Tiền phạt chi tiêu nặng đến mức, tính ra vàng, là khoảng độ 200 cây vàng. 200 cây vàng để bắt lại một người học lớp 3 lớp 4 và bỏ tù người đó! Nó sợ cái anh đó bỏ trốn được vào Nam, nói cho đồng bào trong Nam biết cái cảnh khổ ở ngoài Bắc là cỡ nào. Nó phải ngăn chặn đến cái mức như vậy! Nó sợ tiếng nói đến như thế !
Cộng Sản bóp chết Ngôn Luận và Văn Hóa
Chúng ta so sánh với các thời đại phong kiến, thời đại mà con người ta chưa ý thức về Tự Do, dân chủ nhân quyền chưa có đâu. Như các thời vua chúa, khắc nghiệt lắm. Nhưng về tự do ngôn luận thì rộng mở hơn rất nhiều, so với dưới thời cộng sản. Chính vì có sự rộng mở như vậy, nên chúng ta còn có những tác phẩm như Kiều, Cung Oán Ngâm Khúc, Chinh Phụ Ngâm, thơ Hồ Xuân Hương, Thơ Tú Xương…
Nếu khắc nghiệt như cộng sản, thì tất cả nền văn hóa đó bị xoá sạch. Tôi thí dụ Nguyễn Du, truyện Kiều có những câu ca ngợi Từ Hải là người làm loạn chống lại Triều Đình. Như lúc Kiều nói với Từ Hải “Tấn Dương được thấy mây rồng có phen“, tức là mong cho Từ Hải sau này được lên ngôi như Đường Cao Tổ lên ngôi, lên làm vua. Đó là ca ngợi tên phản loạn phải không?
Truyện Kiều
Thế rồi lại cho Từ Hải nói “chọc trời khuấy nước mặc dầu, dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, nghĩa là không coi Vua ra cái gì cả. Thế mà từ Gia Long đến Minh Mạng Thiệu Trị vân vân có làm gì Nguyễn Du đâu?
Đến thời vua Tự Đức là người rất yêu Truyện Kiều. Thì ông Vua Tự Đức có làm mấy câu thơ “mê gì mê đánh tổ tôm, mê ngựa Hậu bổ, mê Nôm Thúy Kiều”. Khi Vua Tự Đức đọc tới câu “dọc ngang nào biết trên đầu có ai” thì vua Tự Đức ném cuốn sách xuống nói “nếu Nguyễn Du còn sống thì sẽ nọc ra đánh cho mấy chục roi”. Ông có nói như thế, dù chính ông ta là người rất mê Kiều, rất thích đọc Kiều, mà còn lẫy Kiều nữa! Rồi làm một cuốn Kiều khác, đổi cái câu đó đi! Thì thời vua chúa phong kiến mà còn dễ dàng như vậy.
Thí dụ bà Hồ Xuân Hương. Bà chỉ là một phụ nữ làm thơ thôi. Sự thực thì vua Lê chúa Trịnh có trêu ghẹo gì bà ta đâu, phải không? Thế mà bà ta cũng nói xỏ xiên, nói chẳng ra sao cả! ….”hiền nhân quân tử ai mà chẳng, mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo”….Chửi cả các các bậc nho học quan lại thời xưa. Bà ấy nói thế mà vẫn đi du lịch đây đó ung dung, chẳng ai đụng gì đến bà ấy cả.
Tú Xương
Ông Tú Xương làm bài thơ chúc Tết, chắc nhiều bạn đọc còn nhớ, thời vua Thành Thái rất chống Pháp, ông vua tốt đấy, sau này bị Pháp nó đày đi đảo Réunion. Ông chúc thế này “Chúc sao cho hết cả trên đời, Vua quan, sĩ, thứ người trong nước, sao được cho ra cái giống người”. …Ý nói rằng mấy ông kia chỉ toàn là giống vật phải không? Thế mà ông Tú Xương vẫn sống ung dung diệu kỳ ở bên bờ sông Vị, không ai đụng tới ông ta cả.
Đến Cung Oán Ngâm Khúc, vấn đề cung nữ là quy chế của Triều Đình. Thế mà ông Ôn Như Hầu dám kêu gọi “Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!” , dọa phá cung. Thế mà chẳng ai cấm đoán cả. Ông Tam Nguyên Yên Đổ nói “vua chèo còn chẳng ra chi, Quan chèo chi nữa khác chi thằng hề”. …Mà ông chẳng ra sao cả.
Tự Do Ngôn Luận làm sáng lên Sự Thật
Đến thời cộng sản thì sao? Hãy nói tình cảnh nhà văn trong thời cộng sản. Thí dụ, ông Trần Dân thời Nhân Văn Giai Phẩm có làm một bài thơ có câu “xưa nay người thiếu tự tin người”, dùng chữ “người” , thế là ông bị đánh vì chữ “người” này chỉ được dùng để chỉ hồ chí minh thôi ! Thế mà đây ông dám nói người thiếu tin tưởng ở người ấy mà, dám đụng đến lãnh tụ. Cuộc đời ông Trần Dần ra sao, các bạn đều biết rõ.
Ông Nguyễn Bính làm báo Trăm Hoa, ông ở gần nhà tôi, cách nhà tôi độ trăm thước thôi. Ông ra một đôi câu đối thế này: “Diêm Thống Nhất giá không thống nhất” . Hồi đó có diêm “Thống nhất”, mậu dịch bán một giá, chợ đen bán một giá. Có người đối lại một câu rất hay “báo Trăm Hoa bài chẳng trăm hoa”. Hai câu đối này đăng trên báo Bách Khoa. Thế là Phạm văn Đồng hầm lên ! “Diêm thống nhất giá không thống nhất” dám đánh vào nền kinh tế quốc doanh. Thế là Nguyễn Bính phải đóng cửa tờ Trăm Hoa.
Trên thực tế như vậy thì mình thấy chính sách kềm kẹp của cộng sản nó ghê gớm lắm. Con người ta không được ăn được nói. Tất cả, nó muốn con người ta trở thành con người máy mê muội. Thế vì vậy cho nên, suốt quảng đời của bao nhiêu nhà văn nhà thơ sống dưới chế độ cộng sản thì coi như là phí đời, vì toàn làm thơ dối, viết văn dối, viết báo dối, nghiên cứu cũng dối nữa. Thế cho nên gần đây, những người đó khi sắp mất đi, khi xã hội đổi mới rồi, chỉ dám than thở một tí thôi.
Chế Lan Viên trước khi chết, cũng nhận tội là mình đã không nói Sự Thật, giết chết sự thật, dù những cái không có tội gì cả, những cái vô thưởng vô phạt, những cái tình cảm thiên nhiên, cũng bị giết mất.
Ông Nguyễn Khải vừa rồi “Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất” , ổng mới chết, thì cũng nói rằng sống trong một chế độ mà hoàn toàn bị kềm kẹp như vậy, thì những tác phẩm dù được giải thưởng Lenin Stalin mà ông ta có giải thưởng Hồ chí minh nữa, sau này cũng chẳng ai đọc cả, là vì toàn những thứ giả dối. Chính những người đảng viên từng một thời oanh liệt, ai làm văn nghệ trong nước khi chết cũng phải thú nhận như thế. Thì ta thấy tình hình tự do ngôn luận ở chế độ cộng sản nó khủng khiếp đến như vậy!
Trong một chế độ như thế, tất nhiên văn hóa không có. Ông Trostky bạn Lenin có nói rõ là dưới một chế độ chuyên chế cộng sản, thì không có một nền văn hóa văn nghệ nào có thể nảy nở được, trong cái bộ máy bằng thép như vậy. Kết quả, phải nói cộng sản nó thành công.
Cho đến ngày hôm nay, trong nước vẫn chưa có Tự Do Ngôn Luận. Không một tờ báo tư nhân nào cả. Những quyển sách viết cũng thường thôi, như Chuyện Kể Năm 2000, Đi Tìm Sự Thật của Đào Duy Anh vv, tất cả những sách vở khác đều phải lén lút đưa ra ngoại quốc để mà in. Trong nước nó có cho in đâu. Nếu in ra rồi thì nó tịch thu, thành giấy vụn.
Văn hoá văn nghệ mà như thế thì làm sao mà sống nổi ! Chính cộng sản tự nói là “cởi trói văn nghệ” năm 1986-87, Nguyễn văn Linh có nói như vậy. Thì có “trói” thì mới cởi phải không? Văn hóa văn nghệ là linh hồn của dân tộc. Ai cho phép Đảng trói nó lại mà nó phải được cởi ? Thực tế nó có cởi không? Thực tế là nới lỏng một tí thôi! Rồi lại trói chặt lại như thường, cho đến ngày hôm nay. Đó là những dấu hiệu cụ thể.
Kết quả của sự bưng bít Tự Do Ngôn Luận, là nó tạo ra một tầng lớp dân chúng mù mịt tối tăm! Tôi xin nêu thí dụ. Cho đến ngày hôm nay, không thiếu gì những người trong nước tin tưởng rằng hồ chí minh là một ông thánh, hồ chí minh là người yêu nước, là người quốc gia, là người có công với dân tộc.
Trong nước hiện bây giờ cộng sản vẫn còn đang rầm rộ học tập “tư tưởng và đạo đức của hồ chí minh”. Vì sao? Vì đa số đã bị tuyên truyền. Miền bắc thì từ 50,60 năm rồi. Ở miền Nam thì cũng hơn 30 năm nay rồi. Cho nên họ không hiểu rõ cuộc đời thật của hồ chí minh, tội ác mà HCM và Đảng CS phạm phải đối với dân tộc.
“Chân Dung Bác Hồ” của Lê Tất Điều
http://freevietnews.com/cdbh
Lớp thanh niên bây giờ, ở miền Nam tuổi 40 mà chưa biết gì. Thậm chí ở miền Bắc ở tuổi 60,70 vẫn chưa biết gì! Chưa biết gì tức là còn ngủ cả. Chính vì Ngôn Luận có tác dụng bảo vệ chính quyền như vậy, cấm nó, cấm ngôn luận là cấm cái cầu giao thông từ tư tưởng sang hành động! Thí dụ như bây giờ chúng ta có một tư tưởng, nếu bây giờ chúng ta biết một sự thật, muốn cho mọi người cùng biết để mà phản đối, thì chúng ta phải có cái cầu ngôn ngữ, thì mới dẫn sang hành động được, phải không? Thế nhưng cái cầu ngôn ngữ bị chặt rồi!