Thứ Sáu Tử Nạn
Chúa Nhật Phục Sinh Vinh Quang
1- Thiên Chúa tạo dựng Con Người và Yêu Thương Loài Người
Lịch sử Ơn Cứu Độ của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa Hằng Sống đã mở đầu 2 thiên niên kỷ Tân Ước (0001 – 2021 AD), thực ra đã bắt đầu rất lâu từ nhiều Thiên Niên Kỷ trong Cựu Ước (-3000 BC).
Kể từ khi hai Ông Bà Nguyên Tổ, Adam – Eva, Tổ Phụ Loài Người đã bất trung bất tín với Thiên Chúa, Đấng Toàn Năng tạo dựng muôn loài từ hư vô. Hai Ông Bà đã mất nghĩa cùng Thiên Chúa kéo theo con cháu Loài Người mất quyền làm Dưỡng Tử của Thiên Chúa, Đấng Toàn Năng, Từ Bi và Nhân Hậu.
Thiên Chúa tuy vậy vẫn rất yêu thương Loài Người, Vì Thiên Chúa đã dựng nên Loài Người mang hình ảnh Ngài, một Loài kết nối giữa Thần Thiêng và Vũ Trụ Vật Chất. Từ Tình Yêu đó, Ngài đã ra kế hoạch cứu vớt Loài Người để Giao Hòa lại cùng Thiên Chúa và ban lại quyền Làm Con Thiên Chúa cho Loài Người.
Để thực hiện ý định tràn đầy tình Cha Con đó giữa Thiên Chúa và Loài Người, Ngài đã chọn một dân riêng để tôi luyện họ, đó là dân Do Thái (Jews, Israel).
Khởi đầu từ Abraham khoảng -1996 BC. Ông sinh sống tại vùng Iran Iraq ngày nay (thời Adam Eva, Vườn Địa Đàng tọa lạc tại vùng này). Ông là người tin tưởng tuyệt đối vào Một Thiên Chúa Yahweh Toàn Năng, chính Người đã tạo dựng nên Con Người, Vũ Trụ và Muôn Loài. Abraham được coi là Tổ Phụ của người Do Thái, Tổ Phụ của tất cả những ai Tin Thờ Một Thiên Chúa Yahweh (Giavê).
2- Dân Do Thái và Đất Hứa tại Trung Cận Đông
Dân Do Thái tiếp tục phát triển, gia tăng dân số trên vùng đất Trung Cận Đông và luôn phải chiến đấu để sinh tồn trên một vùng đất rất nhiều biến động về văn hóa, tôn giáo và quyền lực. Duy chỉ có một điều luôn gắn kết với họ là niềm tin vào Thiên Chúa Yahweh của họ.
Chúng ta biết Trung Cận Đông là vùng đất sa mạc hay bán sa mac. Khoảng thế kỷ 16 trước Công Nguyên, Dân Do Thái đã phải lưu lạc sang Ai Cập để tránh nạn đói. Họ là một dân tộc rất thông minh, cần cù và nhẫn nại, nên các vua Pharaon đã tuyển chọn họ xây dựng các đền đài tráng lệ cho cung điện hay các Nhà Mồ Kim Tự Tháp hùng vỹ.
Lâu dần, các Pharaon đã biến dân Do Thái thành đám dân Nô Lệ. Áp dụng kỷ luật sắt để bóc lột sức lao động. Giết các con trai đầu lòng của các gia đình Do Thái để khủng bố tinh thần. Tuy vậy, trong số trẻ bị giết, có một bé được mẹ bỏ vào một cái thúng và cho trôi trên sông Nile, với hi vọng mong manh nó được sống sót. Cơ duyên may, đứa trẻ lại được công chúa Ai Cập vớt lên làm con nuôi và đặt tên là “Môisen”, có nghĩa là “Vớt Lên Từ Nước”.
Môisen lớn lên và trở thành Hoàng Tử trong Triều Pharaon Ai Cập và đứng đầu điều hành nhiều công trình xây dựng vĩ đại. Tuy vậy, sau này mẹ ruột cũng kín đáo nói cho Môisen biết về tông tích Do Thái của mình. Có một lần Ông thấy môt người Do Thái bị một đốc công Ai Cập đánh đập tàn nhẫn, Ông nổi nóng giết người đốc công đó và bỏ trốn khỏi hoàng cung.
Trên bước đường lưu lạc về vùng đất mà trước đây người Do Thái đã từng cư ngụ. Ông Môisen được Đức Yahweh hiện ra trong một ngọn lửa cháy trong bụi gai.
Môisen cất tiếng hỏi:
Thưa Ngài, Ngài là Ai ? who are you ?
Có tiếng đáp lại:
I am who I am (Ego sum qui sum)
Có nghĩa “Ta là Ta – Ta Là Đấng Tự Hữu.
3- Ông Môisen giải phóng Dân Do Thái khỏi kiếp nô lệ Ai Cập
Sau đó Ngài đã ban lệnh cho Ông Môisen mau trở lại Ai Cập, lãnh đạo đưa dân Do Thái ra khỏi Ai Cập, ra khỏi Kiếp Nô Lệ và đưa dân vào vùng Đất Hứa Ta sẽ chỉ cho.
Môisen vâng lệnh Thiên Chúa trở lại Đất Ai Cập, nói thẳng với Pharaon về gốc tích Do Thái của mình và đề nghị Pharaon cho dân Do Thái được Tự Do để về miền Đất Hứa mà Thiên Chúa đã hứa ban cho. Tất nhiên Pharaon nào chịu, Do Thái ra đi ai sẽ tiếp tục xây dựng các công trình đồ sộ như từ trước tới nay.
Với chỉ một cây gậy trong tay như một kẻ chăn chiên, Môisen nhất định vâng lời Đức Yahweh tập hợp Dân Do Thái để chuẩn bị lên đường…(cây gậy sau này gọi là Vương Trượng là biểu tượng trách vụ của các Giám Mục, Giáo Hoàng, kể cả vua chúa ngoài đời).
Sau rất nhiều phép lạ mà Môi Sen thực hiện trước mặt Pharaon và các quần thần, tuy vậy các Pháp Sư Ai Cập đều hóa giải được nên Pharaon kiên quyết dùng quân đội để đàn áp và giải tán không cho dân Do Thái ra đi.
Giải pháp sau cùng, Môisen cảnh báo Pharaon là nếu không cho dân Do Thái ra đi tự do, một tai ương khủng khiếp sẽ xảy ra là các con đầu lòng của các gia đình Ai Cập sẽ bị giết. Tai ương khủng khiếp này làm Vua Pharaon và toàn dân Ai Cập kinh khiếp và Pharaon đã làm lơ để dân Do Thái ra đi…
4–Phép lạ vĩ đại giúp Dân Do Thái vượt qua Biển Đỏ
Riêng dân Do Thái thì được báo động: mọi người phải sẵn sàng lên đường nội trong đêm nay, lưng thắt đai, tay mang gậy. Mỗi một hay hai gia đình chung nhau giết một chiên con, lấy máu chiên bôi lên cửa để Thiên Sứ tránh xa không giết con đầu lòng. Ăn thịt chiên với bánh không men và rau đắng. Ăn xong, tạ ơn Thiên Chúa và họ rầm rập lên đường ngay trong đêm.
Vài ngày sau Pharaon lại tiếc đám lao nô Do Thái nên đổi ý, bèn kéo toàn lực lượng binh mã đuổi theo. Chẳng bao lâu đạo quân Ai Cập đã đuổi kịp dân Do Thái. Thiên Chúa bèn cho đám lửa chận đoàn quân Ai Cập giúp Dân Do Thái ô hợp tiến bước. Cuối cùng họ đã thoát đến bờ Biển Đỏ và quân Ai Cập thì đang rầm rập đuổi theo.
Nhưng làm sao qua biển đây. Môisen có vẻ thất vọng nhưng cũng vẫn van nài Thiên Chúa cứu giúp và Ông đã giơ cây gậy lên, Biển Đỏ bỗng rẽ ra một lối đi cho dân Do Thái chạy qua, nhưng đồng thời Đạo Quân Ai Cập cũng chạy bám theo. Khi dân Do Thái đã thoát ra khỏi biển, Ông Môisen hạ cây gậy xuống và nước biển ập lại chôn vùi đạo binh thiện chiến của Pharaon.
Bài Ca Xuất Hành
Vang lên muôn lời ca
Ta ca ngợi Chúa
Vì uy danh Người cao cả
Chiến mã với kỵ binh
Người đã quăng chìm dưới biển…
https://www.youtube.com/watch?v=36-xJHewt2Q
5- Bốn mươi năm tôi luyện trong hoang mạc
Thoát khỏi sự cai trị của người Ai Cập, đường đi đến Đất Hứa cũng mịt mờ sỏi đá hoang mạc. Vừa đi vừa chăn nuôi súc vật, lang thang như vậy suốt 40 năm. Dân Do Thái thông minh ưa nổi loạn, nhiều lần kêu ca cùng Môisen và Thiên Chúa sao bỏ rơi họ trong hoang mạc. Thiên Chúa đã lắng nghe và nuôi họ bằng Manna bánh từ trời rơi xuống.
Khi Ông Môisen được Thiên Chúa gọi lên núi để ban cho Ông Bản Lề Luật, tức là 10 giới răn, nó cũng là Giao Ước giữa Thượng Đế và Con Người. Ngày nào các Ngươi giữ Lề Luật này, Giao Ước này, Dân Tộc ngươi sẽ hùng mạnh và ta sẽ luôn bảo vệ các Ngươi. Luật đầu tiên: Các Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa là Thiên Chúa các Ngươi hết lòng hết sức. Ngoài ra không được tôn thờ một ngẫu tượng nào khác. (chữ tôn thờ ở đây là “adorer” giữa thụ tạo và đấng sáng tạo. Người Việt cũng thường dùng chữ tôn thờ nhưng có nghĩa là tôn kính “respectus”)
Ngay khi Ông Môisen xuống núi với 10 giới răn, thì thấy dân Do Thái đã đúc một Con Bò bằng vàng rồi đang nhẩy múa, sùy sụp thờ lạy, barbecue tưng bừng ! Ông giận tím mặt…
Các Quốc Phụ Hoa Kỳ đã am tường Lề Luật và Giao Ước này nên khi lập quốc, bản Hiến Pháp Hoa Kỳ cũng thấm nhuần Giao Ước giữa Thượng Đế và Người Dân Hoa Kỳ. Âm vang Giao Ước vẫn tiếp tục vang vọng: Ngày nào Hoa Kỳ giữ Lề Luật Giao Ước này Hoa Kỳ sẽ trở nên hùng cường. Ngày nào Hoa Kỳ rời xa Giao Ước này , ngày đó Hoa Kỳ sẽ bị quân thù xâu xé…
Chúng ta có thể kiểm nghiệm xã hội Hoa Kỳ ra sao sau khi Hoa Kỳ đã trải qua các triều đại gần đây vô thần và cực tả…Tinh thần Cộng Hòa Pháp Trị bị chế diễu, Dân Chủ Mỵ Dân lên ngôi…
6- Mô Hình Cộng Hòa Pháp Trị
Trong thời gian đằng đẵng tiến về Đất Hứa, dân Do Thái đã tăng dân số nhanh, đoàn vật cũng sinh sôi nẩy nở. Cuộc sống sinh tồn có nhiều va chạm. Ông Môisen làm quan án, làm lãnh đạo, điên đầu giải quyết mọi chuyện. Ông bố vợ Môisen thấy vậy bèn hiến kế cho Môisen: hãy đoàn ngũ hóa dân lại: cứ 5 gia đình thành một Tổ, họ chọn lấy Tổ Trưởng, 5 Tổ hợp lại thành Xóm, họ chọn lấy Xóm Trưởng. 5 Xóm thành Làng, 5 Làng thành Tộc, 5 Tộc thành Tỉnh…etc. Như vậy Con sẽ có nhiều người cùng làm việc với Con, tuỳ theo cấp độ, họ sẽ giải quyết phần lớn công việc…Còn Con sẽ thảnh thơi hơn lo việc với Thiên Chúa.
Biến cố này đã tạo ra một mô hình Cộng Hòa, chia sẻ quyền lực, lấy Dân làm gốc là mô thức tiến bộ của Nhà Nước mới về Quản Trị Công Quyền. Quản Trị Công Quyền nền Cộng Hòa có hình Tam Giác. Trên là Đỉnh Đại Diện và Đáy là các Tổ của Dân. Mỗi Tầng có quản trị riêng trong cái chung là Lề Luật là Hiến Pháp, là 10 giới răn nên ta cũng gọi nền Cộng Hòa này là Dân Chủ Đáy Tầng (Grass Root Democracy), nghĩa đen lấy Dân làm gốc, do Dân, cho Dân và vì Dân.
Nền Cộng Hòa Dân Chủ Đáy Tầng này đã thể hiện rất rõ nét trong nền Quản Trị Công Quyền của Hoa Kỳ và các nước Dân Chủ thực sự pháp quyền trên thế giới.
Viết đến đây, Lạc Việt chợt nghĩ tới Cộng Đồng Bách Việt trong nền Văn Minh Lúa Nước tại bờ nam Sông Dương Tử – Ngũ Lĩnh – Sông Hồng cách đây trên dưới 5000 năm. Họ đã có Thôn, họ đã có Làng, họ đã có Xã, họ đã có hàng Trăm Tộc tự quản và họ đã có Nước Văn Lang Vua Hùng mà gần 3000 năm xây dựng phát triển trong hòa bình hầu như không có tranh danh đoạt lợi.
Lề Luật là kính trời, tôn thờ tiền nhân, kính trọng Anh Hùng Liệt Nữ. Yêu Con Người, Yêu Đất và Yêu Nước. Tôn trọng quy luật Đất Trời, thuận theo Âm Dương Ngũ Hành. Thông qua Truyền khẩu ca dao tục ngữ, Lề Luật đã ăn sâu trong lòng dân giúp thăng hoa mệnh Nước. Hiểu như thế trong lịch sử chúng ta đã có nền Cộng Hòa Liên Bang Bách Việt từ ngày lập quốc -2879 BC đến thời Trưng Nữ Vương (+43 AD). Ngày ấy đến nay đã trải qua 4901 năm lịch sử
7- Lễ Vượt Qua – Pass Over – Easter Sunday
Để nhớ đến biến cố trọng đại thoát kiếp nô lệ này, dân Do Thái hằng năm làm Lễ Tưởng Niệm Lễ Vượt Qua – Pass Over như lúc chuẩn bị Lên Đường để nhắc nhở con cháu dù ở đâu hay thời đại nào luôn nhớ mình là Dân của Chúa, đã được Ngài yêu thương giải thoát khỏi kiếp nô lệ Ai Cập, vượt Biển Đỏ và đưa vào miền Đất Hứa. (Hoa Kỳ và Canada kỷ niệm biến cố này trong ngày Chủ Nhật Easter Sunday. Năm nay CN April 17, 2022)
Khi gần đến Đất Hứa, Ông Môisen đã rất cao tuổi, Ông đứng trên ngọn núi phía đông Biển Chết nay là xứ Jordan nhìn Dân Do Thái tiến qua Biển Chết mà vào Đất Hứa (Biển Chết rất nhỏ và nông cạn). Riêng Ông bị Thiên Chúa sửa phạt, không vào được Đất Hứa vì khi tới Biển Đỏ, lúc đó quân thù đuổi theo, ông đã tỏ ra thất vọng, thiếu tin tưởng vào quyền năng của Đức Yahweh.
Dân Do Thái vào Đất Hứa là đất Canaan và Judea sát bờ Địa Trung Hải. Phía Bắc có Biển Hồ Galilea, nơi quê hương Chúa Giêsu và của đa số các môn đồ làm nghề đánh cá. Biển Hồ Galilea có sông Jordan chuyển nước xuống phía Nam vào Biển Chết, biển này có độ muối bão hòa nên chẳng có sinh vật nào sống nổi, chưa kể mặt nước Biển Chết thấp hơn mực nước đại dương đến hơn 250 mét do nước bị bốc hơi suốt nhiều thiên niên kỷ. Ngay c ả Sông Jordan là nơi ông Gioan Tiền Hô làm phép rửa ngày xưa hùng vĩ bao nhiêu, ngày nay cũng chỉ như một con suối. Phía Nam có thành thánh Jerusalem là tâm điểm Tôn Giáo và Nhà Nước Israel, gần đó có Bethlehem nơi Chúa Giêsu sinh ra trong thời điểm Kiểm Tra Dân Số của đế quốc Roma thực hiện.
Đền Jerusalem huy hoàng tráng lệ thời Chúa Giêsu 33AD. 30 năm sau vào năm +63AD Đền Thờ đã bị đế quốc Roma san bình địa khi đế quốc Roma chinh phạt Dân Do Thái nổi loạn đòi Độc Lập. Đúng như lời tiên tri của Đức Giêsu đã nói với các môn đồ khi các ông khen “Đền Thờ thật Tráng Lệ”: “Rồi sẽ có ngày không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào”.
Kể từ đây – năm 63AD, để trừ hậu họa, đế quốc Roma đã lưu đày biệt xứ người Do Thái đi các vùng khác nhau trong biên địa của đế quốc Roma. Thế kỷ thứ 6, Hồi Giáo được Mohamet thiết lập dần dà thành nhà nước Hồi Giáo lớn mạnh và cực đoan chiếm đoạt vùng Trung Cận Đông, chiếm luôn đền Jerusalem có mái mạ vàng hiện nay của Do Thái. Năm 1948 Do Thái tái lập Quốc Gia Israel trên lãnh địa cũ của họ nhưng người Palestine đã cư ngụ ở đây suốt 2000 năm nay. Đền Jerusalem thiêng liêng của Người Do Thái đã bị Hồi Giáo chiếm đoạt. Tuy vậy sau các cuộc chiến “long trời lở đất” vào giữa thế kỷ 20. Do Thái đã chiếm lại nhiều vùng đất của Tổ Tiên và 1/2 Thánh Địa Jerusalem. Mãi đến cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 TT Donald Trump mới thực thi việc công nhận Jerusalem là thủ đô của Israel và ra lệnh dời Đại Sứ Quán Hoa Kỳ từ Tel Avil về Jerusalem. Lệnh này gây chấn động toàn cầu vì thế giới sợ lệnh này sẽ kích hoạt thùng “Thuốc Nổ Trung Đông”. Nhưng cuối cùng thế giới Ả Rập và Hồi Giáo vẫn im re…
Thời Chúa Giêsu, Do Thái bị cai trị bởi đế quốc Roma do quan Philato Tổng Trấn cả vùng Judea, Canaan (cả Jordan, Judea, Syria ngày nay). Dân Do Thái ngày đêm mong chờ đấng Cứu Thế như các Ngôn Sứ (Tiên Tri) đã từng rao truyền và được ghi lại trong Cựu Ước kể từ khi ra khỏi đất Ai Cập trong khoảng 1500 năm liên tục. Năm – 500 BC, Ngôn Sứ Isaia đã nói rất rõ về Đấng Cứu Thế sẽ ra đời tại vùng Bethlehem.
8- Đức Giêsu chết ô nhục trên Thập Tự thiết lập Giao Ước mới giữa Thượng Đế và Loài Người
Rồi đúng như lời Ngôn Sứ chép, Con Trẻ Giêsu đã chào đời tại hang cỏ chiên lừa vùng Bethlehem. Các nhà thông thái phương Đông xem thấy sao lạ đến chào bái vị Vua mới sinh. Tin này đến tai vua Herode, vị vua bản địa bù nhìn Do Thái quyết âm mưu giết Hài Nhi Giesu. Ông Bà Giuse Maria nghe lời Thiên Sứ bí mật đem con đi “Tỵ Nạn Chính Trị” tại Ai Cập, nơi mà dân Do Thái làm nô lệ trước đây. Chúng ta thử tưởng tượng gia đình hài nhi Giesu gian truân đến cỡ nào. 600-800 km đi đường bộ qua vùng sỏi đá bán sa mạc. Để trừ hậu họa vị Vua mới, Herode cho quân binh dưới quyền giết sạch các trẻ trai dưới 2 tuổi toàn vùng Bethlehem.
Sau khi Herode băng hà, Thiên Sứ lại báo tin và 2 Ông Bà lại đem con trẻ Giêsu về quê quán cũ là làng Nazareth gần Biển Hồ Galilea miền Bắc nước Do Thái. Ngài theo Cha làm nghề thợ mộc, học hỏi Thánh Kinh Cựu Ước. Năm 30 tuổi Ngài thu nạp các môn đồ và đi rao giảng: “Nước Trời đã gần kề, các Người hãy ăn năn xám hối”. Ngài làm nhiều phép lạ để củng cố niềm tin của các môn đồ và quần chúng.
Trọng tâm, Ngài giảng về Thiên Chúa Cha đầy lòng nhân từ và yêu thương Loài Người. Nhiều lần Ngài tự xưng mình là “Con Người – The Man” và “Con Thiên Chúa – The Son Of God”. Ngài bảo: chúng ta có cùng một Cha trên Trời ”Lạy Cha chúng con ở trên Trời…” nên chúng ta là anh em cùng một Cha, vậy hãy yêu thương nhau như Cha trên Trời đã yêu thương chúng ta…Đôi lần Ngài hé lộ với các môn đệ mình là “Đấng Cứu Thế – Đức Kitô – Đấng Christ”, Đấng mà các ngôn sứ đã nói trong Thánh Kinh.
Do có quyền năng làm nhiều phép lạ: kẻ mù được thấy, kẻ điếc được nghe, kẻ bại liệt đứng dậy đi lại, thậm chí Lazaro em trai Martha và Maria đã chết 4 ngày đã được Ngài cho trỗi dậy. Các Môn đồ và dân chúng theo Ngài rất đông và đinh ninh rằng Ngài là vị cứu tinh Dân Tộc đã đến để đưa dân Do Thái khỏi kiếp nô lệ đế quốc Roma.
Ngài nổi đình nổi đám bao nhiêu thì quan quyền và giáo quyền Do Thái ghen tức Ngài bấy nhiêu và quyết ra tay hạ gục ngài. Họ kháo nhau: “Kìa xem, quần chúng theo tên Giêsu cả rồi.” Tuy vậy quan quyền Do Thái không có quyền kết án ai tử hình. Quyền kết án tử thuộc đế quốc Rôma thông qua quan Tổng Trấn Philatô.
Họ tìm cách gài bẫy Ngài: “Ta có phải nộp thuế cho Sesar không”. Câu trả lời thật khó vì Yes hay No họ đều kết án Ngài được. Ngài thoát dễ dàng: Đưa ta xem đồng tiền – Hình ai trên này. Hình Sesar. Ngài bảo: Của Sesar trả cho Sesar, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa. Ngày nay: Của Dân Trả Cho Dân. Cái đám vỗ ngực mình Vô Sản Chuyên Chính thì trả cái “Chuyên Chính Vô Sản” cho họ…
Cuối cùng nhóm quan quyền và giáo quyền Do Thái toa rập nhau cáo gian Ngài tự xưng làm vua và xúi dân Do Thái nổi loạn. Họ mượn tay đế quốc Roma kẻ thù của Dân Tộc Do Thái để hại Ngài
Họ cáo gian và giao nộp Ngài cho quan Philato. Quan này có bà vợ nghe xầm xì về nhiều sự lạ Chúa Giêsu đã làm nên ghé tai nói nhỏ: “Ông phải coi chừng đấy, Ông Giêsu có nhiều quyền phép và chẳng có tội gì đâu. Bọn họ ghen tức ông ta nên mượn tay ông triệt đầu mối đó”.
Philatô biết vậy nên nhiều lần tỏ ý muốn đánh đòn tượng trưng rồi tha Ngài (có khi Philato hi vọng Ngài làm vài phép lạ xem sao…). Nhưng quan quyền & giáo quyền Do Thái hình thành ngay “tòa án nhân dân – CCRĐ” cùng la lớn: Tên Giêsu tự xưng làm vua, nếu quan tha thì quan không phải là trung thần của Sesar. Nghe thế Philato xây xẩm mặt mày: Tha Giesu thì mình…có thể chết đành kết án Chúa Giêsu tử hình. Trước công đường ông rửa tay tuyên bố: “Ta vô tội về máu Người này đổ ra…”.
Hôm đó là ngày Thứ Sáu năm 33AD, Ngài phải vác cây Thập Tự khá nặng leo dốc lên khu pháp trường gọi là Núi Sọ Golgotha, ngoại thành Jerusalem. Ngài bị đóng đinh trên cây Thập Tự, trên đỉnh có ghi bản án bằng 3 thứ tiếng INRI (Jesus Nazareth Rex of Judea – Giesu Nazareth Vua Do Thái) (trong tiếng cổ La Hy I và J là một) cùng với hai người tử tội khác. (Theo nhiều film hiện đại họ cho rằng hai tử tội này chính là kháng chiến quân Do Thái đã nổi loạn chống đế quốc Roma, chứ chẳng phải tội cướp bình thường).
Hình phạt đóng đinh tội nhân treo trên cây thập tự là hình phạt rất tàn ác và nhục nhã nhất của đế quốc Roma. Quan quyền thấy bản án ghi vậy bèn tâu Philatô: Tên Giêsu không phải là vua dân Do Thái mà hắn “tự xưng là Vua dân Do Thái”. Philatô sẵn bực mình quát lớn “What I wrote, Written” – “Những gì Ta viết là đã viết”. Câu này lâu nay đã trở thành phương châm kinh điển của cấp trên khi ra lệnh…
Chúa Giêsu chịu án Tử Hình trên cây Thập Tự vào ngày Thứ Sáu, Ngài chết để làm lễ Giao Hòa giữa Loài Người và Thiên Chúa. Máu Ngài đổ ra để hoàn tất một Giao Ước Mới, một Tân Ước hoàn chỉnh thêm Cựu Ước từ thời Môisen (một Tu Chính Án), đó là: “Mến Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn, sau lại yêu Người như mình ta vậy Amen”.
Đề tưởng nhớ biến cố Giao Ước Mới này, các nước Kitô Giáo (Christian) dành riêng một ngày tưởng niệm gọi là: Good Friday – Thứ Sáu Chịu Nạn. Hiện tại năm 2022 AD, Nhân Loại cũng đang theo chân Chúa Giêsu bước vào cuộc khổ nạn Virus Corona. Nhân loại bị kết án Tù Chung Thân hay Tử Hình do lòng ghen tương đầy oán khí của tập đoàn Ác Gian Ác Đàng và được tiếp tay bởi Thế Lực Ngầm Dân Chủ Mỵ Dân.
Nhân Loại bị kết án tử hình hoặc án tù tập thể với quy mô toàn cầu nên có đủ thời gian suy ngẫm về một Giao ước Mới: “Con Người sinh ra có quyền bình đẳng và có quyền mưu cầu hạnh phúc cho chính mình”. Giao Ước này phù hợp với Giao Ước của Yahweh.
(Có lẽ từ cuối thiên niên kỳ thứ 2 sau Công Nguyên, Hoa Kỳ do các Quốc Phụ Hoa Kỳ thiết lập, có bản Hiến Pháp là kết tinh của hai Giao Ước cũ và mới. Từ đó Hoa Kỳ đã từ từ thay thế vai trò của dân Do Thái. Và rồi Lời Thượng Đế phán với Môisen lại vang vọng rõ ràng hơn: “Ngày nào Hoa Kỳ rời xa Giao Ước này, Hoa Kỳ sẽ bị Quân Thù xâu xé”… và hình như Hoa Kỳ đang bị xâu xé thực từ Thù Trong tới Giặc Ngoài…)
Vào chiều Thứ Sáu ngày 14 tháng Nisan năm 33AD, Chúa Giêsu chịu án Tử Hình trên đồi Golgotha (Núi Sọ ngoại thành Jerusalem) Dù Chúa Giêsu đã chết, nhưng 2 tên “Trộm” cũng bị đóng đinh ở 2 bên chưa chết. Mà ngày hôm sau lại trùng ngày Sabbat nên quan quyền Do Thái đề nghị lính Roma phải làm cho họ chết nhanh hơn không để qua lúc “Mặt Trời Lặn” (vì sang ngày Sabbat).
Lính Roma đánh dập ống khuyển 2 tên trộm (dập ống khuyển thì không thể rướn lên để thở nên sẽ chết nhanh hơn), Khi thấy Chúa Giêsu đã chết, một tên lính cầm cây giáo nhọn đâm vào cạnh sườn thấu tim Ngài để chắc chắn rằng Ngài đã chết. Sau khi hạ xác Đức Giêsu, Mẹ Ngài nhận xác con và cùng vài môn đệ lo việc an táng.
9- Đức Giêsu tự mình sống lại – Thiết lập Giáo Hội
Cũng may có một ông quyền thế trong hàng phẩm trật Do Thái, Ông Joseph thành Armathe, thành viên “Tối Cao Pháp Viện” Do Thái, đã tin theo Chúa Giêsu cách kín đáo đã tặng cho Chúa Giêsu chính ngôi mộ mới tinh được đục trong đá của mình để an táng Chúa với một tảng đá rất to để lấp kín cửa vào mộ.
Vậy mà đám quan quyền Do Thái vẫn còn sợ hãi nên “vào chầu” Philato mà tâu rằng: “Chúng tôi biết tên Giêsu và đồ đệ tên ấy có tài xách động quần chúng nên có thể chúng cướp xác tên Giêsu mà phao đồn tin thất thiệt là Tên Giêsu đã sống lại thì dân chúng lại càng hoang mang hơn làm mất ổn định xã hội”.
Quan tổng trấn Philato phán:
“Các Ông có người thì cứ cử người ra canh giữ”.
Quan quyền Do Thái tâu lại:
“Nhưng chúng tôi không có binh lính vũ trang như lính Roma”
Quan Philato đang sẵn bực mình nói như quát:
“OK, ta sẽ lệnh một Trung Đội Võ Trang canh xác Giêsu 24/24”
Chúa Giêsu được an táng trong mộ đá Từ chiều Thứ Sáu, hết ngày Thứ Bẩy Sabbat, đến sáng sớm ngày Thứ Nhất của tuần lễ mới (tức Chúa Nhật ngày nay) Ngài đã từ cõi Chết tự mình Sống Lại trước sự kinh hãi của Trung Đội Lính Canh Roma. Rồi Ngài đã hiện ra với các tông đồ, ăn uống với họ, tiếp tục giảng dậy họ trong suốt 40 ngày, hình thành Giáo Hội Sơ Khai và đặt Phêrô làm tông đồ trưởng (Giáo Hoàng Tiên Khởi) trước khi về trời trước sự chứng kiến của các Tông Đồ.
10– Những Lời Chứng của các Sử Gia (Thánh Sử)
Ngay sau khi Chúa Giêsu chịu chết, sống lại, thành lập Giáo Hội và lên trời, các Tông Đồ và Môn Đồ đã túa ra đi giảng đạo. Để ghi lại các biến cố quan trọng vừa qua, Bốn Sử Gia đã viết 4 cuốn sử mà người Kitô Giáo gọi là Thánh Sử về “Lịch Sử Ơn Cứu Độ”.
Thánh Sử Mathew gốc người Do Thái, Ông thuộc giới trí thức. Ông đã viết cuốn sử này cho người Do Thái nên đã trưng dẫn rất nhiều điều trong sách Cựu Ước để chứng minh cho Người Do Thái: Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế mà Dân Do Thái mong đợi. Sử Mathew viết bằng tiếng Aram, ngay sau đó được dịch sang tiếng Hy Lạp vì ngôn ngữ này phổ biến trên toàn đế quốc Roma.
Thánh Sử Marco thuộc gia đình giầu có và trí thức. Có lẽ Bữa Tiệc Ly đã được thực hiện tại nhà ông. Marco là môn đệ của thánh Phêrô cũng cùng theo thánh Phaolô trên đường truyền giáo.
Sau này Marcô đi truyền giáo tại Ai Cập thành lập Giáo Đoàn Alexandria, làm giám mục và chịu tử đạo bằng cách chúng dùng ngựa kéo lê Ngài trên đường cho đến chết. Nội dung cô đọng minh chứng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa Hằng Sống.
Thánh Sử Luca là một Bác Sĩ, là một nhà trí thức, Ông tìm hiểu cặn kẽ về gia phả Đức Giêsu, là một thầy thuốc ông mô tả chi tiết về các bệnh nhân mà Chúa Giêsu chữa lành. Ông viết cuốn sử vào năm 50AD bằng tiếng Hy Lạp có lời văn trong sáng nhất và là cuốn Tin Mừng Cho Người Nghèo. Luca theo thánh Phaolô đi truyền đạo và sau cùng chịu Tử Đạo bằng việc bị treo cổ trên cây Ôliu.
Thánh Sử Gioan là môn đệ trẻ nhất trong nhóm 12 tông đồ. Ông là người duy nhất trong nhóm 12 đứng dưới chân Thập Tự nhận di ngôn của Chúa Giêsu là hãy thay Chúa chăm sóc Maria mẹ người. Ông có thời gian suy niệm về những điều mẹ Maria từ lâu đã “giữ kín trong lòng”. Ông lại cũng có thời gian để đọc 3 cuốn sử được viết trước đó.
Bây giờ Ông dùng nhãn quan thần học và triết học để viết cuốn sử sau cùng về Mầu Nhiệm Ơn Cứu Độ: Đức Kitô là Ngôi Lời của Thiên Chúa Cha, Ngôi Lời đã Nhập Thể Làm Người và ở giữa chúng ta, Ngôi Lời đã chịu chết lấy máu mình rửa sạch tội Phản Nghịch Bất Trung của Loài Người và ký lại Giao Ước Mới mang lại quyền “Làm Con Thượng Đế” cho Loài Người. Ông là Tông Đồ duy nhất không Tử Đạo chuyên lo viết Thánh Sử và chăm sóc Mẹ Maria.
11- Chúa đã sống lại thật Alleluia và Đạo Yêu Thương được lan truyền Toàn Cầu
Sau này “Ngư Phủ” Phêrô cùng với “Tiến Sĩ Luật” Phaolô ra đi truyền đạo tại ngay trung tâm Đế Quốc Roma (Rome Ý hiện nay). Phêrô & Phaolô tử đạo tại đây mở đầu 300 năm đế quốc Rôma bách hại Đạo.
Thế kỷ thứ 3, tức 300 năm sau, Hoàng Đế Constantine bãi bỏ việc cấm đạo Kitô Giáo qua đạo luật “Tư Do Tôn Giáo” có hiệu lực tức thời trên toàn Đế Quốc Roma.
Philatô sau này liên kết các sự kiện về Đức Giêsu đã tin Ngài là Đấng Cứu Thế – Con Thiên Chúa Hằng Sống và có lẽ đã là trụ cột của một Giáo Đoàn Kitô Hữu lấy tên Ông tại Hy Lạp.
Cũng từ khi đạo luật “Tự Do Tôn Giáo” có hiệu lực thì ngay từ trung tâm Đế Quốc Rôma các “Hạt Giống Tin Mừng” đã nẩy mầm và được gieo trồng trên tất cả các biên cương của Đế Quốc Rôma hình thành nền “Văn Minh Kitô Giáo” mà ngày nay đang được thực hiện tại tất cả các nước văn minh phương Tây trong suốt gần 20 thế kỷ.
Với quyền năng của Con Thiên Chúa, Ngài đã chiến thắng cái chết và hứa sẽ đem tất cả những ai giữ lề luật Ngài tức Giao Ước Mới, Ngài sẽ không để kẻ đó chết đời đời mà sẽ cho sống lại cả hồn lẫn xác trong ngày sau hết.
Như Dân Do Thái xưa đã Vượt Qua Pass Over Biển Đỏ thoát kiếp nô lệ Ai Cập mà vào Đất Hứa như thế nào thì Đức Giêsu cũng đã Vượt Qua Pass Over Thần Chết như vậy. Nếu Đức Giêsu chỉ chịu chết mà không sống lại thì quả thực niềm tin của Loài Người vào Đấng Cứu Thế hoàn toàn trở nên vô ích.
Từ việc Vượt Qua Thần Chết của Ngài, nhân loại được mở lại kỷ nguyên: Loài Người là một thụ tạo tuyệt vời của Thượng Đế, làm Con Thượng Đế, làm cầu nối gắn kết giữa Thiên Thượng và Vũ Trụ, gắn kết hoàn hảo giữa Tinh Thần và Vật Chất. Trong Giao Ước Mới, Nhân Loại đã nhận thức thêm, cần cương quyết theo đuổi con đường Thiện Lương, xa lánh ma quỷ là bọn Ác Gian Ác Đảng, Thiên Tả Mị Dân, Vô Thần Lường Gạt, để rồi một ngày rất gần Nhân Loại được sống lại như trong ngày
Easter Sunday – Pass Over Day
Chúa đã sống lại rồi Alleluia Alleluia.
Nhân Loại được Cứu Rỗi khỏi các Loại Trùng Độc và sẽ Sống Lại thật Alleluia Alleluia…
God Bless America, God Bless Canada, God Bless Việt Nam, God Bless Ukraine, God Bless The World…
Lạc Việt
Good Friday April 15 & Easter Sunday April 17, 2022