ĂN NO MẶC ẤM VÀ ĂN NGON MẶC ĐẸP (Peter C. Tran)

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

Sáng nay tôi đưa hai đứa cháu ngoại đến trường như mọi ngày. Trước khi xuống xe, hai đứa ôm hôn ông một cái, say good bye ông. Ông cũng ôm hôn lên má mỗi đứa một cái và căn dặn:
– Hai đứa nghe ông nói: Phải ăn cho hết phần ăn sáng và phần ăn trưa ở trường, không được bỏ bất cứ món nào, OK?
– Dạ! Ông!
Dặn cứ dặn, chúng dạ cứ dạ, nhưng tôi biết thế nào chúng cũng quăng đồ ăn chúng không thích vô thùng rác, nhất là cậu nhỏ, rất kén ăn.
Con nít những nước nghèo, chậm tiến, thiếu ăn, ốm lòi xương sườn, còn con nít ở xứ bơ sữa này, chúng quăng bỏ đồ ăn không xót thương. Hộp sữa tuơi nguyên xi, chưa mở, mà vì no bụng, hay vì bất cứ lý do gì không muốn uống, là quăng vô thùng rác! Cho nên cứ phải nhắc chừng hoài.
Hai đứa cùng dạ, phóng khỏi xe, tung tăng như hai chú khỉ con, chạy phăng vô trường.
Trên đường về, tôi lái xe mà lòng suy nghĩ miên man đủ thứ chuyện: Nhớ lại ngày xưa cũng đưa các con đi học, chúng cũng hôn ba mẹ như hai đứa cháu bây giờ; Nhớ tới nụ hôn duy nhất mà bà già đặt lên má mình trước mặt mọi người năm học lớp Đệ Thất; Rồi nghĩ đến chuyện chúng quăng bỏ đồ ăn, lại nhớ tới chuyện “ăn no mặc ấm, ăn ngon mặc đẹp”, được nghe nói đi nói lại hằng ngày ở giảng đường Đại Học Cần Thơ sau năm 75.
Thôi thì viết vài ba chuyện chơi. Cũng là viết chơi cho bạn bè đọc chơi đỡ buồn. Tôi viết mệt thì nghỉ. Bạn bè đọc mệt, cũng tự nhiên nghỉ.
1. Nụ hôn để đời.
Tôi sinh ra và lớn lên ở thôn quê miền Nam. Ăn cơm nguội, húp nước mắm, vậy mà lớn vù vù. Tuổi thơ của tui hả? Sôi động, dữ dội như bao đứa trẻ nhà quê khác: U hấp, u hơi, bắn bi, cong chân nhảy cò cò đá gà, đá dế, lấy bộp dừa nước đẽo làm súng chia phe đánh trận, cởi truồng tắm sông, móc đất sét nắn trâu, bắn bi, bắn chim, đào hang bắt chuột, đặt lờ, tát mương, cắm câu, đặt trúm bắt lươn,… thứ nào tui cũng rành sáu câu!
Nói chung, từ chuyện leo dừa, bẻ mía, hái bần, đến chuyện nghịch ngợm, tụ tập chọc ghẹo, phá làng phá xóm, tôi đều “tinh thông”. Chỉ có uýnh lộn thì gần như không có, nhưng xúi bọn trẻ đánh nhau, thì tôi rất có khiếu! Hai đứa cứ kên với nhau mà hỏng chịu “xáp lá cà”, tôi chỉ cần khích bác một câu nhẹ nhàng: “Thằng nào đánh trước làm cha”, thì thế nào cũng có một trận thư hùng coi chơi miễn phí. Bọn con nít chúng tôi chỉ cần đứng ngoài la, hét, vỗ tay, cổ động cho gà nhà, hay làm thày đời chỉ hết thế đánh này đến thế kẹp cổ khác, là “sướng rên mé đìu hiu” rồi!
Những chuyện như vậy, phải cỡ nhà văn Duyên Anh, viết mười quyển truyện tiểu thuyết về tuổi thơ, cũng chưa hết chuyện để viết. Sinh hoạt đồng quê, phải Bình Nguyên Lộc hay Sơn Nam tái sinh, viết thêm một đời cũng còn chuyện để viết. Tôi chỉ lâu lâu nhớ lại tuổi thơ, thấy thèm thuồng, nhớ da diết, muốn viết, mà chữ nghĩa coi bộ không đủ.
Xong lớp Nhứt (lớp Năm bây giờ), tôi may mắn được ra Cần Thơ để học lớp Đệ Thất (lớp Sáu bây giờ) ở trường Đồng Tâm. Thằng bé nhà quê, mới hôm nào còn đi chân đất, quần ống thấp ống cao, mặt mày lem luốc,… y như nông dân Hai Lúa, giờ bỏ quê ra thành! Bắt đầu biết mặc quần tây, áo sơ mi, dép sa bô, đầu chảy briantine láng coáng đến “ruồi đậu phải chống gậy”, nhưng cái mặt bơ bơ nhà quê, thì không thể một ngày một bữa mà thay đổi được!
Cần Thơ rộng lớn và náo nhiệt hơn cái tỉnh lẻ Chương Thiện của tôi ngàn lần. Cái “Khu Trù Mật Vị Thanh”, giáp ranh rừng U Minh, đã vươn mình, trở thành tỉnh lỵ Chương Thiện. Nhưng là tỉnh lẻ, nên nó nhỏ bằng nắm tay, đường ổ gà như thiên la địa võng, và người ta tặng cho nó cái biệt danh: Thành phố nắng bụi mưa sình! Nó nhỏ xíu, nên xách xe đạp chạy một vòng, chưa tới 10 phút đã trở về chỗ cũ! Còn Cần Thơ thì rộng bao la, xe cộ tấp nập, đường nhựa láng bóng, chạy mấy ngày chưa chắc hết. Đúng là “Ngựa xe như nước, áo quần như nêm”! Tây Đô mà!
Tôi mỗi ngày đạp xe từ đường Trần Hưng Đạo, gần Cầu Đôi Mới, đến trường Đồng Tâm, ngay bên hông nhà thờ Chánh Toà Cần Thơ, ở xóm Cầu Xéo. Quần tây, áo sơ mi trắng viền cổ xanh dương, là đồng phục của trường. Ngày đó khoác bộ đồng phục, thấy kiêu hãnh lạ thường. Giờ nhớ lại, thấy nó quê quê làm sao á! Quần tây thì bình thường, nhưng cái áo sơ mi ngắn tay, tự nhiên may thêm cái cổ áo màu xanh, rất vô duyên, chẳng giống ai cả!
Tôi đã bỏ lại sau lưng hết bạn bè và những kỷ niệm vui buồn tuổi thơ ở xứ Ông Dèo, Hoà Hưng. Nhớ nhà dữ lắm. Nhớ cha má và anh chị em. Cần Thơ rộn rịp, hoa lệ, xe cộ ì xèo, đường phố chằng chịt, người tấp nập, nhưng tôi thấy mình lạc lõng, cô đơn lạ thường. Nhớ cha má nhứt.
Tôi là con trai áp út trong gia đình muời đứa con. Khi tôi chào đời nhà tôi đã có sẵn 8 anh chị em rồi. Nhà đông, nên lúc nào cũng ồn ào náo nhiệt. Mâm cơm chiều, anh chị em tôi ngồi chật hết bộ ngựa gõ.
Có lẽ vì tôi là một con gà trong cả một đàn gà con đông đúc, nên gà cha và gà mẹ cũng không hơi đâu mà chú ý, mà cưng chiều như đã từng cưng những con gà đầu đàn. Nhàm cũng phải! Cũng có thể vì cái thói quen của người Việt: Ít khi, hay dường như không bao giờ muốn tỏ ra gần gũi, thân mật, âu yếm với con cái, vì sợ chúng “lừng phèn”, khó dạy, dễ hư. Cỡ năm sáu tuổi, thì chuyện ôm, nựng, hay hôn con, dường như hỏng có. Nói không thương con thì hoàn toàn không đúng, vì tôi biết cha má tôi tuy rất nghiêm khắc, nhưng thương con lắm. Chỉ là không muốn tỏ ra bên ngoài thôi.
Xã hội vậy, mọi người xung quanh vậy, mình không vậy, tự nhiên mình sẽ là tâm điểm của mọi đàm tiếu. Tôi chả trách hờn gì cha má về cái chuyện tại sao hai ông bà hỏng bao giờ có những cử chỉ thân mật, âu yếm với tôi. Có lẽ hồi còn nhỏ, bồng trên tay, thế nào má tôi cũng đã từng hôn tôi, nhưng từ khi có trí nhớ, tôi chưa bao giờ cảm nhận được nụ hôn của người mẹ dành cho con.
Còn cha tôi? Đời nào có chuyện hôn con! Nghiêm nghị như Bao Công xử án! La rầy, đánh đòn đám con thì có, chớ những cử chỉ âu yếm, đối với đàn ông VN dễ gì thấy. Ra đường đi gần vợ, nắm tay vợ còn không dám, vì sợ thiên hạ cười và đồn ầm lên cả làng xã.
Tôi cảm nhận được tình thương của cha má dành cho mình, bằng những chuyện rất nhỏ khác. Lâu lâu ông già lôi tôi xuống mé sông tắm rửa, kỳ cọ cho tôi, và lúc nào cũng hăm he một câu:
– Mày xuống sông tắm chỉ lo lặn hụp, móc sình liệng với nhau, miệng mọc râu, răng đánh bù cạp, mình mẩy đóng hòm cả lớp, không lo kỳ cọ đâu. Lần sau tao thấy còn ở dơ, tao lấy cỏ bắc, dzuột mày cho sạch!
Tôi biết ông già chỉ “mắng yêu” thôi, chớ cỏ bắc lá nhỏ, bén hơn lá lúa, nhám hơn tờ giấy nhám, đụng vô, dù da dầy như da trâu cũng rướm máu!
Ở trong vùng xôi đậu, lâu lâu “họ” về, tổ chức “mít tinh”, có đoàn Văn Công về ca hát, diễn kịch, biểu diễn văn nghệ. Cả xóm ai cũng nô nức đi xem. Cha tôi không bao giờ cho con cái đến những chỗ thị phi đó. Lý do đơn giản: “Lỡ lính vô, nó bắn lạc đạn, tụi bây chạy đi đâu cho thoát!?”
Vùng quê, không rạp xi nê, không có bất cứ một trò giải trí nào. Đây là dịp ngàn năm một thuở để trẻ con vui chơi, để đám thanh niên như các anh các chị tôi có cơ hội tụ tập, liếc ngang liếc dọc, đá lông nheo, kiếm “mèo”,… nhưng cha tôi phán một câu, như thánh chỉ của hoàng thượng ban xuống cho thần dân! Cả nhà tôi im re, không một ai dám lên tiếng năn nỉ, vì biết tính cha tôi “một là một”! Cũng vì thương con, muốn bảo vệ con thôi mà.
Lên Cần Thơ được khoảng một tháng, cha má tôi chắc vì nhớ thằng con đi xa, nên khăn gói lên thăm. Vừa gặp tôi, bà già ôm tôi cứng ngắc, rồi bất ngờ hun lên mặt tôi một cái chụt, trước mặt mọi người. Tôi mắc cỡ điếng cả người! Con trai mười mấy tuổi, ai đời lại để má ôm hun giữa thanh thiên bạch nhật!
Đó là nụ hôn đầu tiên, duy nhất từ bà già mà tôi ghi nhận trong đời. Một nụ hôn “đột xuất”, hết sức bất ngờ, ngoài dự đoán của tôi. Có lẽ nó cũng vượt tầm kiểm soát của má tôi, vì lâu ngày không gặp con, không kềm chế được, nên “phá lệ”.
Tôi đã hơn sáu mươi. Cha má tôi đều đã mất từ lâu lắm rồi. Nhưng nụ hôn đó tôi chưa bao giờ quên. Cái cảm giác mắc cỡ hoà lẫn sự xúc động vẫn còn chạy rần rần như điện giựt trong huyết quản mỗi lần tôi nhớ đến. Nó xảy ra năm 1966, cách nay đã hơn năm mươi năm! Hơn nửa thế kỷ trôi qua, nhưng tôi vẫn nhớ, bởi vì nó là “nụ hôn để đời”.
2. Your parents didn’t love you that much?
Trước khi cưới nhau, chúng tôi bàn tính đủ thứ chuyện tương lai. Chắc cặp nào cũng vậy. Trong những đề tài “nghiêm chỉnh”, chúng tôi đồng ý với nhau một việc: Bất cứ chuyện gì cha mẹ làm cho mình mà mình không thích, hay thấy không hợp lý, thì mình sẽ không làm như vậy cho con cái. Chúng tôi muốn nói đến cách dạy dỗ con cái sau này.
Tôi đã biết làm “cách mạng” ngay từ lúc còn rất trẻ. Tôi sinh ra và lớn lên nơi đồng chua, vắt, đỉa, muỗi, mòng, nhưng trưởng thành ở chốn phồn hoa đô hội. Đó là cái may mắn mà tất cả anh chị em tôi cũng như bạn bè trang lứa không có. Những nét hay đẹp, đáng nhớ, dễ thương, của nhà quê, tui giữ hết. Những cái dở ẹt, tui mạnh dạn vứt bỏ, không chút thương tiếc.
Chúng tôi xưng hô bằng tên, rất thân thiết, không bắt chước nhà quê nói trỏng hay gọi nhau bằng những từ nghe rất kỳ cục. Chúng tôi ra đường nắm tay nhau, đi sát nhau như đôi tình nhân dạo phố Cần Thơ. Trước mặt mọi người, tui không hề mắc cỡ khi có những cử chỉ âu yếm với bà xã. Trước mặt con cái, cảm thấy thương vợ, cứ ôm hôn một cách tự nhiên như người Tây phương.
Tôi nghĩ rất đơn giản và dễ hiểu: Tại sao người VN nói chung, người nhà quê nói riêng, lại giấu giếm những cử chỉ thương yêu, thân thiết như vậy, trong khi cãi vả, xô xát thì không những con cái biết, mà cả hàng xóm đều hay? “Xấu che, tốt khoe”, mới là hợp tình hợp lý, hà cớ gì làm ngược ngạo?
Con cái chúng tôi dù lớn cỡ nào, chúng tôi vẫn ôm chúng hôn công khai, tự nhiên. Mỗi sáng đưa chúng đi học, chúng cũng đều hôn chia tay ba hay mẹ, trước khi bước xuống khỏi xe, và chúng tôi cũng hôn chúng lại.
Hôm đó con gái lớn sau khi đi học về, kể cho ba mẹ nghe:
– Mấy đứa bạn học người Dziệt của con, chúng nó ngạc nhiên khi thấy con hun ba trước khi xuống xe. Chúng nó hỏi con:
– You kissed your dad and he kissed you?! It’s so weird! We never did that!
– Rồi con trả lời sao? Tôi tò mò hỏi lại.
Con gái tôi rất tự hào lập lại câu trả lời cho bạn của cháu:
– So, your parents didn’t love you that much? They love us so much and so do we.
Chúng tôi nhìn nhau, niềm vui trào dâng. Chúng tôi hãnh diện và tự hào có một đứa con gái khôn lanh như vậy. Chúng tôi đã thành công.
Tình thương cha mẹ dành cho con cái là một điều vô cùng cao cả và đáng hãnh diện, tại sao phải che giấu? Con gái tôi trả lời đứa bạn bằng một câu hỏi “móc họng”, nhưng điều đó chứng tỏ cháu rất hãnh diện về tình yêu mà gia đình chúng tôi dành cho nhau. Năm đó cháu đã lên Trung Học, và ba đứa em của cháu đều lớn hơn tuổi của ba chúng khi được bà nội ôm hôn giữa công chúng.
Tuần rồi con gái út ghé thăm ba mẹ. Cháu đã 35 tuổi, có gia đình, sắp làm mẹ. Vừa gặp ba mẹ, cô út nhào tới ôm xiết và hôn ba mẹ như lúc cháu còn bé. Tôi cảm nhận được tình cha con, mẹ con, rất thực, chớ không phải “ôm hôn thắm thiết” kiểu ngoại giao. Con gái lớn nay đã 39, cặp sinh đôi 37, chúng cũng tự nhiên với ba mẹ như cô út.
Đó là điều chúng tôi mong muốn. Chúng tôi hãnh diện về điều đó. Những nụ hôn ý nghĩa hơn vạn lần chữ nghĩa hay những mỹ từ giả tạo.
3. Ăn no mặc ấm. Ăn ngon mặc đẹp.
Trước 75, nhà tôi tuy nghèo, nhưng chưa đói và lạnh ngày nào cả. Chuyện ăn độn ở miền Nam chỉ xảy ra sau 75!
No là có lúa gạo đủ ăn suốt năm, không cần bữa rau bữa cháo. Ăn cơm với muối, kho khô quẹt, dừa cứng cạy kho tương, rau muống đồng luộc chấm chao, ba khía,… cũng được, miễn có đủ cơm là coi như no. Nghèo nhưng gia đình tôi chưa từng ăn độn. Tuy nhiên, đó chỉ là no vật lý, chứ chưa phải no dinh dưỡng.
Ấm là có đủ quần áo mặc, không rách rưới lang thang như đệ tử cái bang. Các chị tôi không lụa là nhung gấm như những tiểu thơ đài các, nhưng cũng áo may bằng vải soa của Pháp, hay vải ca-tê, và quần sa-teng ,… “mướt rượt”!
Những năm 1976 đến 1980, tôi nghe lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần ở giảng đường Đại Học Cần Thơ, trong giờ học triết học Mác-Lenin, những từ ngữ như: Ăn no mặc ấm, ăn ngon mặc đẹp, làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu….
Thầy giáo dùng những chữ nghĩa rất tượng hình, để đám sinh viên chúng tôi mường tượng ra những bước đi lên, tiến dần tới thiên đường xã hội chủ nghĩa. Nghe phát ham, nghe nức lòng bọn thanh niên mới lớn!
Con người ta ai cũng hướng tới tương lai, cũng đặt niềm tin, cũng hy vọng. Cứ nghe hoài về một viễn ảnh tốt đẹp, người ta quên đi chuyện nhai bo bo đến trẹo bản họng hay nuốt khoai mì nghẹn cổ đến trợn trắng. Cứ hy vọng có một ngày ăn sang, ăn ngon, mà quên đi rau muống luộc trường kỳ. Rau muống muôn năm! Rau muống thần thánh, vì một ký rau muống nó bổ tương đương một ký thịt bò! Thánh nào phang câu này, đúng là biết tâm lý của “đám quần chúng ngu muội”, dễ tin! Cả bầy sinh viên bụng đói, ngồi trong giảng đường Đại Học, nghe còn phát ham, huống chi dân bần cố nông.
Nói giảng đường nghe cho có vẻ trường Đại Học, chứ thật ra đó là những căn nhà mái lá, vách lá, nền đất, mà tôi vẫn thường nói đùa với đám bạn học Trồng Trọt khoá 1 của tui: Nó giống cái chuồng trâu của nhà tui ngày xưa!
Mỗi năm, một vài mét vải cho mỗi đầu người, nhưng người ta cũng không than vắn thở dài. Mai kia mốt nọ, sẽ mặc đẹp với lụa là nhung gấm. Tin như vậy, người ta đỡ thấy cực và khổ!
Năm năm sống trong hy vọng và niềm tin đó, nhưng chưa có chuyện gì xảy ra: Người dân vẫn ăn độn, vẫn vài mét vải một năm. Khắp mọi nẻo đường đều có trạm xét “đồ lậu” như gạo, thịt, đường, vải vóc,… Tôi vẫn không thể hiểu tại sao những nhu yếu phẩm đó lại biến thành đồ lậu và bị người ta chận bắt, tịch thu vô tội vạ. Tịch thu xong đem đi đâu, ai ăn, ai nuốt trôi hết những thứ đồ “lậu” đó? Chỉ có bọn chúng biết và trời mới biết!
Đặt chân đến Mỹ, bà xã tôi mua gà về đút lò cho cả nhà ăn liên tiếp mấy hôm liền. Ăn đến ngán, đến hết thèm, đến “tràn bản họng”, nói theo kiểu nhà quê của tôi. Gà rô ti nguyên con, nóng hổi, thơm phức, ngọt lịm, cứ xé ăn cho tới no. Không cần ăn cơm, không cần ai nhường ai. Muốn ăn phần nào của con gà, cứ tự nhiên. Ăn như chưa từng được ăn. Ăn để “trả thù” những ngày không có thịt ăn.
Các con tôi lên bàn ăn, không cần ngó trước ngó sau, không cần “ăn trông nồi, ngồi trông hướng” như ba nó ngày nhỏ. Chúng muốn ăn bất cứ món nào, cứ tự nhiên, không cần nhường cho ông, bà, cha, mẹ, hay bất cứ ai trong bàn cơm. Muốn thịt nạc, muốn cái đùi gà, muốn cái cánh, muốn cái gan, cái mề,… cứ gắp và ăn cho tới ngán thì thôi.
Vậy ai gặm xương? Có ba! Không ai bắt hay ép, nhưng vì thấy bỏ uổng phí, kèm theo cái mặc cảm “tội”, cho nên ba của chúng ráng gặm bằng hết. Ăn riết thành quen, và dường như thấy nó ngon hơn ăn thịt.
Thịt ăn xảm xì, nhai như người ta nhai trầu! Nói chuyện “chảnh”, nghe phát ghét? Không! Đó là sự thật, không thêm bớt, không cường điệu, không xỏ xiên ai cả! Hồi còn ở VN, trước 75, tôi đã từng nghe cái câu “thịt nạc ăn xảm xì”, cũng thấy khó chịu, bởi vì có rất nhiều người như tôi, quanh năm không thấy hình bóng hay mùi vị của thịt, trong khi có người thừa mứa, ăn đến phát ngán, chê lên chê xuống. Bình tâm suy nghĩ, đó không phải là “chảnh”, mà nó nói lên thực trạng của sự sung túc. Khi bạn ăn đủ thứ sơn hào hải vị, thịt cá đầy mâm, ngày nào cũng vậy, bữa cơm nào cũng vậy, bạn sẽ thấy nó không còn ngon như một người nghèo lâu lâu được gắp môt cục thịt bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến. Thịt lúc đó ăn xảm xì! Đúng vậy.
Năm 1995 bà xã tôi dẫn các con về VN cho biết cội nguồn, dòng họ hai bên. Năm đó đứa lớn đã lên ĐH, ba đứa nhỏ còn Trung Học, tôi mới dạy các con “ăn trông nồi, ngồi trông hướng”, vì ở VN không như bên này.
Tôi kể cho chúng nghe chuyện ba chúng mỗi ngày chỉ ăn một cái trứng, trưa nửa, chiều nửa, cái thời học ĐH Cần Thơ. Không đứa nào tin. Tôi nói rằng ba ăn như vậy là thuộc hàng “quí tộc” rồi, vì các bạn của ba, cơm còn không đủ ăn, phải ăn độn, húp nước mắm,… Chúng càng không thể tin hay tưởng tượng ra cái cảnh đó.
Tôi kể cho các con nghe thêm: Làm thịt một con gà, người ta nấu nhiều món, và cả nhà có khi hơn chục người, ăn rau, húp cháo, chan canh là chính, và phải nhường nhau từng cục thịt nhỏ. Tôi kể thêm: không phải mỗi bữa ăn đều có thịt để ăn, mà lâu lâu, rất lâu, mới dám làm thịt một con gà. Chúng càng không thể tin.
Tôi căn dặn các con:
– Khi mẹ dẫn đi restaurant, thì mấy đứa con cứ ăn như mình ở Mỹ. Nhưng khi về nhà người thân, dù đó là nhà ông bà nội, ông bà ngoại, hay các cô dì chú bác, thì đừng có luôn luôn lựa miếng ngon mình ưa thích mà gắp,… bla, bla…
Hồi còn ở VN, tui nghe người ta nói: Mỹ và các nước Tây phương, họ ăn thịt là chính, còn bánh mì chỉ là ăn độn thêm cho đỡ ngán thịt. Tui không tin, cho rằng họ nói xạo. Cho nên, không lạ gì những người “chỉ đi mưa” (chưa đi Mỹ), bây giờ cũng không tin, hay khó tin những điều như vậy.
Tin hay không, sự thật vẫn là sự thật. Chuyện người tây phương bị bịnh béo phì do ăn nhiều thịt mỡ, là chuyện có thiệt, và nó đang là vấn nạn rất lớn cho chính phủ, và các hãng bảo hiểm sức khoẻ. Phong trào cổ võ chuyện “ăn chay kiêng thịt”, đang rất rầm rộ trên khắp các nước tư bản giàu có, dư thừa thịt mỡ, bơ sữa, cũng là chuyện có thiệt.
Đồ ăn quá thừa mứa, cho nên người ta không quí. Ăn tới tràn họng, không biết thèm thuồng là gì, cho nên đồ ăn cũ (leftover) ít khi tụi nhỏ ngó tới. Ba lại là “con chó trong nhà”, luôn ráng ăn đồ thừa của sắp nhỏ, vì bỏ cứ thấy “tội”. Sức người cũng có hạn. Ăn hoài đồ cũ rồi cũng nuốt hết trôi. Để trong tủ lạnh năm ba bữa, thấy nó lên men, hôi chua, chừng đó mới có lý do chính đáng để đổ bỏ mà không thấy “tội” nữa. Vẫn phí phạm. Bỏ nhiều lắm! Bỏ thường xuyên!
Mặc thì sao? Phung phí quá sức, nhất là phe của bả! Quần áo viện cớ mỗi mùa nóng lạnh khác nhau, phải mua sắm theo mùa, nhưng đồ mặc mùa đông năm nay thì sẽ không rớ tới mùa đông năm sau, vì nó lỗi thời. Đồ mùa hè năm nay, mùa hè năm tới sẽ mua cho năm tới, chớ không mặc lại đồ của năm trước! Quần áo chỉ mặc một mùa, mà mỗi mùa chỉ có 3 tháng, và trong ba tháng, một bộ đồ vừa mua, chưa chắc xỏ vô hơn ba lần! Có nghĩa là đồ bỏ ra vẫn còn mới tinh! Làm gì có chuyện rách gấu, sờn bâu? Đồ cứ thế mà đầy tủ áo. Lâu lâu, soạn ra, thấy còn mới, vẫn không chịu mặc, không muốn mặc, với lý do mới hơn: mập hơn tí mặc không còn vừa, ốm ơn tí mặc không còn đẹp,… rồi gom lại chỡ cho nhà thờ.
Nhà có ba cô con gái, chỉ một cậu trai. Đồ con trai bỏ ra, ba còn lượm mặc. Đồ con gái và bà xã bỏ ra, ba thua! Chỉ có áo thun, loại áo không kỳ thị giới tính, không kén kích thước, thì đứa nào bỏ ra, ba cũng gom lại mặc. Tủ của ba có cả vài chục cái áo thun cũ. Có những cái mặc vào con cái xúm nhau cười, vì nó chẳng hạp cho ông già chút nào. Kệ! Bỏ tội! Vậy đó!
Ngày mới qua Mỹ, hai vợ chồng bốn đứa con, nhận tiền trợ cấp từ chính phủ được khoảng $750 USD/tháng cộng thêm tem phiếu thực phẩm (food stamp) chừng $150 USD. Mướn apartment hết $650/tháng. Cả nhà gói ghém trong $100 tiền mặt và $150 food stamps! Những nhu yếu phẩm tối cần thiết như giấy vệ sinh, kem đánh răng, xà bông,… mới có quyền đụng tới cái ngân khoản $100 nhỏ nhoi còn sót lại. Tất cả mọi thứ khác, hoặc là xin các hội từ thiện, hoặc là ra chợ trời gom về xài. Hội cho bộ nệm. Ra chợ trời mua đôi giày cũ 25 cents. Vô chợ Good Will lượm được chừng chục cái áo sơ mi còn mới tinh, chỉ 25 một cái! Vui khôn tả! Không tiện tặn gói ghém như vậy, $100 đô sao sống nổi?
Còn quà cáp tiếp viện cho gia đình hai bên. Thời đó mỗi tháng chỉ có khả năng gởi được một gói nặng đúng 2 pounds đường bưu điện, cho nên phải cân nhắc, gởi làm sao cho vừa túi tiền, mà lợi kinh tế nhất cho bên nhà. Tôi nhớ dường như 6 khúc vải quần soa Pháp, và 3 chai dầu gió xanh thì đúng bon trọng lượng bưu điện cho phép. Tháng này gởi cho bên nội, thì tháng sau gởi cho bên ngoại. Chỉ là cứu đói, chớ làm giàu làm có gì với gói quà nhỏ tí tẹo đó!
Những ngày đó, những ngày sống trong thiếu thốn, mua món gì bà xã cũng ngồi tính nhẩm coi còn tiền để xài cho thứ khác hay không. Tôi an ủi vợ:
-Một ngày nào đó, anh sẽ có tiền để em muốn mua gì thì mua, không cần suy nghĩ.
Tôi hay hứng chí hứa ẩu. Nhưng được cái tôi ít khi thất hứa, nhứt là với vợ con. Bả cười tin tưởng. Không tin, sao dám lấy thằng chồng nghèo rớt mồng tơi! Bà xã tôi tuy xuất thân con nhà khá giả, sung sướng như tiểu thơ, nhưng khả năng thích nghi với hoàn cảnh phải nói là tuyệt diệu. Chưa bao giờ than vãn. Tiền nhiều xài nhiều, tiền ít xài ít. Bao nhiêu cũng đủ.
Rồi ngày đó cũng tới. Mười năm sau, bà xã muốn xài gì thì xài, muốn mua gì cứ mua, không cần suy nghĩ tính toán như hồi cầm vài đồng để mua một cuộn giấy vệ sinh. Nói theo người cộng sản, là “hưởng theo nhu cầu”. Ở đây tôi cũng chỉ nói cách chung cái nhu cầu sinh hoạt của đại đa số dân Mỹ thôi. Chứ lấy nhu cầu của gia đình Donald Trump ra làm tiêu chuẩn, như cần mua máy bay thì mua, cần mua du thuyền thì mua, thì tui có nằm mơ cũng không được trải nghiệm!
Tôi cũng gieo vào đầu các con, cái tư tưởng rất cộng sản đó:
– Mấy đứa con học gì cũng được, miễn là sau này khi có gia đình, có con cái, tụi con muốn mua thứ gì là chạy đi mua, không cần suy nghĩ coi mình mua thứ này thì còn tiền để mua thứ khác hay không, bla, bla,… Cuộc sống đạt được mức đó, thì đúng là thiên đường rồi.
Tới thời điểm này, chuyện ăn no mặc ấm, ăn ngon mặc đẹp, không là vấn đề gì đối với chúng. Cái tiêu chuẩn “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” có thể nói cũng đã tới với chúng.
“Ăn ngon mặc đẹp, làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, có phải là ảo tưởng? Không! Đó là sự thật. Không phải là hứa hẹn suông cho quên nghèo và khổ. Cũng không phải nằm mơ. Cũng chẳng cần một chủ thuyết bá láp nào làm kim chỉ nam! Lạ một cái là điều đó nó chỉ thấy ở các nước tư bản “giãy hoài hỏng chết” chớ không thấy ở các xứ thiên đường XHCN!
Hỏng tin thì sang đây mà coi.
Peter C. Trần