Nguyễn Du (阮攸 ; 1766 – 1820) tên tự là “Tố Như” (素 如) , hiệu là “Thanh Hiên” (清 軒) , là một nhà thơ Việt Nam thời “Lê mạt Nguyễn sơ” .
Trong trận dịch lớn vào năm 1820 , Nguyễn Du bị lây bệnh dịch tả , ông mất ngày mồng 10 tháng 8 năm Canh Thìn (tức ngày 16 , tháng 9 , năm 1820) , hưởng dương 54 tuổi.
.
“Văn tế thập loại chúng sinh ” , của Nguyễn Du là một ngâm khúc gồm 184 câu , theo thể song thất lục bát , là một tác phẩm được nhiều học giả nghiên cứu , trích giảng .
Trong văn bản do ông Đàm Quang Thiện hiệu-chú , có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo” , như sau :
“Nguyễn Du viết bài văn chiêu hồn này , sau một mùa dịch khủng khiếp , làm hằng triệu người chết , khắp non sông đất nước âm khí nặng nề .
Ở khắp các chùa đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn”.
Ông Hoàng Xuân Hãn cho rằng Nguyễn Du viết “Văn tế thập loại chúng sinh” trước cả Truyện Kiều , khi Nguyên Du còn làm Cai-Bạ ở Quảng Bình (1802-1812)”.
VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH
Tiết tháng bảy , mưa dầm sùi sụt ,
Toát hơi may , lạnh buốt xương khô
Não người thay , buổi chiều thu ,
Ngàn lau nhuốm bạc , lá ngô rụng vàng
Đường bạch dương , bóng chiều man mác ,
Dịp đường lê , lác đác sương sa
Lòng nào , lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế , nữa là cõi âm ?
Trong trường dạ , tối tăm trời đất ,
Cỏ khôn thiêng , phảng phất u minh
Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn , phách chiếc , linh đinh quê người
Hương lửa đã không nơi nương tựa
Hồn mồ côi , lần lữa bấy niên …
Còn chi ai ác , ai hiền
Còn chi mà nói : ai hèn , ai ngu
Tiết đầu thu , lập đàn giải thoát
Nước tĩnh đàn , sái hạt dương chi
Muôn nhờ Đức Phật từ bi
Giải oan cứu khổ , độ trì Tây Phương.
.
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh
Chí những toan gánh vác non sông
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất , vận cùng , mà đau .
Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở
Khôn đem mình làm đứa thất phu
Lớn sang , giầu nặng , oán thù
Máu tươi lai láng , xương khô rụng rời
Đoàn vô tự , lạc loài nheo nhóc ,
Quỷ không đầu đứng khóc đêm mưa
Cho hay : thành bại là cơ
Mà cô hồn , biết bao giờ cho tan .
Nào những kẻ màn lan , trướng huệ
Những cậy mình cung quế Hằng Nga ,
Một phen thay đổi sơn hà ,
Mảnh thân chiếc lá , biết là về đâu ?
Trên lầu cao , dưới dòng nước chảy
Phận đã đành : trâm gãy bình rơi
Khi sao đông đúc , vui cười
Mà khi nhắm mắt , không người nhặt xương.
Đau đớn nhẽ , không hương , không khói
Hồn ngẩn ngơ , dòng suối , rừng sim.
Thương thay , chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo , một đêm một dài.
Kìa những kẻ mũ cao áo rộng ,
Ngọn bút son , thác sống ở tay
Kinh luân , găm một túi đầy
Đã đêm Quản Nhạc , lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm , oán thù càng lắm ,
Trăm loài ma , mồ nấm chung quanh
Ngàn vàng , khôn đổi được mình
Lầu ca viện hát , tan tành còn đâu ?
Kẻ thân thích , vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước , nén nhang?
Cô hồn thất thểu dọc ngang
Nặng oan khôn nhẽ , tìm đàng hóa sinh ?
.
Kìa những kẻ bài binh bố trận
Dấn mình vào cướp ấn nguyên nhung
Gió mưa sấm sét đùng đùng
Dãi thây trăm họ , làm công một người.
Khi thất thế , tên rơi đạn lạc
Bãi sa trường , thịt nát máu rơi
Mênh mông góc bể , chân trời
Nắm xương vô chủ , biết rơi chốn nào ?
Trời thăm thẳm , mưa gào gió thét
Khí âm huyền mờ mịt trước sau
Ngàn mây , nội cỏ rầu rầu ,
Nào đâu điếu tế , nào đâu chưng thường?
Cũng có kẻ tính đường trí phú
Mình làm mình , nhịn ngủ kém ăn
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên , để dành phần cho ai ?
Khi nằm xuống , không người nhắn nhủ
Của phù vân , dẫu có như không
Sống thời tiền chảy bạc ròng
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn , thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa , bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quãng đồng chiêm
Nén hương , giọt nước , biết tìm vào đâu ?
Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý
Dấn mình vào thành thị lân la
Mấy thu lìa cửa lìa nhà
Văn chương , đã chắc đâu mà chen chân.
Dọc hàng quán , gặp tuần mưa nắng
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng
Vội vàng liệm sấp , chôn nghiêng
Anh em : thiên hạ , láng giềng : người dưng
Bóng phần tử , xa chừng hương khúc
Bãi tha ma , kẻ dọc người ngang
Cô hồn nhờ gửi tha phương
Gió trăng hiu hắt , lửa huơng lạnh lùng.
Cũng có kẻ vào sông ra bể ,
Cánh buồm mây , chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa dòng
Đem thân chôn rấp vào lòng kình nghê.
.
Cũng có kẻ đi về , buôn bán
Đòn gánh tre chín rạn hai vai
Gặp cơn mưa nắng giữa trời
Hồn đường , phách sá , lạc loài nơi nao ?
.
Cũng có kẻ mắc vào khóa lính
Bỏ cửa nhà , gồng gánh việc quan
Nước khe , cơm vắt gian nan
Dãi dầu nghìn dặm , lầm than một đời
.
Buổi chiến trận , mạng người như rác
Phận đã đành đạn lạc tên rơi
Lập lòe ngọn lửa ma trơi
Tiếng oan văng vẳng , tối trời càng thương .
.
Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp
Liều tuổi xanh buôn nguyệt , bán hoa
Ngẩn ngơ , khi trở về già
Ai chồng con tá , biết là cậy ai ?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa
Đau đớn thay phận đàn bà ,
Kiếp sinh ra thế , biết là tại đâu ?
.
Cũng có kẻ nằm cầu , gối đất
Dõi tháng ngày , hành khất ngược xuôi
Thương thay , cũng một kiếp người
Sống nhờ hàng xứ , chết vùi đường quan !
.
Cũng có kẻ mắc oan , tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh
Nắm xương chôn rấp góc thành
Kiếp nào cỡi được oan tình ấy đi ?
.
Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé
Lỗi giờ sinh , lìa mẹ lìa cha
Lấy ai bồng bế xót xa
U ơ tiếng khóc , thiết tha nỗi lòng !
.
Kìa những kẻ chìm sông , lạc suối
Cũng có người sẩy cối , sa cây
Có người leo giếng đứt dây
Người trôi nước lũ , kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thủy quái
Người thì sa nanh khái , ngà voi
Có người có đẻ , không nuôi
Có người sa sẩy , có người khốn thương.
Gặp phải lúc , đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà , kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách lạc , biết đâu bây giờ ?
.
Hoặc là ẩn ngang bờ , dọc bụi
Hoặc là nương ngọn suối , chân mây
Hoặc là điếm cỏ , bóng cây
Hoặc là quán nọ , cầu này bơ vơ
Hoặc là nương Thần từ , Phật tự
Hoặc là nhờ đầu chợ , cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không
Hoặc nơi gò đống , hoặc vùng lau tre
Sống , đã chịu một bề thảm thiết
Ruột héo khô , dạ rét căm căm
Dãi dầu trong mấy mươi năm
Thở than dưới đất , ăn nằm trên sương
Nghe gà gáy , tìm đường lánh ẩn
Tắt mặt trời , lẩn thẩn tìm ra
Lôi thôi , bồng trẻ , dắt già
Có khôn thiêng nhẽ , lại mà nghe kinh.
.
Nhờ phép Phật siêu sinh Tịnh-Độ
Phóng hào quang , cứu khổ độ u
Rắp hòa tứ hải quần chu
Não phiền trút sạch , oán thù rửa không.
Nhờ Đức Phật , thần thông quảng đại
Chuyển Pháp Luân , tam giới thập phương
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương
Linh kỳ một lá , dẫn đường chúng sinh.
Nhờ Pháp Phật , uy linh dũng mãnh
Trong giấc mê , khua tỉnh chiêm bao
Mười loài là những loài nào ?
Gái trai già trẻ , đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình như ảnh
Có chữ rằng :”Vạn cảnh giai không”
Ai ơi , lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu-thoát , khỏi trong luân-hồi.
Đàn chẩn tế , vâng lời Phật giáo
Của , có khi bát cháo , nén nhang
Gọi là manh áo , thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đàng , thăng thiên.
Ai đến đây , dưới trên ngồi lại
Của làm duyên , chớ ngại bao nhiêu
Phép thiêng , biến ít thành nhiều
Trên nhờ Tôn-Giả chia đều chúng sinh.
Phật hữu tình từ-bi phổ-độ
Chớ ngại rằng : có có không không.
Nam mô Phật , Nam mô Pháp , Nam mô Tăng
Độ cho nhất-thiết siêu-thăng thượng đài.
NGUYỄN DU