Tướng Douglas MacArthur là vị Đại Tướng Hoa Kỳ đã từng tham dự vào ba cuộc chiến tranh lớn là Thế Chiến Thứ Nhất, Thế Chiến Thứ Hai và Chiến Tranh Triều Tiên, đạt được cấp bậc Đại Tướng 5 sao, một danh dự rất hiếm thấy trong lịch sử Hoa Kỳ. Tướng MacArthur cũng là Thống Chế (Field Marshal) vào năm 1937 của nước Phi Luật Tân, ông cũng là quân nhân được nhiều huy chương nhất trong lịch sử của Quân Đội Hoa Kỳ.
Tướng MacArthur đã chỉ huy Chiến Trường Tây Nam của Vùng Thái Bình Dương trong thời kỳ Thế Chiến Thứ Hai. Ông đã bảo vệ nước Úc không bị quân đội Nhật Bản xâm lăng, đã chỉ huy chiếm lại xứ New Guinea và nước Phi Luật Tân khi quốc gia này bị quân đội Nhật Bản chiếm đóng, rồi về sau điều khiển các cuộc đổ bộ lên các hòn đảo của Nhật Bản và chấp nhận việc đầu hàng không điều kiện của nhà cầm quyền quân phiệt Nhật Bản.
Từ năm 1945 tới năm 1951, Tướng MacArthur là Toàn Quyền, trông coi công việc xây dựng lại xứ sở Nhật Bản. Khi quân đội Bắc Hàn tràn xuống xâm lăng miền Nam, Tướng MacArthur đã chỉ huy cuộc phản công, rồi tới năm 1951 ông bị Tổng Thống Harry Truman ngưng chức vì không tuân theo lệnh của Tổng Thống. Các hành động của Tướng MacArthur đã gây ra nhiều tranh luận nhưng ông vẫn là nhân vật được nhiều người kính phục vì các chiến lược và chiến thuật xuất sắc.
Douglas MacArthur chào đời vào ngày 26 tháng 1 năm 1880 tại thành phố Little Rock, tiểu bang Arkansas, là con của Trung Tướng Arthur MacArthur, một vị tướng đã nhận được Huy Chương Danh Dự (the Medal of Honor) trong cuộc Nội Chiến Nam Bắc Mỹ và vị tướng này là con trai của nhà luật học kiêm chính trị gia Arthur MacArthur, Sr. Mẹ của Douglas là bà Mary Pinkney Hardy MacArthur, gốc từ miền Norfolk, Virginia. Trong cuốn Hồi Tưởng (Reminiscences), Douglas MacArthur đã viết rằng hồi ức đầu tiên của ông là tiếng kèn trong trại lính và từ lúc còn nhỏ, ông đã tập cưỡi ngựa và bắn súng trước khi tập viết và tập đọc.
Cậu Douglas đã từng theo cha sinh sống từ đồn lũy này tới đồn lũy khác và khi lên 9 tuổi, cậu theo cha mẹ dọn về Thủ Đô Washington D.C. bởi vì cha cậu làm việc trong Bộ Chiến Tranh (the War Department). Vào các năm này, cậu Douglas có cơ hội vui sống với ông nội là quan tòa Arthur MacArthur, một nhân vật quen biết với giới chính trị cao cấp của Vùng Thủ Đô Hoa Kỳ.
Vào năm 1893 khi Trung Tướng MacArthur đóng quân tại San Antonio, Texas, cậu Douglas theo học trường trung học Episcopal và đã là một học sinh xuất sắc. Sau đó, Douglas được theo học Học Viện Quân Sự West Texas (the West Texas Military Academy) nhờ đó được đào tạo về văn học, tôn giáo, kỷ luật quân đội và cách sống lịch sự trong một xã hội cao cấp. Do thành tích học hành xuất sắc và cũng do gia đình quen biết các nhân vật hàng đầu trong chính quyền, Douglas MacArthur được chuyển sang theo học Học Viện Quân Sự Hoa Kỳ tại West Point (the U.S. Military Academy) vào năm 1898 và đã đỗ đầu trên tổng số 93 khóa sinh vào năm 1903 và trong lịch sử của Trường West Point, chỉ có 2 sinh viên có điểm cao hơn điểm của MacArthur. Sau đó MacArthur mang lon Thiếu Úy trong binh chủng Công Binh Hoa Kỳ (Corps of Engineers).
Vào thập niên kế tiếp, McArthur được giao các công tác kỹ sư tại Phi Luật Tân, tại các tiểu bang Wisconsin, Kansas, Michigan, Texas và tại vùng Kênh Đào Panama. Sau đó, MacArthur là sĩ quan phụ tá cho cha tại Phi Luật Tân và cho Tổng Thống Theodore Roosevelt.
Trong năm 1906 và 1907, MacArthur theo học trường Kỹ Sư Thực Hành (the Engineer School of Application), nhận bằng tốt nghiệp vào năm 1908 và làm việc tại Văn Phòng Kỹ Sư Trưởng (the Office of the Chief of Engineers).
Từ năm 1913 tới năm 1917, MacArthur phục vụ tại Bộ Chiến Tranh (the War Department) với nhiệm vụ tình báo dưới quyền chỉ huy của Tướng Frederic Funston, với công tác thám thính tầm xa vào phía sau các tuyến phòng thủ của Mexico. Năm 1915, Douglas MacArthur được thăng cấp thiếu tá (major).
2/ Thời kỳ từ Thế Chiến Thứ Nhất.
Vào thời gian Thế Chiến Thứ Nhất xẩy ra, Đại Tá Douglas MacArthur là tham mưu trưởng của Sư Đoàn 42 (the 42nd Division) với tên gọi riêng là “Sư Đoàn Cầu Vồng” (the Rainbow Division), đóng quân trên đất Pháp. Vào thời kỳ này, Đại Tá MacArthur đã tỏ ra là một vị chỉ huy tác chiến dũng cảm, nhất là trong hai trận tấn công tại St. Mihiel và Meuse-Argone. Ông đã bị thương hai lần và nhận được nhiều huy chương vì lòng anh dũng. Sau khi được thăng Chuẩn Tướng (Brigadier General) vào tháng 6 năm 1918 và là cấp Tướng trẻ nhất trong quân đội Hoa Kỳ, Tướng MacArthur trở nên Tư Lệnh của Lữ Đoàn Bộ Binh thứ 84 (the 84th Infantry Brigade) rồi vài tuần lễ trước khi chiến tranh chấm dứt, ông là Tư Lệnh Sư Đoàn.
Trong cuộc Thế Chiến này, Tướng MacArthur đã nhận được 7 anh dũng bội tinh ngôi sao bạc, 1 huy chương phục vụ đặc sắc (a Distinguished Service Medal), 2 chiến thương bội tinh với trái tim màu tím (2 Purple Hearts). Tướng MacArthur là quân nhân nhận được nhiều huy chương nhất trong kỳ Thế Chiến.
Năm 1919, Tướng MacArthur là Chỉ Huy Trưởng của Học Viện Quân Sự West Point. Vào thời gian này, nhà trường cần tới các cải tiến và Tướng MacArthur đã ra các lệnh căn bản, thay đổi các hệ thống thể thao, kỷ luật và chiến thuật. Chương trình học được đổi mới, các môn học nhân văn (liberal arts) được bổ túc.
Từ năm 1922 tới năm 1930, Tướng MacArthur đã hai lần lãnh nhiệm vụ tại xứ Phi Luật Tân và vào năm 1925, được thăng cấp lên Thiếu Tướng (major general) và là sĩ quan cấp tướng trẻ nhất vào thời kỳ đó. Tướng MacArthur cũng phục vụ trong tòa án quân sự xử Chuẩn Tướng Billy Mitchell. Năm 1928, Tướng MacArthur đứng đầu Ủy Ban Thế Vận Hoa Kỳ khi cuộc tranh tài được tổ chức tại Amsterdam, nước Hòa Lan.
Tướng MacArthur kết hôn với bà Henrietta Louise Cromwell Brooks, một phụ nữ đã ly dị, vào năm 1922, hai người không có con. Khi Tướng MacArthur được lệnh đi phục vụ tại Phi Luật Tân, bà vợ Louise của ông đã cảm thấy không hạnh phúc bởi vì bà quen với lối sống xa hoa của các thành phố lớn như New York và Paris, vì vậy bà Louise đã nạp đơn xin ly dị chồng vào năm 1928 và Tướng MacArthur tìm được nguồn an ủi khi làm quen với các chính khách hàng đầu của xứ sở Phi Luật Tân, đặc biệt với ông Manuel Quezon, người mà ông đã thân thiết từ năm 1903.
Năm 1930, Thổng Thống Herbert Hoover chỉ định Tướng MacArthur làm Tổng Tham Mưu Trưởng Lục Quân (Army Chief of Staff) với cấp bậc Tướng 4 sao tạm thời. Trong thời gian này, quân đội Hoa Kỳ đã gặp phải tình trạng cắt giảm ngân sách trong khi nạn thất nghiệp gia tăng. Chức vụ kể trên của Tướng MacArthur được Tổng Thống mới Franklin D. Roosevelt tiếp tục bổ nhiệm và các chương trình cải tiến của ông gồm các kế hoạch động viên mới, thiết lập bộ chỉ huy lưu động của Không Quân cùng với cách cải tiến nền hành chính quản trị của quân đội. Tướng MacArthur cũng ủng hộ chương trình New Deal (Thách Thức Mới) của Tổng Thống Franklin D. Roosevelt và đề nghị dùng nhiều tướng lãnh trẻ có tài, trong số này có Tướng George C. Marshall và Tướng Dwight D. Eisenhower.
Hành động tranh cãi lớn nhất liên quan tới Tướng MacArthur xẩy ra khi Tổng Thống Hoover ra lệnh cho ông giải tán đám cựu chiến binh, gọi là “the Bonus Army”, những người này tụ tập gần Điện Capitol để phản đối chính phủ Mỹ. Tướng MacArthur đã ra lệnh dùng hơi cay (tear gas) phun vào các cựu chiến binh. Hàng trăm người đã bị thương, 2 người bị chết và số thiệt hại gồm cả trẻ em của các gia đình này. Theo Tướng MacArthur, cuộc biểu tình này do các người Cộng Sản và các kẻ vận động hòa bình, và chỉ có 1/10 là cựu chiến binh.
Vào năm 1935 khi nước Phi Luật Tân được Hoa Kỳ trả một phần độc lập, Tổng Thống Phi Manuel L. Quezon đã yêu cầu Tướng MacArthur giám sát việc thành lập quân đội Phi và Tổng Thống Roosevelt cũng chấp nhận việc đề cử Tướng MacArthur giúp nước Phi. Trong số những người phụ tá quân sự của Tướng MacArthur, có Tướng Dwight D. Eisenhower. Khi Tướng MacArthur về hưu khỏi quân đội Hoa Kỳ vào năm 1937, Thổng Thống Phi Quezon đã phong cho ông chức vụ Thống Chế (Field Marshal) của Quân Đội Phi Luật Tân.
Do tình hình nguy ngập của Thế Chiến Thứ Hai, Tổng Thống Franklin D. Roosevelt đã mời Tướng MacArthur trở lại quân đội vào tháng 7 năm 1941 và phong cho ông chức vụ Chỉ Huy các lực lượng Hoa Kỳ tại vùng Viễn Đông (the Commander of U.S. Army Forces Far East – USAFFE) với bộ chỉ huy đặt tại Manila, Phi Luật Tân.
3/ Thời Kỳ Thế Chiến Thứ Hai.
Sau khi Hoa Kỳ tham dự Thế Chiến Thứ Hai, Tướng MacArthur trở nên Tư Lệnh các lực lượng Đồng Minh tại Phi Luật Tân. Vào thời kỳ này, Tướng MacArthur đã không chấp thuận cho Tướng Không Quân Lewis H. Breveton oanh tạc các căn cứ quân sự Nhật Bản gần đảo Đài Loan vì cho đây là một hành động tự sát, kết quả là phần lớn lực lượng không quân Hoa Kỳ của miền Viễn Đông đã bị các máy bay Nhật tàn phá trên miền đất Phi Luật Tân trước khi quân đội Nhật Bản tràn lên xâm lăng xứ sở này, dù cho một nửa số phi cơ của Hoa Kỳ đã được di tản.
Vào tháng 3 năm 1942, quân đội Nhật tiến chiếm thêm các hòn đảo Phi và Tướng MacArthur được lệnh của Tổng Thống Roosevelt phải rút lui về Melbourne, nước Úc, sau khi Tổng Thống Phi Quezon cùng gia đình đã di tản. Cuối cùng, với vợ, đứa con 4 tuổi và một số sĩ quan phụ tá, Tướng MacArthur đã rời khỏi Manila trên một con tầu tuần tiễu do sĩ quan John Bulkeley điều khiến, tránh được các tầu tuần Nhật Bản đang tìm kiếm vị tướng Hoa Kỳ.
Tướng MacArthur tới được hòn đảo Mindanao vào ngày 13 tháng 3, rồi 3 ngày sau, lên máy bay B-17. Ngày 17/3, ông tới phi trường Batchelor của miền bắc châu Úc, dùng xe lửa Ghan xuống Adelaide thuộc miền nam. Tại Terowie, Nam Úc vào ngày 20/3, Tướng MacArthur đã nói: “Tôi ra khỏi Bataan và tôi sẽ trở lại”, đây là một câu nói danh tiếng của ông.
Tướng MacArthur từ nay là vị Tư Lệnh Tối Cao của các lực lượng Đồng Minh tại khu vực Tây Nam Thái Bình Dương (the Southwest Pacific Area – SWPA), chỉ huy công cuộc bảo vệ nước Úc, với các binh lính Úc, Hoa Kỳ, Hòa Lan và một số lực lượng khác, lúc này tất cả đang chiến đấu tại các quần đảo New Guinea và Dutch East Indies.
Vào ngày 20/ 7/1942, Bộ Chỉ Huy SWPA dọn về Brisbane, Queensland, nước Úc và đóng tại đây tới năm 1944. Quân đội Úc và Hoa Kỳ dưới sự chỉ huy của Tướng MacArthur đã chiến đấu rất thành công trong các hoàn cảnh thiếu thốn về binh lính, tiếp liệu, phi công và máy bay… nhưng họ đã cô lập được các lực lượng Nhật Bản, đã chiếm được các địa điểm trọng yếu trên vùng biển Thái Bình Dương, lập nên tại đây các căn cứ không quân khiến cho quân đội Nhật Bản bị cắt đường tiếp tế.
Ngày 20 tháng 10 năm 1944, Tướng MacArthur đã dẫn đầu lực lượng Đồng Minh đổ bộ lên hòn đảo Leyte, thuộc về Phi Luật Tân, thực hiện lời hứa trước kia của ông và đã giải thoát trên nhiều hòn đảo các tù binh người Phi, người Mỹ và các dân sự đã bị quân Nhật cầm tù và hành hạ trong các trại tập trung. Sau đó, toàn thể hạm đội Nhật Bản đã phản công, cùng với các máy bay cảm tử “Thần Phong” (Kamikaze) trong trận chiến Luzon (the Battle of Luzon), nhưng quân đội Đồng Minh đã chiến thắng. Sau khi chiếm xong các hòn đảo Phi, Tướng MacArthur đặt Bộ Chỉ Huy tại Manila và đặt kế hoạch tiến lên đất Nhật vào năm 1945.
Nước Nhật Bản chính thức đầu hàng vào tháng 8 năm 1945. Vào thời điểm này, Tướng MacArthur là Tư Lệnh Tối Cao của các Lực Lượng Đồng Minh. Ông đã chấp nhận lễ đầu hàng chính thức của nước Nhật Bản trên Chiến Hạm U.S.S. Missouri vào ngày 2 tháng 9 và Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt.
Tướng Douglas MacArthur nhận được Huy Chương Danh Dự (the Medal of Honor) do tài chỉ huy trên vùng chiến trường Tây Nam Thái Bình Dương. Tổng Thống Phi là ông Sergio Osmena cũng trao tặng vị danh tướng này Huy Chương Anh Dũng (the Medal of Valor) cao quý nhất của nước Phi Luật Tân.
4/ Thời Kỳ sau Thế Chiến Thứ Hai.
Sau Thế Chiến Thứ Hai, Đại Tướng MacArthur là Tư Lệnh Tối Cao của các lực lượng Đồng Minh (the Supreme Commander of the Allied Powers – SCAP). Nhiệm vụ đầu tiên của ông là trông coi việc xây dựng lại nước Nhật Bản, tổ chức lại nền hành chính và lo cho người dân Nhật qua khỏi cơn đói rách do các hậu quả của chiến tranh. Mặc dù mang danh nghĩa là lực lượng Đồng Minh, nhưng thực ra Hoa Kỳ đã trực tiếp kiểm soát xứ sở Nhật Bản. Năm 1946 dưới sự hướng dẫn của Ban Tham Mưu của Tướng MacArthur, nước Nhật Bản đã có một Hiến Pháp mới được xử dụng cho tới ngày nay và sự ổn định, thịnh vượng của nước Nhật Bản là do sự đóng góp bằng các ý kiến sáng suốt của Tướng MacArthur.
Tướng MacArthur đã chuyển giao quyền hành quản trị xứ sở cho chính phủ mới Nhật Bản vào năm 1949 và ở lại đây cho tới ngày 11/ 4/1951 khi ông bị Tổng Thống Harry Truman cất chức vì không thi hành lệnh cấp trên.
Tại bán đảo Triều Tiên vào tháng 6 năm 1950, quân đội Bắc Hàn đã bất ngờ vượt qua biên giới, xâm lăng Nam Hàn. Vào thời gian này, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đã cho phép lực lượng quân sự Liên Hiệp Quốc, dưới quyền chỉ huy của Tướng MacArthur, giúp đỡ Nam Hàn chống lại cuộc xâm lăng kể trên. Trong khi Nam Hàn chịu thiệt hại nặng nề và phải rút lui về vòng đai Fusan, Tướng MacArthur đã chỉ huy cuộc đổ bộ táo bạo tại Inchon, chặn đường rút lui của quân Bắc Hàn trong đó có cả cố vấn Trung Cộng và Liên Xô. Cuộc đổ bộ Inchon là một trong các cuộc hành quân táo bạo và thành công nhất trong lịch sử chiến tranh, đã xác nhận thiên tài quân sự của vị tướng 5 sao và 71 tuổi.
Sau đó quân đội Hoa Kỳ dưới danh nghĩa Liên Hiệp Quốc, đã phản công quân Bắc Hàn, đẩy lui họ tới tận biên giới Trung Hoa. Vào lúc này, Trung Cộng đã cảnh cáo Hoa Kỳ rằng họ sẽ tham chiến và không để cho Bắc Hàn bị đánh bại.
Ngày 25/ 10/1950, quân Trung Cộng vượt qua sông Áp Lục (Yalu River), tấn công dữ dội khiến cho quân đội Hoa Kỳ phải rút lui. Trong hoàn cảnh khó khăn này, Tướng MacArthur muốn oanh tạc Mãn Châu và các thành phố chính của Trung Hoa bằng 30 hay 50 trái bom nguyên tử nhưng Tổng Thống Truman đã không cho phép, bởi vì Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ e sợ rằng đồng minh của Trung Cộng là Liên Xô sẽ nhẩy vào vòng chiến và Tổng Thống Truman muốn duy trì một cuộc chiến tranh giới hạn. Các tài liệu mật được giải mã sau khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991, đã cho thấy rằng vào thời kỳ đó, Liên Xô không có ý định hợp tác với Trung Cộng.
Vào ngày 11/ 4/1951, Tổng Thống Truman đã thay Tướng MacArthur bằng Tướng Matthew B. Ridgway và quân đội Liên Hiệp Quốc đã phản công quân đội Cộng Sản. Cuối cùng, chiến tranh Triều Tiên chấm dứt vào ngày 27/ 7/1953 khi Hoa Kỳ và Bắc Triều Tiên ký tên vào bản đình chiến.
5/ Trở lại Hoa Kỳ.
Những người lính già không bao giờ chết, họ chỉ mờ nhạt đi (Old soldiers never die, they just fade away)
Sau 11 năm, Đại Tướng Douglas MacArthur trở lại Hoa Kỳ. Ông đã đọc một bài diễn văn tại Quốc Hội và đã được các vị Thượng Nghị Sĩ và Dân Biểu vỗ tay tán thưởng 30 lần và ông đã nói: “Những người lính già không bao giờ chết, họ chỉ mờ nhạt đi” (Old soldiers never die, they just fade away).
Từ chiến trường Triều Tiên trở về, Tướng MacArthur đã được dân chúng ca tụng, họ trông đợi ông sẽ ra ứng cử cho đảng Cộng Hòa vào chức vụ Tổng Thống trong năm bầu cử 1952. Tuy nhiên, cuộc điều tra ngưng chức ông do Ủy Ban Thượng Viện, đứng đầu là Thượng Nghị Sĩ Richard Russell, đã làm cho quần chúng kém hào hứng trong việc chọn lựa ông. Về sau, trong cuốn Hồi Tưởng (Reminiscences), Tướng MacArthur cho biết ông không hề có các tham vọng chính trị.
Trong cuộc vận động tranh cử năm 1952, có tin đồn rằng Thượng Nghị Sĩ Robert Taft sẽ chọn Tướng MacArthur đứng chung liên danh, nhưng vào kỳ Đại Hội Đảng, ông Taft đã thua Tướng Dwight Eisenhower. Cũng vào năm 1952, Tướng Douglas MacArthur nhận chức vụ Chủ Tịch của Hội Đồng Quản Trị của Đại Công Ty Remington Rand, Inc. (hiện nay là một phần của Đại Công Ty Unisys Corporation).
Đại Tướng Douglas MacArthur trở về cuộc sống bình lặng trong tiểu bang New York, ngoại trừ một lần ông qua thăm nước Phi Luật Tân vào năm 1961. Tại nơi này, ông được Tổng Thống Phi Carlos Carcia trao tặng Huy Chương Bắc Đẩu Bộ Tinh (Legion of Honor) và một xa lộ xuyên qua xứ Phi Luật Tân đã mang tên là Xa Lộ MacArthur.
Tại Hoa Kỳ sau vụ Vịnh Con Heo (the Bay of Pigs), Tổng Thống John F. Kennedy đã hỏi ý kiến Tướng MacArthur về nhiều vấn đề đối ngoại.
Đại Tướng Douglas MacArthur qua đời vào ngày 5 tháng 4 năm 1964 và được chôn cất tại Norfolk, tiểu bang Virginia. Bên cạnh hai ngôi mộ của ông và của bà vợ thứ hai Jean Faircloth, có một thư viện nhỏ lưu trữ một số sách liên quan tới ông và gần đó là một trung tâm thương mại mang tên vị Anh Hùng danh tiếng trong Ba Trận Chiến Tranh Lớn.
Tài liệu tham khảo: Wikipedia.org., Britannica Encyclopedia, A History of the Modern World by R.R. Palmer & Joel Colton, Alfred A. Knopf, N.Y. 1991.