Tác giả
(Để kính dâng anh hồn đồng đội tôi đã nằm xuống để bảo vệ Thủ đô Saigon)
Ngựa đang sãi vó lưng đồi
Súng gươm bỏ lại cuộc chơi nửa chừng.
Một thời ngang dọc kiêu hùng
Tháng tư gãy súng đếm từng nổi đau…
Ta đứng bên nầy, trông núi sông
Một trời thương nhớ ở phương đông
Đường hoa theo dấu chân luân lạc
Một gánh giang san khóc hộ chồng
Một ngày tan nát bao thân phận
Nửa kiếp lưu vong tối mặt mày
Cũng thử đưa cay bằng chiến trận
Ói toàn uất hận lúc xuôi tay
Bạn bè còn lại bao nhiêu đứa
Đứa còn, đứa mất chẳng ai hay
Chí lớn cùng đường, tài bỏ xó
Anh hùng bạt mạng, vợ con lo
Nhớ quê chửi nát mồ ma đỏ
Một nắm xương khô đẫm máu đào
Nhìn nhau bổng thấy quê hương cũ
Nghìn trùng rực rở núi sông xưa
Vết đau ngày tháng còn mưng mủ
Giọt lệ bên đường mặc gió mưa
Ví thử xuân xanh còn rực lửa
Cũng đành dâng hiến trọn non sông
Và em, sẽ một đời tựa cửa
Nhìn qua lục địa để ngóng trông.
Sau trận Khánh Dương, Ban Mê Thuột, Tiểu đoàn 2 Pháo Binh Nhảy Dù về hậu cứ Nguyễn Huệ, Long Bình để tái bổ xung, và được tái trang bị 18 khẩu đại bác 105 ly kiểu củ M2A1 từ thời đệ nhị thế chiến, tôi được chỉ định thành lập lại pháo đội B2 với quân số gần 100 người trong đó khoảng 20 người từ pháo đội chỉ huy đưa sang, còn lại bổ xung toàn là lao công đào binh và quân phạm đủ gốc lính từ quân lao Gò Vấp đưa về.
Lệnh trên đưa ra phải huấn luyện tác xạ cấp tốc tại đơn vị và không bắn đạn thật, vì tình thế sôi động có thể hành quân bất cứ lúc nào, không có sĩ quan huấn luyện, một mình tôi làm tất cả mọi chuyện cho pháo đội. Một tuần sau, ngày 29 tháng 4 năm 1975, lệnh hành quân đưa ra, về Saigon bảo vệ thủ đô. Thông thường một pháo đội Dù đóng quân thì có một đại đội Dù tác chiến bảo vệ, lần này thì không, lệnh trên cho biết phải tự bảo vệ. Cho thấy tình hình quân số trừ bị của Nhảy Dù coi như cạn.
Từ Long Bình theo xa lộ Đại Hàn, pháo đội tôi chiếm đóng sân vận động Cộng Hòa ở đường Nguyễn Kim vào xế trưa, người quản nhiệm sân vận động ngơ ngác khi thấy pháo đội tôi kéo vào sân. Sau khi hướng bắn đã sẵn sàng một vòng cung về phía Sư Đoàn Nhảy Dù, Bộ Tổng Tham Mưu, và Dinh Độc Lập, tôi cho lệnh đóng cửa sân lại, người quản nhiệm năn nỉ cần phải ra vào làm nhiệm vụ nên xin giử chìa khóa, và tôi bằng lòng. Thượng sĩ Thọ, thường vụ pháo đội nói đùa với tôi: “Trung úy định tử thủ”. Tôi trả lời không vào câu hỏi: ” Tình thế lộn xộn, coi chừng địch trà trộn xin vào sân, nên phải đóng cửa, anh cho con cái lên hết trên khán đài, dàn súng cá nhân và lựu đạn sẳn sàng, còn các các khẩu thì trực tại chổ, sẳn sàng tác xạ.”
Hơn 2,000 quả đạn pháo tôi cho tháo ra khỏi thùng và gắn đầu nổ. Lúc này tôi cũng hơi lo, phát pháo đầu tiên của pháo đội để bảo vệ Thủ đô sẻ do những pháo thủ trời gầm đất lỡ mới vào nghề như thế này bắn, thiệt đã. Ngoài các khẩu trưởng và ngắm viên là có kinh nghiệm còn lại toàn tay mơ, pháo đội tôi toàn là thứ dữ từ quân lao xá tội vào giờ chót đưa về, tôi cũng không có thì giờ để mà hỏi han, chỉ cho một số anh em mới về đi phép hai ngày với lời dặn dò nếu các anh cãm thấy có bổn phận của một người lính trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng này thì về lại đơn vị đúng ngày giờ, nếu không thì đào ngủ luôn chứ về trể thì đừng trách. Đòn tâm lý có hiệu quả, không có một người nào trể phép, tôi mừng lắm, ít ra giờ chót tôi còn cả trăm tay súng sẳn sàng sống chết với mình. Họ có biết về Dù là đeo tử bài trước ngực hay không tôi không rỏ, chứ biết rỏ họ đã thấm kỷ luật của Nhảy Dù. Gần trưa ngoài cổng có một người xin vào, vị này là Trung úy Nam của Trường Quân Báo Cây Mai, ông dẫn đứa con trai là Trung sĩ nhất Liêng đi phép trể không dám về trình diện đơn vị nên nhờ bố dẫn vào, tôi bằng lòng cho Liêng về lại pháo đội làm khẩu trưởng khẩu 3 tức là khẩu chuẩn, đồng thời nhờ Trung Úy Nam giới thiệu và chở xe Honda đến một tiệm tạp hóa gần đó để mua chịu thực phẩm, vì một khi đụng lớn có thể không tiếp tế được. Người chủ tiệm bằng lòng và nói lúc nào cũng sẳn sàng giúp đở Nhảy Dù. Đến trưa thì có một pháo đội Biệt Động Quân Biên Phòng do một vị Thiếu Tá chỉ huy kéo vào xin đóng quân. Tôi gọi Tiểu đoàn tôi báo cho biết rồi mời vào. Tôi cũng xin lỗi vị chỉ huy này rồi nói thẳng, nếu có gì lộn xộn xin đừng chạy về hướng pháo đội tôi vì tôi sẻ trực xạ nếu Việt cộng đánh vào. Để tránh bị Việt cộng trà trộn, coi như hai vị trí pháo biệt lập, cũng không liên lạc hàng ngang bằng tần số truyền tin.
Đến lúc này thì sân Cộng Hòa đã trở thành một địa điểm tìm đơn vị bị thất lạc. Hàng ngàn nếu không nói là hàng mấy ngàn binh lính, sĩ quan của nhiều quân binh chủng mà nhiều nhất là lính Biệt Khu Thủ Đô bị lạc đơn vị nghe tin Nhảy Dù về sân Cộng Hòa nên họ tự động tìm đến. Họ đến tìm đơn vị không thấy rồi lại đi, không hiểu sao họ biết có chúng tôi ở đây mà tìm đến, có người còn súng, có người không, đa số là tay không lặng lẽ đi ngang pháo đội tôi nhìn vào, còn các pháo thủ của tôi thì súng cá nhân đã lên đạn đề phòng Việt cộng giả dạng đánh úp. Lúc này mà tôi yêu cầu những anh em còn súng và thất lạc đơn vị này hảy ở lại bảo vệ cho chúng tôi bắn, chắc chắn họ sẻ bằng lòng, nhưng tình thế hết sức phức tạp hiện nay nên không tiện yêu cầu điều này. Đến xế trưa, một chiếc trực thăng UH1B bị lạc đơn vị đáp xuống giửa sân hỏi han tin tức rồi lại bay lên ( Sau này đi tù chung gặp mặt kể lại mới biết tên là Đại úy Trần Văn Phước ở gần nhà chúng tôi). Lúc này trên bầu trời bổng có nhiều chiếc trực thăng khác bay từ biển vào hướng tòa đại sứ Hoa Kỳ rồi lại bay ra, tôi biết họ đang di tản, bỏ của chạy lấy người.
Đến tối tôi cho đóng cửa sân lại rồi leo lên khán đài chính nhìn về phía Saigon, lòng buồn vô hạn. Tôi sinh ra và lớn lên giửa lòng Thủ đô, cuộc đời tôi gắn liền với Saigon, từng hàng cây góc phố, từng con đường nhỏ thân quen tiếng gọi mì ban đêm, con đường Lê Thánh Tôn ngập lá me bay buổi sáng vẫn còn đây, dòng sông tuổi thơ của tôi trôi thật êm đềm trên hè phố sau giờ tan học vẫn còn đó, gần hơn chút nửa là ngôi trường trung học Chu Văn An thân yêu, nơi tuổi trẻ tôi ươm biết bao nhiêu mộng mơ, rốt cục cũng chìm vào cơn lốc chiến tranh. Saigon máu thịt quê hương tôi đang hấp hối. Saigon của tôi đang bị bức tử.
Giờ này tôi không còn nghe tiếng đại bác ru đêm, tất cả các ngõ vào Saigon đã bị phong kín, cơn hấp hối này sẽ có tôi tham dự như một chứng nhân nếu còn sống sau chinh chiến, hay sẽ nằm xuống tức tưởi nghẹn ngào. Dòng suy nghỉ miên man đưa tôi trở về với gia đình, hai đứa con nhỏ và Thụy Trang yêu dấu của tôi đang ở cách đây chỉ khoảng mười phút xe, em giờ này chắc đang lo sợ và có thao thức như anh không, chắc em cũng hiểu tại sao đến giờ phút này anh vẫn còn cầm súng, con người ta ai cũng có số phận, và những người lính quốc gia cầm súng đang bảo vệ Thủ đô đã chọn cho mình một số phận, hiên ngang đi nốt con đường khổ nạn của dân tộc, nếu anh có bề gì thì ráng nuôi con, sau này bảo bố nó là lính Nhảy Dù, chết để bảo vệ thủ đô Saigon.
Những tràng súng lẻ tẻ từ các nơi dội về, tôi leo xuống khán đài trở về đài tác xạ, giở xấp bản đồ miền Tây ra nhìn không biết bao nhiêu lần, cả Quân khu 4 vẫn còn nguyên, cùng lắm là Tiểu đoàn tôi sẻ rút về đây. Nhưng chuyện này đã không xảy ra, quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã bị bức tử. Có nhiều điều đã báo trước sự phản bội của Hoa Kỳ, khi Kissinger thả những quả bóng bàn ngoại giao lăn lốc cốc tại Bắc Kinh năm 1971, sửa soạn cho Tổng Thống Nixon bay qua Thượng Hải ký thông cáo chung bình thường hoá ngoại giao giửa Hoa Kỳ và Trung cộng thì mọi chuyện đã an bài, cộng sản xưa nay ký thông cáo chung bao giờ cũng phải có điều kiện, phải có món quà ra mắt, đó là lý do Hoàng Sa của Việt Nam lọt vào tay của Trung cộng ngày 19 tháng 1 năm 1974, trong khi hải quân Hoa Kỳ nằm bất động tại biển Đông, mặc dù có lời cầu cứu từ hải quân Việt Nam Cộng Hòa. Từ đó, chúng tôi biết miền nam Việt Nam sẽ bị bỏ rơi, và Saigon không thể mất trừ khi có phép lạ. Anh em Nhảy Dù chúng tôi đều biết sẽ có ngày về bảo vệ Thủ đô và đánh một trận cuối đời thật oanh liệt, có chết cũng cam lòng, nhưng không bao giờ dự trù bị buông súng tại đây, và ngày đó hôm nay, đã đến..
Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhiều tiếng nổ lớn như là hoả tiển 122 ly về hướng phi trường Tân Sơn Nhất, bầu trời bổng nhiên thấp xuống thật u ám như sắp để tang cho một chế độ, những người lính lạc đơn vị lại kéo về sân Cộng Hòa rồi lại lủi thủi ra đi, những giờ phút cuối đời lính, họ như những con đại bàng bị tiển thương, đang cố gắng vỗ đôi cánh gẩy lần chót tìm về cái tổ ấm quân đội khét mùi thuốc súng này, vì quân đội là ngôi nhà thứ hai của họ, ở đó họ mới có thể cầm súng để bảo vệ tổ quốc, họ cũng chính là tôi, là lính. Gần 10 giờ sáng, những tràng đại bác đầu tiên của Pháo Đội A2 và Pháo đội C2 của Tiểu đoàn tôi ở Trường đua Phú Thọ bắt đầu bắn, điện văn xin tác xạ từ các nơi gọi về Tiểu đoàn tới tấp. Các đơn vị của Lữ đoàn 4 Dù, của Biệt Động Quân đang đụng địch, 6 khẩu đại bác 105 ly của Pháo đội Biệt Động Quân nằm kế bên cũng đã tác xạ, khói bay ngược về phía chúng tôi. Tôi cho cả pháo đội quay nòng về hướng bắn sẳn sàng tác xạ và khẩu chuẩn đặt giửa cột gôn nạp một quả đạn khói, một lúc sau Thiếu Tá Nguyễn Kim Việt, Trưởng ban 3 cho điểm tác xạ bắn theo yêu cầu. Lúc này đạn lớn đạn nhỏ nổ ran về phía Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Dù, hướng Bà Điểm và nhiều nhất là khu Ngả Ba Hàng Xanh, còn Dinh Độc Lập vẫn yên tĩnh. Những chiếc trực thăng Mỹ từ đệ thất hạm đội vẫn còn tiếp tục bay về hướng Toà đại sứ cùng với những chiếc Cobra bay bảo vệ nhưng không nghe tiếng bắn từ phi cơ.
Mặc dầu tôi chưa bắn, nhưng Tiểu đoàn bổng ra lệnh “check fire” (ngưng bắn). Một lúc sau, tôi gọi về Tiểu đoàn nói bằng bạch văn “Hướng bắn của tôi đâu có gần mấy con chuồn chuồn, tôi thấy rỏ bằng mắt thường, bảo đảm bắn không rớt tụi nó đâu, đích thân cho tác xạ đi”. Thiếu Tá Việt bảo “Đợi”. Tôi buông ống liên hợp xuống, ngao ngán. Đến giờ phút này, chính phủ hai ngày lộ mặt phản quốc, sợ pháo binh Nhảy Dù bắn rơi máy bay Mỹ nên ra lệnh check fire, tiện thể là check fire luôn không cho bắn vào Việt cộng đang đánh vào các đơn vị phòng thủ Saigon. Tôi nhìn vào xạ bảng, những điểm cận phòng mà tôi đã chấm chung quanh Dinh Độc Lập đã làm yếu tố tác xạ sẳn sàng như đang nhảy múa trước mắt tôi. Tôi ra lệnh cho 5 khẩu còn lại nạp đạn nổ mạnh và chờ đợi, đồng đội tôi đang ngả xuống oanh liệt để bảo vệ thủ đô, còn chúng tôi thì bị khóa họng, không yễm trợ cho họ được, giống hệt như trận Charlie năm tháng 4/1972. Đợi một lúc nữa, tôi bước ra đài tác xạ tiến về pháo đội, các khẩu trưởng hỏi nạp đạn lâu quá sao chưa bắn vậy Trung úy, tôi chỉ tay lên trời chỉ mấy chiếc trực thăng nói tại tụi nó đó.
Vừa lúc đó Hạ sĩ nhất Thạch truyền tin chạy ra gọi tôi: “Trung Úy, ông Minh đầu hàng rồi”. Tôi vội chạy vào đài tác xạ, qua radio, tiếng Tổng Thống hai ngày, Dương Văn Minh kêu gọi buông súng như một nhát dao đâm vào tim mọi người. Tôi gọi máy về Tiểu đoàn hỏi có bắn tiếp không, hay tan hàng, hoặc bàn giao? Chừng nào có lệnh trực tiếp từ tiểu đoàn tôi mới thi hành chứ không hạ nòng đâu. Thiếu Tá Việt bảo đợi đấy. Độ 5 phút sau, tôi bước ra cửa đài tác xạ nhìn ra ngoài, các quân nhân đơn vị bạn trong sân Cộng Hòa tự động tan hàng, sáu khẩu đại bác của Biệt Động Quân vẫn còn cất cao nòng, nhưng toàn thể đã lục tục rời vị trí, những người lính anh dũng của quân lực Việt Nam Cộng Hòa hai tay không còn vũ khí đi ngang qua chúng tôi hết sức buồn bả. Những con đại bàng một thời oanh liệt nam chinh bắc chiến đã thật sự gảy cánh tháng tư, phát súng phát ra không phải từ Hà Nội mà từ Washington DC đã bức tử cả một quân đội anh hùng. Hai mươi mốt năm nay, Việt cộng đâu có làm gì được chúng tôi, chỉ một phản bội của đồng minh thôi đã làm tan nát cả một quốc gia. Từ năm mùa hè đỏ lửa 1972 đến nay, tại Bình Long, Kontum, Trị Thiên, một mình quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã anh dũng chống lại cả một khối cộng sản tế hung hản, đánh tan tành bọn chúng, không anh hùng sao được.
Lúc này, tại đây, chỉ còn pháo đội tôi, những người lính của giờ thứ 25 của cuộc chiến vẫn không chịu rời đơn vị, trừ hai người xin phép về thăm gia đình rồi kẹt luôn, còn thì hiện diện đầy đủ, hai hôm nay, họ chỉ cần bước ra khỏi sân vận động là về với gia đình, và ngay bây giờ họ cũng đã có quyền này, tại sao lại còn đứng đây? Họ là Nhảy Dù, cũng như tôi, họ đang đợi lệnh. Không ai có thể ra lệnh cho tôi buông súng trừ cấp chỉ huy trực tiếp. Ngay lúc đó, Thiếu Tá Tiểu đoàn phó, Đỗ Tiến Hóa, chạy xe Jeep đến ra lệnh cho tôi tan hàng. Tôi trở vào đài tác xạ, chấm điểm cho pháo đội quay nòng về trại Hoàng Hoa Thám để chào tạm biệt, rồi gọi Liêng vào ra lệnh :” Anh cho tất cả pháo đội, quần áo chĩnh tề, ba lô xếp thẳng hàng như ở quân trường, khi tôi ra, bồng súng chào trình diện quân số, đợi lệnh”.
Khi tôi ra trước hàng quân, pháo đội đã sẳn sàng tư thế chào kính, 6 khẩu đại bác vẫn giương cao nòng, những người lính bồng súng chào thật nghiêm trang, nét mặt họ không điểm một chút hốt hoảng hay lo sợ, họ tuân lệnh cấp chỉ huy một cách tuyệt đối. Tôi nhìn anh em và tiếc nếu có lá quốc kỳ màu vàng ba sọc đỏ lúc này, tôi đã cho cử hành lễ chào quốc kỳ ngay lập tức. Tôi cắn chặt đôi hàm răng để khỏi bật ra tiếng khóc vì trong lòng hết sức thương cảm, những người lính của tôi, có người mới về đơn vị chưa đầy hai tuần, vẫn tuân lệnh cấp chỉ huy dầu cho đứng trước hoàn cảnh tuyệt vọng như thế này. Tôi cho anh em nghỉ và nói: ” Tôi thi hành lệnh cấp trên cho pháo đội tan hàng, tôi biết việc này sẻ làm cho anh em rất đau lòng, nhưng là quân đội chúng ta phải thi hành lệnh, sau này chắc chắn là anh em sẻ gặp rất nhiều khó khăn, là chiến sĩ Nhảy Dù, anh em hảy noi theo truyền thống binh chủng, cố gắng mà sống”. Sau đó tôi cho pháo đội hạ nòng đại bác xuống và tháo đạn ra, súng cá nhân thì xếp thẳng hàng trên ba lô như thể đang nghỉ ngơi sau những giờ huấn luyện tác xạ. Các khẩu trưởng hỏi tôi có dùng lựu đạn lân tinh phá nòng đại bác hay không, tôi lắc đầu. Thạch lại hỏi tôi còn đài tác xạ thì sao, tôi cũng lắc đầu nói để nguyên.
Pháo đội tôi đâu có đầu hàng hay bị tràn ngập, bị địch tràn ngập mới phải phá súng, phá đài tác xạ, chúng tôi đã chiến đấu và đang giờ nghỉ mà, pháo đội tôi chỉ tạm nghỉ cuộc chơi. Lính quốc gia không bao giờ đầu hàng cộng sản, họ chỉ bị bức tử phải buông súng và tạm nghỉ cuộc chơi.
Từng anh em binh sĩ hạ sĩ quan chào từ giả tôi, một đệ tử ruột đòi đi theo tôi trở về nhà, tôi không cho và nói đi theo tôi rất nguy hiểm. Trong khoảng khắc, sân Cộng Hòa không còn một bóng người, chỉ còn mình tôi trở vào nhà viên quản thủ sân xin một bộ đồ civil, vào đài tác xạ thay đồ trận, xong, tôi trở ra vị trí đứng nghiêm chào. Những khẩu đại bác gióng thẳng hàng bên cạnh súng cá nhân M16 và quân trang của đơn vị tôi còn đó như bật lên một sức sống mãnh liệt, một phần đời tôi ở trong đó đang thức dậy nổi căm phẩn, quê hương tôi rồi đây phải gánh chịu nổi đau mất nước về tay cộng sản khát máu, niềm uất hận này không bao giờ tan. Tôi buồn bả quay gót trở về nhà, không dám quay lại nhìn pháo đội một lần chót, vì nhìn nữa tôi sẻ khóc. Anh em quân đội chúng tôi đã cố gắng làm tròn bổn phận của mình trong giai đoạn đau thương của đất nước, nay đành bó tay, nhưng là lính không thể khóc vào lúc này, vì tôi còn phải cố gắng để sống, để viết sau này, và nhớ đó, trong bộ đồ dân sự, tôi vẫn còn là một người lính nguyên thủy.
Ba mươi chín năm qua, mỗi năm đến ngày này, nước mắt của người lính vẫn lưng tròng , không phải giọt nước mắt của những con đại bàng gảy cánh tháng tư, vì những người lính quốc gia đã tận lực làm tròn bổn phận đối với tổ quốc, được toàn dân ngưỡng mộ, và không có việc gì phải hối hận phải khóc vì không giữ được nước, vì cuộc chiến này là do quốc tế cộng sản và bàn tay lông lá đạo diễn, dân tộc ta chỉ là con cờ trên một bàn cờ đã xếp sẳn nước đi. Những giọt nước mắt của người lính quốc gia rơi xuống để khóc thương cho đất nước từ nay thống khổ dưới gông cùm cộng sản, chứ không phải than khóc cho số phận của mình, vì một khi vào quân đội dâng hiến đời mình cho tổ quốc, là chấp nhận mọi hy sinh mất mát cho bản thân mình, do đó mới bảo vệ được miền nam tự do cho đến ngày bị bức tử.
Cộng sản Bắc Việt được quốc tế dàn xếp để Dương Văn Minh ra lệnh buông súng ngày 30/4/1975, chứ đâu có tài cán gì chiếm được miền nam, 21 năm nhận lệnh của cộng sản quốc tế xâm lược miền nam, lính cộng sản chết gấp chục lần so với lính cộng hòa, còn tù binh bị bắt gấp 6 lần. Nếu tiếp tục cuộc chiến thì tất cả thanh niên miền bắc sẽ chết hết, sẽ đời đời “sinh Bắc tử Nam”. Năm 1972, sau những đợt Mỹ không kích miền bắc thật ác liệt, hồ sơ giải mật *cho thấy Hà Nội đã gửi điện văn đầu hàng, nhưng Mỹ lờ đi vì nhu cầu giải quyết chiến tranh lạnh toàn cục, Mỹ bắt tay với Trung cộng để ly gián Liên Xô, và đã thành công, cộng sản quốc tế bị tan rã sau khi Nga Sô sụp đổ năm 1989 và khối cộng sản Đông Âu cũng tan tành theo sau đó.
Nếu năm 1973 Mỹ chấp nhận cộng sản Bắc Việt đầu hàng, Mỹ tất phải gánh vác cuộc chiến trầm trọng hơn nữa vì Nga Tàu sẽ đoàn kết lại, viện trợ mạnh hơn nữa để thúc đẩy cộng sản Bắc Việt tiếp tục cuộc chiến sau đó, và chiến tranh lạnh sẽ tiếp tục. Trung cộng biết được nước cờ của Mỹ và ngăn cãn Hà Nội không được chiếm Saigon, nhưng Hà Nội ngả theo Nga quyết đánh đến cùng, Mỹ phụ họa Hà Nội bằng cách ngưng viện trợ cho Saigon, làm Tổng Thống Thiệu trúng kế phải bỏ miền Trung, Mỹ có lý do rõ ràng đổ tội rằng quân đội cộng hòa không chịu chiến đấu, và kết quả đúng như bàn cờ Mỹ đả đi. Miền nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản và khối cộng sản quốc tế bị tan rả sau đó. Đồng bào cả nước ta bị bưng bít nên không nhìn thấy rỏ điều này.
Sau chiến tranh, Việt cộng đã trả thù đồng bào miền nam Việt Nam hết sức khốc liệt vì đã không theo chúng, hàng triệu đồng bào đã bỏ nước ra đi, Việt cộng đã dìm cả một dân tộc vào nghèo nàn, lạc hậu, và mất tự do, gái thì đi làm mãi dâm, trai thì đi làm cu li khắp thế giới, cái tự xưng là đỉnh cao trí tuệ loài người đang ngồi tại Hà Nội đã hèn hạ bán đất dâng biển cho Tàu cộng, quỳ gối làm tôi mọi cho chúng, bảo gì cũng phải nghe, Tàu cộng bắt tàu đánh cá của ta đòi tiền chuộc, đảng bảo dân đóng tiền chuộc, còn tàu của thiên triều bị ta bắt, đảng vội vàng thả ra vô điều kiện, rõ ràng là “hèn với giặc, ác với dân”, câu này nay đã trở nên một thành ngữ, cuộc chiến vừa qua đã không mang lại chiến thắng cho ai, chỉ có dân tộc Việt Nam là thua.
Mũ Đỏ Nguyễn Văn Lập (TrẻĐẹpOnline)
Hồ sơ giải mật *
LTS* Có bạn đọc trước đây hỏi chúng tôi rằng sau khi nghe ông Dương văn Minh đầu hàng, sao Pháo Binh Nhảy Dù không bắn nát Dinh Độc Lập là nơi xuất phát cái lệnh quái ác này đi. Xin được trả lời chung rằng, anh em Nhảy Dù rất phẩn uất khi được lệnh buông súng, vì chúng tôi về Saigon tử thủ để bảo vệ thủ đô. Lúc đó, nếu có một đơn vị Nhảy Dù nào mà được lệnh đánh vào Dinh Độc Lập để bắt cái chính phủ chủ hàng này, và đương nhiên sẽ xin tác xạ vào đấy, chúng tôi sẽ không ngần ngại bắn ngay. Nhảy Dù chỉ tuân lệnh cấp chỉ huy trực tiếp, bảo nhảy vào lửa để cứu dân, chúng tôi sẽ nhảy vào, trong quá khứ chúng tôi đã làm, và không có lệnh thì không làm. Còn tác hại của pháo binh trong thành phố rất lớn, cho nên khi bắn thường có Tiền sát viên (Forward Observer) hay Sĩ quan liên lạc ( Liaison Officer) xin bắn và điều chỉnh cho trúng mục tiêu, và bắn đâu là trúng đó. Bắn bừa không có điều chỉnh, đạn dễ lạc vào nhà dân, thêm trọng tội.
Mời bạn đọc bản dịch hồi ký này bằng Anh ngữ
The Man Who Did Not Destroy His Guns
Story By Nguyen Van Lap. Translated by Merle L. Pribblenow
All radio conversations are in clear text so that the reader may more easily understand them. My battalion’s radio call sign was “115,” and my battery’s call sign was “314.”Around late March 1975 [sic], my battalion returned to our rear base, the Nguyen Hue Base, with only a little over 100 men, leaving behind three firing batteries about which we hadreceived no word ever since the withdrawal from Khanh Duong. There was no possible way thatthe 3rd Airborne Brigade, stationed between Duc My and the Khanh Duong gateway to Ban MeThuot, could have stopped three Communist divisions that outnumbered us 10 to 1 that weresurging forward on a tide of victory after our unwilling retreats from Military Region 1 and thenMilitary Region 2. The 2nd Airborne Artillery Battalion had destroyed eighteen M-102 105mmhowitzers on the battlefield! When the enemy overran their positions, there was no way todetermine how many of the men were still alive and how many were dead. Only the commandbattery was still intact.Major Nguyen Ngoc Trieu, the battalion commander (now living in Houston) ordered meto reform Battery B2 in an atmosphere of extreme urgency. We had 80 new replacements, almostall of whom were “deserter laborers” [taken from the special labor battalions made up ofdeserters who had been arrested and sentenced to hard labor for deserting their units]andmilitary felons transferred in from the Go Vap Military prison or the jails of the combat units.The rest of the men were taken from the command battery. At the same time I was alsoresponsible for handling the administrative procedures for almost 100 artillerymen still missingfrom the Khanh Duong fighting. Handling an artillery battery of such “crack troops” who did notknow anything about how to fire a cannon would be a difficult problem to solve in such a hotsituation. The six outdated M2A1 105mm howitzers that we were issued, still smelling of freshpaint, from the Long Binh Supply Depot made me even more discouraged…[no longer having the fast-firing M-102 howitzers he was used to, mentions that his wife andthree small daughters arrived at the military dependents quarters from Long Khanh a few dayslater, easing his worries, a story about reprimanding his command sergeant for shaving the headsof several of the new “elite troops.”]…On 25 April 1975 the communists captured Nhon Trach and fired a few ranging rounds intothe Nguyen Hue base. One round landed near the brigade marketplace, while the rest landedoutside the base. The soldiers’ families evacuated back to Saigon, leaving only the Headquartersof the 3rd Airborne Brigade, the 11th Airborne Battalion, the Headquarters of the newly-formed16th Airborne Battalion, and my battalion at the base. I spent the days training my troops, and atnight I was left free and all by myself, so I spent the evenings wrestling with bottles of Hennessytogether with Major Pham Hong Thiep, the Deputy Commander of 16th Battalion, and MajorTruong Van Ut, the S-3 of 16th Battalion…[A few drunken exchanges are repeated]Many years later we regretted that we did not have an opportunity to fight one last battlein the extreme southern end of our Fatherland and just let the chips fall where they may. On theafternoon of 29 April 1975, my battalion was ordered to pull back to defend the Capital, Saigon.At that time, the new President, Duong Van Minh, was still afraid of a coup, so he refused topermit any troops to use the Bien Hoa Highway to cross the Saigon Bridge [Newport Bridge] toreturn to the Capital. The battalion headquarters and three batteries (Captain Toan’s CommandBattery, Captain Tuan’s Battery A2, and Captain Phuc (alias “Black Flag Pirate”)’s C2 Battery
were stationed together at the Phu Tho Racetrack, while my battery was ordered to take the Korean Highway around to the Cong Hoa Stadium and set up our guns there. This would take several hours, since we got stuck in traffic at Ba Queo before we reached our positions…[Description of how he set up his guns at the stadium and pointed them toward the AirborneDivision Headquarters at the Hoang Hoa Tham Barracks at Tan Son Nhut; how he was informedthat he would be responsible for his own perimeter security since there were no airborne unitsavailable to be sent to protect his guns; story about how a father, an ARVN first lieutenant,brought his son, a sergeant first class who had gone AWOL from the battalion for a month, to thestadium to force him to return to the fight; the author assigned him as a gun commander; longstory about author’s conversation with the father; author thinks about the possibility of retreatingdown to IV Corps; listening to the rumbling of artillery fire all night. ]In the early morning of 30 April 1975 the skies over Saigon were dark and depressing,with gray clouds extremely low overhead, as if they were preparing for the funeral of a regime.Many units heard that there were paratroopers at the Cong Hoa Stadium and knocked on thegates requesting entrance. I had the gate opened and then returned the key to the stadiumcustodian. An entire Ranger artillery battery commanded by a major came in and set up in thestadium, followed by Marines, Air Force personnel, soldiers from infantry units, and (more thanany other group) soldiers assigned to the Capital Special Zone. Some of these men had weaponsand some were empty-handed. Some came in for a while and then left again. Even a UH-1Bhelicopter piloted by Captain Tran Van Phuoc landed in the stadium to ask about the situationand then took off again (later Captain Phuoc and I were reunited when we were imprisonedtogether in a reeducation camp in Phuoc Long) …We patiently waited for something to happen. And it did – the enemy advanced into thecapital. Long bursts of machinegun fire could be heard from the direction of Tan Son Nhat. Theenemy advance guard units had been able to infiltrate the Headquarters of the Airborne Division,and the 6th and 16th Airborne Battalions were engaging them. There were engagements all alongthe inner perimeter, from Hang Xanh to the General Staff Headquarters. The Ranger artillerybattery at the Cong Hoa Stadium and the 2nd Airborne Artillery Battalion at the Phu ThoRacetrack were firing volley after volley at targets being called in by the artillery liaison officerswith the ground units. I was anxious to join, and opened up my map to Davis Station, behind theAirborne Division Replacement Station, the location where two communist delegations, theNorth Vietnamese and their NLF puppets, were located, to mark a number of additional firingpoints there so that, when necessary, we could rain fire down on their heads in retaliation in theevent they were able to overrun our division. I had my men take all two thousand artillery roundsthat we had brought with us out of their crates. The shells were piled up next to the trails of ourguns, ready to pour a rain of fire down of the targets. Just at that moment, instead of the artillery liaison officer calling in a fire mission, 115called in a fire target in the direction of the division. The enemy had reached Tan Son NhatAirfield, and he called for a smoke round to be made ready to explode in the air. Instead ofhaving a single gun put a round in the breech to wait for the order to fire, I ordered the entirebattery to turn their guns to the same aiming point and prepare to fire for effect with all six guns. We waited for 15 long minutes, but we receive no call over the radio to fire. I made ananxious inquiry:“115, this is 314. The round is in the breech, ready for fire. What is taking so long?”“314, look up in the sky. What do you see?”
I ran out from the fire control center and looked toward the Division, but I saw nothing. Ithen looked over toward Saigon and saw a helicopter in the sky. I took out my M1 compass, tooka bearing, and immediately realized that it was a helicopter lifting off from the U.S. Embassy onThong Nhat Street and flying out toward the South China Sea. I returned to the fire control centerand picked up the radio microphone:“115, this is 314. I see several “dragonflies” flying out toward the South China Sea, butthey are not anywhere my firing line. If any of your people are in contact with the enemy, let’sjust go ahead and shoot. I guarantee there will be no problem.”However, 115 ordered us to “check fire” and wait for orders.I was no longer anxious and I instantly understood that everything had already been pre-arranged. At the last minute, our two-day-old government was still providing cover for the “jointevacuation.” U.S. Navy [sic]C-46s and C-53s [sic]were picking up their last loads of people.Via arrangements made by the new people who had only occupied Independence Palace for twodays in harmony with their black-toothed spear-chucker friends at Davis Station that providedthat the other side would not use their anti-aircraft weapons to shoot down the evacuationhelicopters, and that’s the reason those helicopters were able to fly so nonchalantly during theseflights. A short time later, when I could not see any more helicopters, I called battalion again.“115, this is 314, let me talk to 219 (the call-sign for Major Viet).”“314, this is 219. What do you want?”“219, has anyone called for fire support? I want to make my firing calculations.”“314, prepare to ‘fire for effect’ for Tuong Vy [Tuong Vu was the call sign for DivisionArtillery].”This meant that we would fire for effect if the division was overrun. I had marked thistarget some time before and was ready to fire, because the round had been loaded into thebreeches and locked, ready to fire, for some time. The entire battery was now turning their gunstoward the firing bearing and waiting for the order to fire. If the Viet Cong entered Saigon, theirfirst blow would certainly be against the Airborne Division, attacking through Tan Son NhatAirfield. If the Airborne Division failed to hold out, the entire Capital would be shaken andmorale would immediately collapse.Then, suddenly, Senior Corporal Thach ran in to report breathlessly,“Lieutenant! Minh has surrendered!”I felt as if the sky had fallen down on my head. I ran as fast as I could to the fire controlcenter. The sound of the voice of new President Duong Van Minh reading an appeal over theradio for our soldiers to lay down their arms frightened everyone. …[The rest of the article is about him trying to get word from his commanders, the other units in the stadium throwing away their weapons and dispersing, leaving only his battery. The deputy battalion commander then arrives in a Jeep, tells him that “it is all over, have your men disperseor wait to turn your weapons over to the enemy.” The major leaves. The author decides to order his men to leave everything in place, destroying nothing (not the guns, the ammunition, maps,radios, or anything else) and go home.]