Hôm nay kỷ niệm 52 năm ngày mất của cha tôi. Dù bài này đã đăng lên vài lần nhưng tôi vẫn tiếp tục đưa lại để những ai chưa đọc sẽ thấy cái chết của ông xảy ra trong hoàn cảnh chiến tranh khắc nghiệt đến thế nào, một cái chết dính liền với thăng trầm lịch sử của đất nước.(BCV)
Ba tôi thời hoạt động bên Pháp
Ba má tôi, tôi và em gái tôi trên bến Bạch Đằng, Sài Gòn
Tôi bước vào ngôi trường tiểu học chậm mất hai năm so với bạn bè cùng lứa tuổi vì một lý do bất đắc dĩ. Ba tôi là ông Bùi Văn Trình,sinh năm 1914 tại huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định,đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam thời kỳ đầu thành lập, ông từng sang Paris học nghề thợ giày dành cho người tàn tật và gia nhập Đảng Cộng Sản Pháp. Lúc về nước ông tiếp tục hoạt động và bị bắt giam dưới chế độ Ngô Đình Diệm, bị tịch thu cửa hiệu mặt tiền “Tiệm giày tàn tật Bùi Văn Trình” trên đường Yên Đổ (tức đường Lý Chính Thắng bây giờ). Khi bị bắt ông đang là thành viên Ban Tuyên Truyền Thi Hành Hiệp Định Geneve do ông Mai Văn Bộ làm trưởng ban. Mẹ tôi, bà Nguyễn Thị Mùi cũng tương tự như vậy, bà mang bí danh Mỹ và Định, bà cũng là đảng viên Đảng Lao Động (tiền thân của Đảng Cộng Sản) nhưng thời gian ở tù ít hơn chồng. Bà thường tự hào nói với con cái rằng “Gia đình mình là gia đình Công Giáo yêu nước”. Bà từng bị giam ở bót Hoàng Hùng, bót Catina… và có thời gian ở chiến khu. Trong tù bà bị nhốt chung với vài nhân vật lịch sử như bà Nguyễn Thị Bình, Đỗ Duy Liên, Lan Mê Linh… như lời bà kể. Bà từng kể “bà Nguyễn Thị Bình còn gọi là Châu Sa tính tình như con trai, ăn nói rất táo bạo”. Còn trong chiến khu bà từng mô tả về cách sinh hoạt đặc biệt của ông Lê Duẩn thuở hàn vi, lúc ra suối tắm thân thể đầy ghẻ, dáng lam lũ và có máu khôi hài không thua gì ông Lưu Bang lúc chưa lập nên nhà Hán. Những chuyện kể của bà loáng thoáng như món rau muống luộc chấm nước tương trong bữa ăn nhà nghèo khiến tôi không mấy quan tâm. Điều tôi quan tâm là bà đã thay mặt người chồng nằm trong vòng lao lý, dạy dỗ ba đứa con nên người bằng nghề thợ may thuê cực khổ.
Năm 1961 ba tôi được chế độ Ngô Đình Diệm thả về, trên lưng và ngực đầy những vết thương tím bầm do bị tra tấn bằng roi điện, roi cá đuối. Ngày ông xuất hiện trước cửa căn nhà sàn vách ván lềnh bềnh trên mặt sông với bộ đồ bà ba đen, thằng con trai đầu lòng mới 7 tuổi là tôi đã từ chối ông. Từ trước đến giờ tôi quên mất mình có cha và chỉ được học đánh vần bởi người mẹ bằng cuốn “Nhị Thập Tứ Hiếu”. Tôi đã quay lưng với ông suốt một tuần lễ mặc kệ đêm nào ông cũng rơi nước mắt khi nằm bên cạnh các con. Ấy thế mà chỉ trong vòng một năm tập làm quen tình phụ tử với nhau, tôi đã được ông dạy gần hết chương trình tiểu học. Tôi đã học giỏi đến mức có thể đi biểu diễn ở các trường công và trường tư lúc mới vừa…8 tuổi. Tại trường tiểu học tư thục Sao Mai dưới chân cầu Công Lý, các thầy giáo nhà dòng đã dẫn tôi đến tất cả mọi lớp từ lớp năm đến lớp nhất (tức lớp 1 đến lớp 5) để đọc bảng cửu chương từ 2 cho đến 9 đọc xuôi rồi đọc ngược, sau đó làm toán chia bốn con lẫn toán phân số của bậc trung học. Tôi biến thành tấm gương hiếu học một cách kỳ lạ. Tại trường tiểu học công lập con trai Tân Định (giờ là trường tiểu học Nguyễn Thái Sơn) tôi đã được thầy hiệu trưởng đặc cách nhận vô học lớp tư (tức lớp 2) sau khi trắc nghiệm năng lực về văn và toán. Kể từ đó tôi luôn luôn lãnh phần thưởng hạng nhất cuối năm học từ lớp tư cho đến lớp nhất. Chỉ cần đứng hạng nhì mỗi học kỳ là tôi đã bị trừng phạt bằng những ngọn roi da giày của ba tôi quất tới tấp vào mông. Những lần bị đòn như thế tôi rất oán hận và nguyền rủa ba tôi nhưng bây giờ ngồi nghĩ lại mới thấy ông có cách giáo dục và thương con cực kỳ đặc biệt. Ông có cách giáo dục như bà mẹ thầy Mạnh Tử dạy con lúc còn thơ trong sách Cổ Học Tinh Hoa. Tôi lại may mắn thụ giáo những bậc thầy giỏi ngay từ tiểu học. Lớp Tư 1 học thầy Nhạ. Lớp Ba 1 học cô Cổ Tấn Mỹ Loan. Lớp Nhì A học cô Phan Thị Mai. Lớp Nhất A học bà Giáo. Thi Đệ Thất vô trường trung học công lập Trần Lục năm đó chỉ lấy 170 người trên hơn 10.000 thí sinh ứng thí, tôi thi đậu hạng 7 và được nhận học bổng suốt những năm trung học đệ nhất cấp. Số điểm hạng 7 của tôi so với hạng nhất thủ khoa chỉ cách 1 điểm rưỡi. Ba tôi bằng cách nào đó đã xem phiếu điểm thi và rất hài lòng khi thấy bài văn tôi đạt điểm cao nhất, còn bài toán được tôi giải theo kiểu phân số của bậc trung học và bị trừ 2 điểm dù đáp số y chang của Bộ Giáo Dục.
Trong phạm vi bài viết này thiết tưởng cũng cần nói lên sự ưu việt của nền giáo dục thời đó dành cho trẻ em nghèo. Tuy đất nước trong thời chiến, nhưng những đứa trẻ con chúng tôi mỗi buổi sáng đến trường không cần phải lấy tiền của cha mẹ, bởi trước khi vào lớp đều được nhận một phần ăn bánh mì phô mai và ly sữa bột nóng miễn phí. Đứa nào trốn xếp hàng nhận phần ăn sẽ bị cấm vào lớp học. Chính vì thế con nít thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm hầu như không có chuyện thiếu dinh dưỡng bị còi xương. Thanh niên trưởng thành đều phát triển chiều cao sức khỏe đúng tiêu chuẩn khoa học, hợp với câu thành ngữ “Một tinh thần minh mẫn trong một thân thể tráng kiện”. Chưa kể nhà trường còn chăm sóc đến cuối năm đứa nào nghèo quá thì được lãnh phần thưởng “CÂY MÙA XUÂN” gồm quần áo sách vở, không hề phân biệt gia đình có hoạt động chống lại chế độ hay không. Cụ thể là gia đình “tù chính trị” nghèo mạt hạng của tôi luôn có thêm phần thưởng ấy. Chưa kể học tiểu học được dạy môn Đức Dục, lên trung học có môn Công Dân đều là những môn dạy căn bản đạo lý làm người. Chính nhờ những môn học nhân văn bắt buộc ấy mà từ trẻ em đến người lớn khi ra đường thấy đám ma đi ngang đều dừng lại cúi đầu chào, nghe tiếng quốc ca vang lên đều đứng yên phăng phắc, đến ngã tư thấy đèn đỏ đều tự động dừng lại trước vạch vôi trắng, phát hiện người già người tàn tật băng qua đường đều tự giác dẫn họ qua. Ở quận, phường khóm nào cũng có nhà thương thí, trạm y tế, nhà dưỡng lão, nhà nuôi trẻ mồ côi, nhà nghỉ cho đồng bào bệnh hoạn hoặc bất hạnh có chỗ nương thân. Và đặc biệt những nơi này hoàn toàn miễn phí không thu một cắc. (Nếu tôi không quá chủ quan trong nhận định thì có thể nói thời điểm ông Diệm cầm quyền là thời kỳ vàng son nhất của miền Nam trên trường quốc tế). Thời điểm ấy nền kinh tế và dân trí Việt Nam Cộng Hòa sánh ngang với Nhật Bản, hơn Đại Hàn và tất nhiên hơn xa các nước vùng Đông Nam Á như Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương Quần Đảo. Thời điểm ấy Sài Gòn sạch sẽ như Tân Gia Ba và được mệnh danh là HÒN NGỌC VIỄN ĐÔNG cũng không có gì thái quá.
Năm 11 tuổi tôi bắt đầu có thơ in báo ở các trang thiếu nhi của các nhật báo, tuần báo miền Nam trước 1975. Tôi đọc ngốn ngấu cổ văn kim văn, nhai nuốt và tiêu hóa hết kho sách cũ của ba tôi và cậu tôi giấu kín dưới gầm giường. Ở trường dạy loại thơ gì là tôi thực hành ngay loại thơ đó, kể cả thể loại thơ khó nhất là thơ Đường Luật. Tôi làm thơ Đường bảo đảm có đủ “mạo, thực, luận, kết” với cặp thực và cặp luận đối nhau chan chát. Số lượng thơ đăng báo của tôi cho đến 15 tuổi không dưới vài trăm bài thơ được cắt dán trong sổ hẳn hoi. Năm học Đệ Lục trường Trần Lục tôi và hai người bạn cùng lớp là Vũ Hào Hiệp, Ngô Đình Hải dám thành lập “Nhóm Thơ Hồn Trẻ” với những tôn chỉ, mục tiêu, thủ tục kết nạp nhóm viên đăng lên các báo. Chúng tôi có quỹ riêng tích lũy bằng sự đóng góp của các tân nhóm viên và đăng đàn sáng tác thơ, truyện y chang những ngòi bút chuyên nghiệp. Các bạn thử tưởng tượng lúc đó chúng tôi mới 12, 13 tuổi “chưa ráo máu đầu” giờ tan trường còn thèm ăn cà rem Kinh Thành khu Tân Định, ấy vậy mà dám cả gan làm “sếp” các nhóm viên một nhóm thơ, trong đó có không ít nhóm viên nam, nữ là sinh viên hoặc công nhân, lính tráng. Giờ xin trở lại với lứa tuổi hồn nhiên… vô số tội. Hai thành tích của tôi trong giai đoạn này là đoạt giải thưởng Hội Họa Thiếu Nhi Châu Á lúc mới 9 tuổi đang học lớp Ba 1 trường Tân Định với bức tranh màu nước mang tựa “Quang Trung Hành Quân” và giải thưởng truyện ngắn Viết Trên Quê Hương Điêu Tàn của một nhật báo đối lập lúc 15 tuổi với truyện “Trái Đầu Lâu”. Trong bức Quang Trung Hành Quân tôi vẽ cuộc tiến công thần tốc của Hoàng Đế Quang Trung ra Bắc bằng cuộc chuyển quân trên võng, cảnh tượng cứ hai nghĩa quân Tây Sơn đi như chạy cáng võng một người nằm quả là hình ảnh đặc sản chỉ có ở con người Việt Nam và ở sự sáng tạo thần kỳ của Nguyễn Huệ. Đầu năm 1963 Tổng Thống Ngô Đình Diệm đích thân mời người đối kháng với chế độ ông là cha tôi Bùi Văn Trình (từng bị ông nhốt tù chính trị) dẫn tôi vào Dinh Độc Lập nhận giải thưởng Hội Họa Thiếu Nhi Châu Á với sự có mặt của các vị Đại Sứ nước ngoài. Lúc đó tôi còn quá nhỏ nhưng cũng đủ bày tỏ lòng ngưỡng mộ ông, một vị Tổng Thống có tinh thần mã thượng biết quý trọng hiền tài không phân biệt xuất thân, lý lịch. Một Tổng Thống có vẻ ngoài hiền hậu nhưng lại có tầm nhìn xa thấy rộng, không cho phép người Mỹ can thiệp quân sự vào hiện tình đất nước Việt Nam. Đáng tiếc là một Tổng Thống anh minh như thế lại bị chết oan ức, chết thảm khốc trong cuộc đảo chính quân sự 1-11-1963 do chính người Mỹ giật dây theo kịch bản của họ. Ông Diệm chết vài tháng sau khi đọc diễn văn khai mạc Trại Hè Thiếu Nhi Xuất Sắc Toàn Miền Nam tại Bà Rịa Vũng Tàu mà tôi là một đại biểu thiếu nhi được mời tham dự. Sự trả giá sau cái chết của ông Diệm cũng được tôi đề cập trong truyện TRÁI ĐẦU LÂU.
Ngày 7-8-1971 người đối kháng với Tổng Thống Diệm là cha tôi cũng lìa đời vì hậu quả những vết thương do tra tấn trong tù ngục. Năm đó tôi mới 17 tuổi. Tôi nhớ lại hết ngày tôi còn nhỏ xíu khoảng 7 tuổi được cha tôi dẫn đến nhà bà bác sĩ Dương Quỳnh Hoa tại tư gia của bà trên giao lộ Trần Quang Khải – Hai Bà Trưng.Tại đây tôi được bà Dương Quỳnh Hoa (Bộ trưởng Bộ Y Tế Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam) lì xì và nghe bà trò chuyện với cha tôi bằng tiếng Pháp để tránh sự dòm ngó. Bây giờ thì bà lẫn cha tôi đều đã mất trong đau đớn và nuối tiếc, khi những người từng gọi là “anh em” phản bội lại lý tưởng của mình, làm tay sai cho ngoại bang phương Bắc. Họ đã bán đứng không chỉ miền Nam mà cả một dân tộc kiên cường trong chiến đấu để đổi lấy một chỗ ngồi vinh thân phì gia bị lịch sử suốt đời nguyền rủa. Tội nghiệp ông Bùi Văn Trình, tội nghiệp bà Dương Quỳnh Hoa, tội nghiệp những người yêu nước ngây thơ thời tôi chưa mở mắt chào đời, tôi chỉ biết tưởng niệm cha mình bằng những câu thơ viết trong giấc mộng:
Cánh rừng khô, lá khô, máu khô
Ba đứng đó một mình hiu quạnh
Trắng, xám, xanh, đen… màu địa y
Ba khoanh tay hất hàm ương ngạnh
Những nếp nhăn nửa đời, cả đời
Trên trán ba, trên trán thảo mộc
Thôi quên đi chính trị, thi ca
Ba mím môi lặng người đứng khóc
BCV