Đăng ngày: 20/03/2024
Công chúng giờ đây chắc ít ai nghe nói đến cuốn từ điển Pháp–Việt cuối thế kỷ 19 của Trương Vĩnh Ký. Thế nhưng theo một số người am hiểu, cuốn sách kế thừa các tri thức từ điển học Pháp này rất có thể là dấu ấn quan trọng trên chặng đường đầu hình thành tiếng Việt hiện đại, cho thấy Trương Vĩnh Ký không chỉ là người nỗ lực ‘‘phổ biến’’ chữ Quốc ngữ (*) như các ca ngợi lâu nay, mà còn tạo lập nhiều nền tảng cho ngôn ngữ quốc gia tương lai của người Việt.
Tiểu từ điển Pháp – Việt (Petit dictionnaire Français – Annamite) của nhà bác học Petrus Trương Vĩnh Ký dày 1.192 trang, khổ 11×19 cm, ấn hành tại Nhà in Thừa Sai nhà thờ Tân Định, Sài Gòn, là cuốn từ điển song ngữ đầu tiên đối dịch một ngôn ngữ phương Tây và tiếng Việt do chính người Việt biên soạn, và cũng là cuốn từ điển Pháp – Việt đầu tiên. Từ điển bao gồm các từ tiếng Pháp với phần ghi chú từ loại bằng tiếng Pháp, được sắp xếp theo thứ tự a, b, c và phần chuyển dịch ra tiếng Việt với các nghĩa chính, từ đồng nghĩa, và với một số ít trường hợp đi kèm với ví dụ, cụm từ thường dùng, hoặc diễn giải kèm theo.
Từ điển song ngữ giúp người Việt phát triển tiếng mẹ đẻ
Thông thường từ điển song ngữ có chức năng chính là để giúp học ngoại ngữ. Song một số từ điển song ngữ có thể đóng vai trò bà đỡ cho sự hình thành ngôn ngữ quốc gia. Trong giai đoạn ban đầu này, từ điển song ngữ Pháp – Việt không chỉ giúp người Việt học ngoại ngữ (tiếng Pháp), người Pháp học tiếng Việt, mà trước hết là công cụ để giúp phát triển, củng cố chính tiếng mẹ đẻ của người Việt. Học giả Đào Duy Anh trong lời ‘‘Tựa’’ bộ Pháp – Việt tự điển của ông, năm 1936, đã coi việc phát triển từ vựng tiếng Việt là mục tiêu số một (1), điều không dễ hiểu với người Việt sau này.
Nước Pháp đang tiến tới kỷ niệm 500 năm sắc lệnh Villers-Cotterêts (1539), do vua François đệ nhất ban hành, nhằm tăng cường sử dụng tiếng Pháp trong hệ thống nhà nước, sắc lệnh thường được coi như một cột mốc lớn khẳng định vị thế ngôn ngữ quốc gia của tiếng Pháp thay thế cho chữ Latinh. Cùng vào thời điểm lịch sử này, có một sự kiện quan trọng nhưng ít được để ý hơn rất nhiều, đó là sự xuất hiện hai cuốn từ điển song ngữ, Latinh – Pháp (in năm 1538) và Pháp – Latinh (1539) của Robert Estienne. Hai cuốn từ điển song ngữ này được nhiều chuyên gia Pháp đánh giá đã tạo lập nền móng cho sự ra đời của các từ điển tiếng Pháp đơn ngữ đầu tiên sau đó, đặc biệt với bộ đại từ điển của Viện Hàn lâm Pháp (xuất bản lần đầu năm 1694).
Quốc ngữ: Sự tiếp nối cuộc cách mạng ‘‘chuẩn hoá ngôn ngữ’’ từ châu Âu
Về lịch sử hình thành và phát triển của các ngôn ngữ trên thế giới, trong hơn 30 năm gần đây, trong giới ngôn ngữ học Pháp đã phát triển một tiếp cận mới, với sự thúc đẩy của nhà ngôn ngữ học Sylvain Auroux với tác phẩm tiêu biểu ‘‘La révolution technologique de la grammatisation’’ (tạm dịch là: ‘‘Cuộc cách mạng công nghệ chuẩn hoá việc dạy tiếng/học tiếng’’), phương pháp tiếp cận gần như không được biết đến tại Việt Nam. Đối với Sylvain Auroux, trong lịch sử các ngôn ngữ thế giới có ba biến đổi to lớn, mà ông gọi là ‘‘ba cuộc cách mạng về công nghệ’’.
Cuộc cách mạng thứ nhất đi liền với sự ra đời của chữ viết. Cuộc cách mạng thứ ba diễn ra trong những thập niên gần đây, đi liền với các công nghệ ‘‘tự động hoá’’ việc xử lý thông tin ngôn ngữ. Trong khi đó cuộc cách mạng thứ hai (‘‘grammatisation’’) liên quan đến các phương tiện dạy tiếng/học tiếng, bao gồm trước hết là sự hình thành “các sách công cụ”, đặc biệt là sách ngữ pháp và từ điển, cùng sách dạy tiếng, cho phép định hình và thống nhất một ngôn ngữ, cũng có thể gọi là ‘‘cuộc cách mạng chuẩn hoá ngôn ngữ’’.
Nhiều ngôn ngữ, vốn được sử dụng rất phổ biến trong cộng đồng (langue vulgaire – ngôn ngữ thông tục) và ngay cả khi đã có chữ viết, nhưng vì không đi kèm với các chuẩn tắc được xác lập rõ ràng, nên không thể trở thành ngôn ngữ chính thức (langue officielle). Với cuộc ‘‘cách mạng chuẩn hoá’’, các ngôn ngữ thông tục vốn được sử dụng một cách tự nhiên trong cộng đồng, trở thành “một đối tượng tìm hiểu” và học hỏi một cách bài bản.
Trong cuộc cách mạng thứ hai, nở rộ tại châu Âu thời Phục hưng, và từ đó lan rộng khắp thế giới, các từ điển song ngữ thường là bước đệm không thể thiếu, cho phép ra đời các từ điển đơn ngữ (2), một cái mốc căn bản khẳng định vị thế một ngôn ngữ quốc gia. Để nhận biết được những giá trị cơ bản của các từ điển song ngữ Pháp – Việt (3) và đại từ điển Việt – Pháp (hiện chưa được tìm thấy) của Trương Vĩnh Ký (4), cần gắn các từ điển này với truyền thống lớn nói trên, của châu Âu nói chung và nước Pháp nói riêng (5).
Cuốn từ điển nổi tiếng bị quên lãng
Trước năm 1945, cuốn tiểu từ điển Pháp – Việt của Trương Vĩnh Ký đã được tái bản nhiều lần. Tuy nhiên, cuốn sách từng khá nổi tiếng trước 1945 nhìn chung đã không được giới ngôn ngữ học hiện nay tại Việt Nam chú ý là ghi nhận của nhà ngôn ngữ học Hoàng Dũng (từ Sài Gòn) với RFI: ‘‘Cho đến nay, tôi chưa thấy một công trình nghiên cứu về ngôn ngữ học nào chú trọng cuốn này cả. May lắm thì người ta nhắc tới trong những công trình của Trương Vĩnh Ký có cuốn sách này. Nhưng lấy đấy làm đối tượng phân tích thì không thấy có’’.
Về lý do cuốn từ điển không được chú ý, trả lời RFI qua thư điện tử, nhà ngôn ngữ học Vũ Đức Nghiệu (từ Hà Nội) giải thích: ‘‘Việc ít người chú ý đến cuốn từ điển này là vì những lý do khác chứ không phải nguyên do nội tại của cuốn từ điển này. Thời ông Trương Vĩnh Ký làm ra cuốn này, chắc số người học tiếng Pháp chưa được nhiều. Còn việc sử dụng cuốn từ điển này để tìm hiểu về lịch sử từ vựng tiếng Việt thì bước sang nửa đầu thế kỷ 20 chưa ai quan tâm. Đến nửa sau thế kỷ 20, mới bắt đầu có những nghiên cứu chú ý miêu tả một số nét/một số mặt của lịch sử từ vựng tiếng Việt trong một số sách giảng dạy và nghiên cứu về Việt ngữ nhưng chưa có những chuyên luận sâu về lịch sử phát triển từ vựng tiếng Việt. Đến năm 2003 mới có một chuyên khảo về Lịch sử từ vựng tiếng Việt thời kỳ 1858-1945 (tác giả Lê Quang Thiêm). Năm 2011, có một chuyên khảo riêng về lịch sử từ vựng tiếng Việt (tác giả Vũ Đức Nghiệu)’’.
Việt Nam hết lệ thuộc vào Thiên Triều, nhưng Quốc ngữ chưa thoát vị thế ‘‘chiếu dưới’’
Cuốn Từ điển Pháp – Việt của Trương Vĩnh Ký ra mắt vào một thời điểm đặc biệt. Năm 1884 – 1885 là thời điểm nổ ra chiến tranh Pháp – Thanh tại miền Bắc Việt Nam. Chiến tranh kết thúc với Hiệp ước Thiên Tân (Traité de Tien-Tsin) tháng 6/1885. Vương triều nhà Thanh thừa nhận quyền bảo hộ của Pháp với Việt Nam, từ bỏ quy chế ‘‘triều cống’’ của Việt Nam với tư cách phiên quốc, được duy trì từ cả ngàn năm. Cuốn từ điển, với hai trang bìa ghi hai năm xuất bản khác nhau 1884 và 1885, dường như đã in dấu ấn của bước ngoặt lớn này.
Trên trang bìa từ điển đầu tiên, ghi năm 1884, trên cùng là tên chữ Hán (富浪音話撮要字彙合解安南 / Phú lãng âm thoại toát yếu tự vị hợp giải An Nam / Tự vị tiếng Pháp giải nghĩa cô đúc sang tiếng Việt), bên dưới là hàng tít bằng chữ Pháp ‘‘Petit dictionnaire français-annamite’’ (hay ‘‘Tiểu từ điển Pháp – Việt’’). Tên của tác giả Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký cũng đồng thời in bằng chữ Hán. Trên trang bìa thứ hai, ghi năm 1885, tất cả các chữ Hán biến mất. Việc chữ Hán đã hoàn toàn biến mất trong trang bìa năm 1885 phải chăng phản ánh biến đổi địa-chính trị lớn nêu trên?
Ảnh hưởng Hán trong ‘‘Khai Trí Tiến Đức’’ và từ điển Đào Duy Anh nặng hơn Trương Vĩnh Ký nhiều
Nước Việt Nam thuộc Pháp đã cắt đứt với truyền thống Thiên triều – phiên thuộc kiểu Trung Hoa, nhưng việc khẳng định chữ Quốc ngữ độc lập với chữ Hán, và dần thay thế chữ Hán với tư cách là văn tự chính thức, vẫn là một con đường đầy chông gai (6) trong một thời kỳ mà đông đảo người Việt vẫn coi chữ Nho là “chữ ta” (7). Nhà ngôn ngữ học Hoàng Dũng nhấn mạnh hành xử khác thường của Trương Vĩnh Ký, đi trước nhiều nhà biên soạn từ điển tiếng Việt nổi tiếng:
‘‘Ảnh hưởng của chữ Hán thời kỳ Trương Vĩnh Ký còn rất nặng nề trong cách viết văn. Ảnh hưởng đó với Trương Vĩnh Ký trong cuốn từ điển này nhạt hơn nhiều so với từ điển của Khai Trí Tiến Đức (1931). (Việt Nam Tự Điển của) Khai Trí Tiến Đức đầy chữ Hán, với những từ ngữ như ‘‘Cử-quốc giai binh’’, có nghĩa là ‘‘cả nước đều là lính’’. ‘‘Cử tọa’’ thì đồng ý là trong tiếng Việt có, nhưng ‘‘Cử-quốc giai binh’’, hay ‘‘Cử-thế giai trí’’, có nghĩa là ‘‘suốt cả người trong đời đều biết’’ (hay tất cả mọi người trên đời đều biết), thì đó là người Tàu nói chứ người Việt có nói thế đâu. Dễ dàng thấy là điều này không thể có trong từ điển của Trương Vĩnh Ký. Phải nói rằng những người làm từ điển Khai Trí Tiến Đức không ý thức phân biệt rõ giữa từ Hán – Việt, tức từ tiếng Hán đã ‘‘nhập tịch’’ vào tiếng Việt với chữ Hán chỉ ở bên Trung Quốc thôi, không nhập vào tiếng Việt.
Cuốn từ điển Pháp – Việt của Đào Duy Anh ra đời mấy chục năm sau cuốn của Trương Vĩnh Ký, thế mà Trương Vĩnh Ký lại Việt hơn Đào Duy Anh. Sự khác biệt đó tôi cho là rất lớn, bởi mấy chục năm cách biệt như vậy là dài lắm, chứ không phải như mấy chục năm sau này. Cái ngôn ngữ thời Trương Vĩnh Ký khác với thời Đào Duy Anh lắm, thế mà Trương Vĩnh Ký lại chủ trương tiến bộ hơn Đào Duy Anh. Như thế có lạ không ?’’.
Quốc ngữ không ‘‘nấu chung một lò’’ với Hán văn: Khuyến khích người Việt tự tạo từ mới
Gần nửa thế kỷ sau từ điển Pháp – Việt của Trương Vĩnh Ký, nhà nho, nhà cách mạng Phan Bội Châu, trong lời Đề từ cho cuốn Hán – Việt tự điển của Đào Duy Anh (1932), khẳng định ‘‘Quốc-văn ta với Hán-văn, tất phải nấu chung một lò, dệt thêu chung một khổ’’. Trước đó, Phạm Quỳnh trong bài ‘‘Bàn về sự dùng chữ Nho trong văn Quốc ngữ’’ khẳng định : ‘‘Quốc-văn là do hán-văn mà ra, không thể bỏ chữ hán mà không dùng được, cũng không thể dời khuôn phép của hán-văn mà thành-lập’’ được Quốc-văn (Nam Phong Tạp chí năm 1918). Cuốn từ điển Pháp – Việt của Trương Vĩnh Ký ngược lại cho thấy rõ chủ trương Quốc ngữ tiếng Việt hiện đại không ‘‘nấu chung một lò’’ với Hán văn (8).
Tiếng Việt cuối thế kỷ 19 còn rất thiếu từ. Đương thời với Trương Vĩnh Ký đã có nhiều bộ tự điển song ngữ tiếng phương Tây và tiếng Hoa/chữ Hán quy mô lớn mà nhà bác học người Việt khó lòng không biết đến. Nếu ông có ý định sao chép ồ ạt các từ ngữ đương thời của người Trung Quốc chắc chắn không thiếu cơ hội. Trương Vĩnh Ký giữ khoảng cách lớn với chữ Hán để làm gì ?
Trả lời RFI, nhà ngôn ngữ học Vũ Đức Nghiệu nhấn mạnh đến việc Trương Vĩnh Ký, trong cuốn từ điển này, đã khuyến khích người Việt tự tìm, tự tạo các từ ngữ mà trong tiếng Việt chưa có: ‘‘Khi đưa từ ngữ Việt để đối chiếu, nếu tiếng ta chưa có từ ngữ tương ứng, tác giả sẵn sàng “diễn giải nghĩa” của từ Pháp, giống như việc “giải nghĩa” của từ điển tường giải của một ngôn ngữ. Cái này, một mặt do “bí” về từ ngữ để mà dịch, nhưng mặt khác, lại có thể là một lối mở để người đọc có thể sẽ tự tìm lấy các từ ngữ tương ứng ở tiếng Việt để dịch, sử dụng.
Tác giả có ý ưu tiên dùng tiếng ta (tiếng Nôm), dùng khẩu ngữ thông thường để ‘‘đối dịch’’. Khi chưa có từ ngữ để đối dịch thì ‘‘diễn giải’’. Như chúng ta biết, không thể nói Trương Vĩnh Ký là người không thạo chữ Nho và tiếng Hán – Việt. Ông không thể không biết ‘‘tam giác’’, “đa giác” ‘‘viện bảo tàng’’/‘‘bảo tàng viện’’ “đa diện”, “đa phu”, “đa thê”… nhưng lại dùng: cái ba góc, hình ba góc rồi mở ngoặc chú là tam giác), dùng hình có nhiều góc, viện trữ đồ tích, có nhiều vợ, có nhiều chồng. Tuy tác giả vẫn dùng từ ngữ Hán-Việt không hạn chế, vì những lý do khác nhau (bởi ngắn gọn hơn, rõ nghĩa hơn vì đã quen, hoặc tránh thô tục… chẳng hạn), nhưng rất rõ là có chủ ý tự tạo, tự diễn giải. Nhưng ngược lại, vì chủ ý tự tạo, tự diễn giải đó mà khi tiếng ta lúc đó “chưa đủ chữ” thì cách diễn giải bị dài dòng hoặc quá nôm na. Đấy là ‘‘giảng nghĩa’’ chưa phải là “giải nghĩa” của từ điển học, và chắc chắn không phải là phương pháp ‘‘đối chiếu’’ của một từ điển song ngữ’’.
Việc Trương Vĩnh Ký lựa chọn biện pháp rõ ràng không thể gọi là tối ưu nói trên đặt ra nhiều câu hỏi. Nhưng phải chăng đây là cái giá không thể tránh khỏi để tiếng Việt khẳng định trước hết vị thế độc lập? Nhà ngôn ngữ học Vũ Đức Nghiệu nhận định: “Bây giờ nhìn lại, có thể có người thấy hơi buồn cười, vì thấy điều này có vẻ sơ giản, thậm chí nôm na quá, ví dụ bây giờ ta nói trường bách khoa, ông dùng trường dạy nhiều phép nhiều nghề; nhưng từ bấy đến nay, đã hơn trăm năm, phải công bằng mà nói đó là một sự cố gắng rất lớn ở những bước ban đầu mà tiếng Việt có chữ Quốc ngữ đi cùng, cộng với sự xuất hiện của tiếng Pháp ở Việt Nam”.
Tiếng Việt là ‘‘chủ’’, Hán tự là ‘‘khách’’: Cái nhìn đi trước thời đại
Trương Vĩnh Ký đã chọn con đường đoạn tuyệt với quan niệm ‘‘Dĩ Hoa vi trung’’, và nỗ lực sử dụng các thành tựu ngôn ngữ học châu Âu để phát triển tiếng Việt, để một thứ tiếng nói vốn chỉ là khẩu ngữ, thường dùng để làm thơ, có thể trở thành ngôn ngữ chính thức của xã hội. Nhưng cắt đứt tâm thức sùng bái con chữ vuông không phải là đoạn tuyệt với Hán ngữ, với di sản văn tự Hán – Nôm. Nhà bác học Công giáo Trương Vĩnh Ký, người đầu tiên phiên âm Truyện Kiều chữ Nôm sang Quốc ngữ Latinh, người phiên dịch nhiều tác phẩm kinh điển của Nho giáo sang văn tự Quốc ngữ Latinh, cũng như biên soạn nhiều sách dạy chữ Hán, tiếng Hoa, ắt hẳn hiểu rõ điều này. Ứng xử với nhóm từ ‘‘chữ Nho’’ là điều được Trương Vĩnh Ký chú ý, theo ghi nhận của nhà ngôn ngữ học Hoàng Dũng (9). Trong cuốn từ điển này, các từ được đánh dấu là ‘‘chữ Nho’’ được đặt trong thế tương quan : hoặc có từ ‘‘thuần Việt’’ tương đương đi kèm, hoặc không có (có khoảng 200 từ và cụm từ được Trương Vĩnh Ký đánh dấu chữ Nho trong gần 500 trang đầu của cuốn từ điển, trong đó có khoảng 20 từ tiếng Pháp chỉ có chữ Nho đối dịch, mà không có từ Việt tương đương).
Với ‘‘Enfant adoptif’’ có từ dịch thuần Việt là ‘‘Con nuôi’’, bên cạnh đó là chữ Nho ‘‘Dưỡng tử’’. Với ‘‘Directeur des ponts et des chaussés’’, có từ dịch thuần Việt là ‘‘Quan quản đốc việc cầu đường’’ bên cạnh từ chữ Nho là ‘‘Kiều lộ quản lý’’… Từ ‘‘Chimie’’ không có từ thuần Việt, Trương Vĩnh Ký chọn từ chữ Nho ‘‘Hoá học’’, và ngay bên dưới, từ ‘‘Chimiste’’ được dịch là ‘‘Kẻ thông phép hoá-học’’. Phân loại chữ Nho của Trương Vĩnh Ký như vậy không nhằm mục tiêu mô tả để phục vụ nghiên cứu tiếng Việt – lịch sử tiếng Việt, mà mô tả trước hết là để phục vụ việc sử dụng, cho việc xác lập những cách ứng xử mới với chữ Hán (10). Từ ‘‘Hoá học’’ trong trường hợp này có thể được coi là đã ‘‘nhập tịch’’ vào khối từ vựng tiếng Việt, và kể từ đó không còn cần được đánh dấu là chữ Nho. Việc phân định ranh giới từ vựng chữ Nho với từ vựng tiếng Việt của Trương Vĩnh Ký không phải để hạn chế hay loại trừ chữ ‘‘Nho’’, mà để trước hết khẳng định sự độc lập của tiếng Việt với tiếng Hán (11), và thứ hai là mở ra khả năng tích hợp chữ Hán vào tiếng Việt một cách chủ động, có chọn lọc, theo nghĩa tiếng Việt là ‘‘chủ’’, Hán tự là ‘‘khách’’ (chữ Nho không phải là chữ ta) (12).
Trong giới ngôn ngữ học Việt Nam từ nửa sau thế kỷ 20 đến nay, nổi lên trào lưu phê phán tiếp cận “Dĩ Âu vi trung’’ (tức phê phán việc áp đặt vào tiếng Việt các quan niệm đặc thù của ngôn ngữ châu Âu), trong đó có học giả Cao Xuân Hạo. Theo một số nhà quan sát, việc phê phán quan điểm ‘‘Dĩ Âu vi trung’’ hiển nhiên có những cơ sở nhất định, nhưng việc chỉ trích quá mức quan điểm “Dĩ Âu vi trung” vào giai đoạn cuối thế kỷ 19, có thể làm lu mờ đi hai thực tế căn bản khác. Thứ nhất là quan niệm ‘‘Dĩ Hoa vi trung’’ (coi các quy tắc Hán ngữ là khuôn vàng thước ngọc) còn nặng nề, và thứ hai là tình trạng thiếu vắng các công cụ ngôn ngữ học cho phép ‘‘chuẩn hoá’’ tiếng Việt, để tiếng Việt từ một ngôn ngữ “thông tục”, bình dân vươn lên dần dần thay thế cho chữ Hán/tiếng Hán với tư cách ngôn ngữ quốc gia.
Sự nghiệp phát triển Quốc ngữ của nhà bác học đã không được mấy hưởng ứng tại miền bắc và miền trung Việt Nam, nơi nền cựu học Nho giáo tiếp tục thống trị. Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục học hỏi những giá trị tiến bộ Âu – Tây để hiện đại hóa đất nước bùng lên đầu thế kỷ 20, với phương châm hàng đầu kêu gọi lấy Quốc ngữ làm văn tự quốc gia, nhưng tất cả các văn bản chủ yếu của phong trào đều bằng chữ Hán (13). Nói cách khác, việc chuẩn bị để chữ Quốc ngữ được ‘‘chuẩn hoá’’ đủ mức, đủ sức bắt kịp đòi hỏi thay đổi đột phá nói trên của giới trí thức người Việt đã bị chậm đi hẳn một nhịp so với ước vọng ‘‘chữ Quốc ngữ là hồn trong nước’’ (câu thơ khuyết danh tương truyền của một chí sĩ thời Đông Kinh Nghĩa Thục).
***
Cố viện trưởng Viện Ngôn ngữ học Việt Nam Hoàng Tuệ, trong dịp Thượng đỉnh của cộng đồng Pháp ngữ lần đầu tiên được tổ chức ở Việt Nam năm 1997, đưa ra ghi nhận: ‘‘thời tiếng Việt tiếp xúc với tiếng Pháp đâu có dài. Nhưng tuy ngắn mà rất quan trọng trong ý nghĩa một đổi mới. Xã hội Việt Nam vốn khép kín đã với tiếng Pháp, mở rộng dần tầm nhìn ngôn ngữ và văn hóa sang một không gian khác lạ là Pháp và phương Tây… Ảnh hưởng quan trọng của tiếng Pháp đối với tiếng Việt là về hành văn, như có thể thấy rõ trong thơ mới và trong văn xuôi mới, văn xuôi mới nghệ thuật, văn xuôi báo chí và văn xuôi khoa học. Như vậy, tiếng Pháp đã có mặt trong tiếng Việt.’’ (14) Tiếp xúc tiếng Việt – tiếng Pháp cũng có thể được mở rộng sang các từ điển song ngữ, công cụ hùng mạnh thúc đẩy tiến trình ‘‘chuẩn hoá’’ ngôn ngữ bản địa, để xác lập được một thế ứng xử mới, để tiếng Việt từ một ngôn ngữ chiếu dưới vươn lên thành ngôn ngữ quốc gia.
Trong các trả lời phỏng vấn RFI, hai nhà nghiên cứu Vũ Đức Nghiệu và Hoàng Dũng đã nêu bật trở lại thành tựu của Trương Vĩnh Ký, ưu tiên khẳng định nguyên tắc ‘‘tiếng Việt ròng’’, để từ đó tiếng Việt có thể vươn lên bằng nội lực (diễn đạt ‘‘tiếng An Nam ròng’’, lần đầu tiên được nhắc đến trong cuốn ‘‘Truyện đời xưa’’ của Trương Vĩnh Ký in năm 1867. Trong thập niên 60, học giả Thanh Lãng đã làm sống lại quan điểm này). Các nhà nghiên cứu hy vọng việc thảo luận trở lại tác phẩm này của Trương Vĩnh Ký mang lại ‘‘chất men’’, khuyến khích giới nghiên cứu tìm hiểu sâu thêm về các đóng góp của nhà bác học, thành tựu cũng như các thử nghiệm mầy mò, cùng khó khăn, hạn chế trong cuốn từ điển này nói riêng và di sản với Quốc ngữ của ông nói chung.
Ghi chú
(*)‘‘Trương Vĩnh Ký và những nỗ lực phổ biến chữ quốc ngữ cuối thế kỷ XIX’’, RFI, 23/07/2015.
1/ ‘‘Trong lịch sử nước ta, chữ Hán đã phải nhường địa-vị cho chữ Pháp, cho nên ngày nay sự tu-dưỡng tri thức của người Việt-Nam ta, cơ hồ chỉ nhờ vào chữ Pháp, cũng như mấy thế-kỷ trước chỉ nhờ vào chữ Hán, mà Việt-ngữ vẫn cứ phải ở địa-vị thấp hèn. Vì thế nên các nhà trí-thức ta phần nhiều tư-tưởng theo tiếng Pháp, rồi đến khi cần phải biểu-diễn ý-tứ bằng tiếng mẹ đẻ thì bỡ-ngỡ lúng-túng chẳng khác gì người ngoại-bang, điều ấy tuy quái-gở mà ở xã-hội ta lại rất thường vậy. Song nếu có một bộ Pháp-Việt từ-điển thích-đáng, có thể giúp cho chúng ta dịch sang tiếng mẹ đẻ tất cả những điều chúng ta tư-tưởng theo tiếng Pháp, thì cái tình-trạng ấy cũng có thể bổ-cứu được.’’ (Lời nói đầu cuốn Pháp – Việt tự điển của Đào Duy Anh).
2/ Theo nhà ngôn ngữ học Odile Leclercq, tác giả một luận án về ‘‘các kỹ thuật’’ xây dựng từ điển tiếng Pháp thế kỷ 16 – 17 (theo tiếp cận của Sylvain Auroux), trong bối cảnh từ vựng tiếng Pháp chưa phát triển đủ mức, nhiệm vụ số một của từ điển song ngữ không chỉ là ‘‘mô tả” hay ghi lại các từ ngữ tương đương sẵn có, được người đương thời sử dụng, mà là ‘‘tham gia vào việc xây dựng khối từ vựng của toàn dân’’, với nhiều kỹ thuật rất khác với các từ điển song ngữ sau này. Trong số các kỹ thuật đó, có việc diễn giải một từ thành cả câu trong trường hợp tiếng Pháp không có từ tương đương với tiếng Latinh (điều đã được Trương Vĩnh Ký sử dụng trong cuốn từ điển Pháp – Việt) (Luận án của Odile Leclercq: Construction d’un savoir et d’un savoir-faire dans le traitement du lexique français aux 16ème et 17ème siècles, 2006).
3/ Ngoài cuốn (Tiểu) từ điển Pháp – Việt 1884 – 1885, Trương Vĩnh Ký còn có một cuốn từ điển Pháp – Việt khác, ít được biết đến hơn rất nhiều. Dictionnaire Français – Annamite, với tiểu tựa ‘‘Tự-vị tiếng Pha-lang-sa giải nghĩa ra tiếng Annam’’, ấn hành năm 1878. Cuốn từ điển (từ vần A đến chữ Cheval), được in theo chỉ thị của chính quyền Nam Kỳ thuộc Pháp, dày 288 trang, khổ A4, được coi là cuốn mở đầu cho một dự án đại từ điển Pháp – Việt. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Vy Khanh, tác giả cuốn ‘‘Trương Vĩnh Ký : Tinh-hoa nước Việt’’ (2018), ‘‘năm 1885, Dictionnaire Français – Annamite trở thành Grand Dictionnaire Français – Annamite, mà soạn giả gửi thư cho chính quyền Pháp mời mua, nhưng không thành công, và công trình chỉ còn phần in thử và thủ bút’’ (tr. 97). Bài tạp chí này hoàn toàn không đề cập đến cuốn ”từ vần A đến chữ Cheval”, tức phần đầu của dự án đại từ điển Pháp – Việt, in năm 1878, có chất lượng in ấn và nội dung vượt xa cuốn tiểu từ điển Pháp – Việt 1884 – 1885.
4/ Nói đến các từ điển Pháp – Việt của Trương Vĩnh Ký, không thể bỏ qua từ điển Việt – Pháp của cùng tác giả. Cuốn Grand Dictionnaire Annamite – Français (Đại từ điển Việt – Pháp), thường được biết đến như đã xuất bản trong khoảng hai năm 1888 – 1889, có nhiều khả năng với tư cách là bản in thử, chờ đơn đặt mua của chính quyền Pháp. Năm 1929, nhà văn Đặng Thúc Liêng đã từng mời nhà báo Phan Khôi đến tra cứu cuốn từ điển nổi tiếng này tại thư viện gia đình (Phụ nữ Tân văn, số 30 ngày 28/11/1929), dẫn lại theo học giả Nguyễn Văn Trung, trong cuốn ‘‘Hồ sơ Lục châu học’’ (năm 2015). Trong phần đầu cuốn “Đại-nam-cuốc sử kí diễn ca” (1875) (bằng tiếng Pháp), Trương Vĩnh Ký cho biết Đại từ điển Việt – Pháp đã gần như hoàn tất và ‘‘sẽ sớm xuất bản”. Đáng chú ý là trong phần dẫn nhập bằng chữ Quốc ngữ, Trương Vĩnh Ký nói đến “cuốn tự vị lớn tiếng Annam” chứ không phải một từ điển song ngữ. Ắt hẳn dù là từ điển Việt – Pháp hay từ điển Pháp – Việt, mục tiêu chính của nhà bác học, với hai dự án từ điển song ngữ này, có lẽ đều là xây dựng vốn liếng từ vựng cho Quốc ngữ tiếng Việt hiện đại.
5/ Về phương pháp tiếp cận ‘‘chuẩn hoá’’ ngôn ngữ, do Sylvain Auroux mở đường, liên quan đến tiếng Việt, có luận án tiến sĩ của Phạm Thị Kiều Ly “Quá trình điển chế hoá tiếng Việt: lịch sử xây dựng ngữ pháp và chữ viết Latinh của tiếng Việt từ 1615 đến 1919’’ (La grammatisation du vietnamien de 1615 à 1919: histoire des grammaires et de l’écriture romanisée du vietnamien)
, bảo vệ tại Đại học Sorbonne nouvelle năm 2018. Tác phẩm được trao giải luận án xuất sắc của Mạng lưới nghiên cứu Á châu của Pháp (GIS Asie). Trong tác phẩm này, tác giả chỉ chú ý đến hai vấn đề ngữ pháp và chữ viết, trong lúc mảng xây dựng từ vựng nói chung, và nhất là các từ điển thời cận-hiện đại trong đó có từ điển của Trương Vĩnh Ký, nằm ngoài đối tượng khảo sát chính. Tên gọi của luận án cũng cho thấy rõ điều này.
6/ Trong một bài viết đăng tải năm 1888 (“Ecriture en Annam’’), Trương Vĩnh Ký thừa nhận đông đảo người Việt lúc đó chưa quyết tâm lựa chọn văn tự Quốc ngữ La-tinh.
7/ Việc chữ Nho được các triều đại quân chủ Việt Nam coi là văn tự quốc gia, được đông đảo người dân coi là “chữ ta”, không chỉ gắn với vị thế phiên thuộc của Việt Nam, mà bởi chữ Hán cũng gắn liền với văn hoá Hán, từng được coi là đỉnh cao văn hiến của toàn khu vực Viễn Đông, với quyền lực tối cao của Thiên tử (Con trời). Nhiều sử gia, như Philippe Langlet (tác giả cuốn L’ancienne historiographie d’état au Vietnam, 1990), ghi nhận việc triều đình nhà Nguyễn trong một số thời kỳ đã tự coi mình là ‘‘Hán nhân’’, có sứ mạng tiếp nối nền chính trị Nho giáo.
8/ Để xây dựng nền móng Quốc ngữ hiện đại (với kho từ vựng và hệ thống ngữ pháp cho tiếng Việt), các trí thức người Việt cuối thế kỷ 19, đầu 20 đã đứng trước hai kịch bản (xem thêm phần đóng khung cuối bài). Hoặc trước hết khẳng định tính độc lập của tiếng Việt ở mức độ cao (tách hẳn khỏi Hán ngữ, rồi từ đó tiếp thu từ vựng Hán ngữ một cách thận trọng), điều mà Trương Vĩnh Ký đã làm. Hoặc tiếp tục dựa hẳn vào Hán ngữ, ít nhiều như trong truyền thống. Một số học giả như Đào Duy Anh thiên về chọn kịch bản thứ hai, Quốc ngữ phải gắn chặt với Hán ngữ (có thể do ảnh hưởng của Phan Bội Châu, người đã dành nhiều hỗ trợ cho Đào Duy Anh khi biên soạn cuốn sách này, dẫn theo ‘‘Nhớ nghĩ chiều hôm’’, hồi ký của Đào Duy Anh). Trong bộ Hán – Việt tự điển của Đào Duy Anh (1932), tác giả đã không phân định ranh giới giữa ba bộ phận: khối từ vựng gốc Hán (đã trở thành tiếng Việt), khối từ vựng tiếng Hán (hoàn toàn xa lạ với tiếng Việt) và nhóm từ vựng Hán có tiềm năng “nhập tịch” tiếng Việt (hoặc bắt đầu được du nhập vào tiếng Việt). Chính vì tình trạng mơ hồ kỳ lạ này mà đây là một cuốn từ điển rất khó xếp loại. Có người cho cuốn Hán-Việt tự điển của Đào Duy Anh là từ điển Hán-Việt / Việt (quan điểm thứ nhất), ngược lại có người xem đây là từ điển tiếng Hoa / tiếng Việt (quan điểm thứ hai). Trên thực tế, xếp từ điển này vào một trong hai loại trên đều bất cập. Chẳng hạn, nhà ngôn ngữ học Lê Xuân Thại (theo quan điểm thứ nhất), sau khi khảo sát 284 yếu tố chữ Hán trong các vần a, b, c, nhận định 74 yếu tố có thể không được xem là Hán – Việt (Từ ngữ Hán Việt – Tiếp nhận và sáng tạo, tr. 94). Quan điểm thứ hai rất dễ dàng bị bác bỏ, bởi trong cuốn từ điển này, các từ được chọn và được sắp xếp theo cách đọc của tiếng Việt (chứ không phải theo cách đọc tiếng Hoa), nên chắc chắn không thể coi đây là từ điển Hoa – Việt.
9/ Một chi tiết ít được chú ý trong cuốn từ điển nhưng có thể nói lên nhiều điều. Nhà ngôn ngữ học Hoàng Dũng lưu ý: Những dòng cuối trong lời nói đầu của từ điển có ghi rõ: ‘‘Chữ c. chỉ là tiếng chữ ( chữ nhu.)” (“Tiếng chữ” tức chữ Hán, ‘‘chữ nhu’’ tức chữ Nho). Với dòng chỉ dẫn ngắn ngủi về chữ Nho, chủ trương của Trương Vĩnh Ký, tách các từ được gọi là ‘‘chữ Nho’’ ra khỏi bộ phận còn lại của tiếng Việt đương thời, để khuyến khích thái độ tiếp thu một cách chủ động, thể hiện rất rõ. Trong lần tái bản 1920 – 1924, cũng như trong cuốn từ điển Pháp-Việt của Trương Vĩnh Ký (in năm 1878) từ vần A đến Cheval, chỉ dẫn này đều không tồn tại, cho dù thao tác dùng chữ c. để đánh dấu chữ Nho vẫn luôn hiện diện trong toàn bộ từ điển. Hiện tượng này cho thấy, việc (ngầm) tách khối từ vựng tiếng Việt ra khỏi chữ Nho rất có thể vẫn còn là một vấn đề nhạy cảm trong giai đoạn này.
10/ Có thể thấy, trong cuốn từ điển này, tuyệt đại đa số các từ tiếng Việt không được xếp vào chữ Nho, cho dù rất phổ biến các từ mà nhiều trí thức người Việt hiện nay vẫn coi là ”từ Hán-Việt” (ví dụ như viện hàn lâm, người nông phu, đấng tạo hoá…). Điều này ắt hẳn tiềm ẩn một quan niệm của tác giả, là một khi các từ gốc Hán đã hoàn toàn nhập tịch tiếng Việt (hay đã được Việt hoá) thì không còn cần thiết ghi đây là ‘‘chữ nho” (tương tự như rất nhiều từ gốc Pháp đã được Việt hoá, như xăng, ga, xích, thìa, buýt… đều được người bản ngữ hiện nay coi là ‘‘thuần Việt’’). Một cách làm như vậy rất gần với quan điểm ‘‘đồng đại’’ sau này của Ferdinand de Saussure, người thường được coi là ‘‘ông tổ của ngôn ngữ học hiện đại’’. ‘‘Đồng đại’’ tức đứng về phía cảm nhận của người bản ngữ đương thời, chứ không phải của người nghiên cứu về lịch sử tiếng Việt, về ảnh hưởng chữ Hán đến tiếng Việt theo dòng lịch sử.
11/ Trương Vĩnh Ký đã nhấn mạnh trong cuốn Grammaire annamite (Ngữ pháp tiếng Việt), xuất bản trước đó hơn một năm, ‘‘tiếng Việt, cho dù mượn từ văn tự Hán ngữ nhiều chữ, nhiều diễn đạt, vẫn là một tiếng nói riêng, không phải một phương ngữ, hay thổ ngữ của tiếng Trung: Bởi tiếng Việt có các đặc ngữ riêng, các diễn đạt riêng và có các quy tắc ngữ pháp riêng.’’
12/ Cho đến hiện nay, vấn đề phân định ranh giới tiếng Việt/chữ Nho, việc ứng xử với các từ ngữ gốc Hán, thường được gọi là ‘‘Hán-Việt’’, cũng như các yếu tố gốc Hán, dường như vẫn là chuyện nan giải với giới ngôn ngữ học. ‘‘Từ ngữ Hán-Việt’’ là từ ngữ tiếng Việt hay từ ngữ nước ngoài ? Với nhiều người, câu trả lời có vẻ đơn giản, bởi gọi là ‘‘từ Hán – Việt’’ hiển nhiên đã là từ tiếng Việt. Nhưng thực ra không hẳn. Trong cuốn ‘‘Từ ngữ Hán Việt – Tiếp nhận và sáng tạo’’ (2018), các tác giả đặt vấn đề cần tiếp tục ‘‘vay mượn từ ngữ Hán Việt để làm phong phú vốn từ ngữ tiếng Việt’’ của thế kỷ 21 (tr. 365). ‘‘Vay mượn từ ngữ Hán Việt’’, tức vay mượn các từ được coi là đã có mặt trong tiếng Việt, là một diễn đạt vụng về, phi lo-gic, một sơ suất cá nhân? Không hẳn. Bởi cũng có thể tìm thấy một diễn đạt tương tự trong cuốn ‘‘Lược khảo lịch sử từ vựng tiếng Việt’’ (2011), ‘‘Từ vựng tiếng Việt cận đại một mặt vẫn tiếp tục vay mượn từ ngữ Hán Việt khi cần thiết, mặt khác nó cũng sẵn sàng vay mượn… một số lượng không nhỏ các từ gốc Pháp’’ (tr. 439). Trao đổi với chúng tôi, nhà ngôn ngữ học Vũ Đức Nghiệu giải thích diễn đạt “vay mượn từ Hán Việt” nói trên là nhằm để chỉ việc ‘‘du nhập” các từ có nguồn gốc từ tiếng Hán, được đọc theo âm Hán Việt. Lời giải thích này làm rõ hơn lý do vì sao các tác giả lại sử dụng một diễn đạt như vậy, nhưng không xua tan được tính chất mơ hồ của diễn đạt. ‘‘Từ gốc Hán đọc theo âm Hán Việt’’ khi chưa được vay mượn đã được coi là từ Hán Việt chưa, nếu chưa thì sao gọi là ‘‘từ Hán Việt’’ ? Tính chất mơ hồ này không khỏi không nhắc đến tình trạng ranh giới bất phân giữa chữ Hán và chữ Hán – Việt trong cuốn từ điển ‘‘khó xếp loại’’ của Đào Duy Anh (chú thích 8) cùng chủ trương ‘‘Quốc văn và Hán văn đúc chung một lò’’, rất khác với quan điểm rạnh ròi tiếng Việt là chủ, Hán tự là khách mà Trương Vĩnh Ký hướng tới.
13/ Văn Minh Tân Học Sách (“文明新學策) kêu gọi ‘‘dùng văn tự nước nhà’’, tức ‘‘chữ Quốc ngữ’’, là một văn bản chữ Hán, cũng như Quốc dân độc bản (國民讀本), hay Tân đính luân lý giáo khoa thư (新訂倫理教科).
14/ ‘‘Nhìn lại thời tiếng Việt tiếp xúc với tiếng Pháp’’, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3, 1997.
Nhà ngôn ngữ học Hoàng Dũng (Sài Gòn)
(Tiếp thu chữ Hán có chọn lọc hay dựa hẳn vào chữ Hán)
Việc thảo luận về cuốn từ điển Pháp – Việt của Trương Vĩnh Ký, bị quên lãng một thời, làm nổi lên trở lại vấn đề tiếng Việt hiện đại đã trỗi dậy như thế nào để trở thành ngôn ngữ quốc gia, trong tương quan với tiếng Hán. Về vấn đề này, tại Việt Nam khá phổ biến quan điểm tập trung nhấn mạnh đến việc tiếng Việt trở thành ngôn ngữ chính thức là nhờ nền độc lập. Tuy nhiên, sự việc không hoàn toàn đơn giản như vậy. Việc có được văn tự Quốc ngữ Latinh cũng chưa đủ cho một ngôn ngữ quốc gia.
Tiếp cận ‘‘chuẩn hoá’’ ngôn ngữ, của Sylvain Auroux, làm nổi bật tầm quan trọng của các sách ngữ pháp, từ điển, sách dạy tiếng. Để trở thành ngôn ngữ chính thức, tiếng Việt phải tiến vọt, đặc biệt là về mặt từ vựng. Nỗ lực từng bước đặt nền tảng để ‘‘Quốc ngữ’’ thực sự trở thành ngôn ngữ quốc gia ắt hẳn diễn ra sớm hơn rất nhiều so với cái mốc 1945. Trong thời Nam Kỳ thuộc Pháp nửa sau thế kỷ 19, quá trình ‘‘chuẩn hoá’’ tiếng Việt về mặt từ vựng đã có những cột mốc như từ điển Pháp – Việt Trương Vĩnh Ký, hay Đại Nam Quốc âm Tự vị của Huỳnh Tịnh Của (1896). Vào thời điểm này, giới trí thức người Việt đứng trước hai lựa chọn : hoặc tiếp tục dựa nhiều vào Hán ngữ, như giới nhà nho trong truyền thống, được các học giả như Đào Duy Anh sau này tiếp nối, hoặc khẳng định tính độc lập của tiếng Việt ở mức độ rất cao (tách hẳn khỏi Hán ngữ, rồi từ đó tiếp thu chữ Hán một cách chủ động, thận trọng).
Trong bài trả lời phỏng vấn RFI, nhà ngôn ngữ học Hoàng Dũng khẳng định tầm quan trọng của cuốn từ điển Pháp – Việt 1884, cho thấy Trương Vĩnh Ký đã rất ‘‘nhất quán’’ với lựa chọn thứ hai, chủ trương dựa vào ‘‘tiếng Việt ròng’’, lời ăn tiếng nói của người dân bình thường, trong tiến trình thúc đẩy tiếng Việt trở thành ngôn ngữ quốc gia, được coi là đi trước phong trào ‘‘bạch thoại’’ thay thế ‘‘văn ngôn’’ tại Trung Quốc (tức phong trào cổ vũ cho tiếng nói của người bình dân thay cho ngôn ngữ sách vở của giới nhà nho) đến hàng chục năm. Đây cũng là điều mà Nguyễn Trọng Quản, học trò Trương Vĩnh Ký, khẳng định với truyện vừa ‘‘Thầy Lazaro Phiền’’ (1887), tác phẩm văn xuôi hiện đại đầu tiên của Việt Nam. Trương Vĩnh Ký có cách xử lý cụ thể thế nào với các chữ Hán (thường được gọi là từ ngữ ‘‘Hán – Việt’’) đã có mặt trong khối từ vựng tiếng Việt vào thời điểm đó và chữ Hán của người Trung Quốc (nằm ngoài tiếng Việt) trong cuốn từ điển này nói riêng và trong di sản của ông nói chung, là vấn đề rõ ràng cần được tìm hiểu cặn kẽ. Tuy nhiên, khi nhấn mạnh đến vai trò nền tảng của ‘‘tiếng Việt ròng’’ trong lộ trình xây dựng Quốc ngữ hiện đại, Trương Vĩnh Ký và những người đồng hành với ông dường như đã muốn xây dựng một thứ tiếng Việt hiện đại khác hẳn với thứ ‘‘tiếng quan’’, hay thứ ngôn ngữ nội bộ của giới nhà nho, quan lại người Việt, tuy cũng là tiếng Việt, nhưng in đậm dấu ấn tiếng Hán (‘‘Tiếng quan’’ là một hiện thực xã hội- lịch sử đặc biệt ở Việt Nam còn rất ít được chú ý. Huỳnh Tịnh Của, đồng nghiệp của Trương Vĩnh Ký, trong Lời nói đầu của Đại Nam Quốc âm Tự vị, ghi nhận: ‘‘trong sự vãng lai giao thông, các quan Annam lại dùng nửa nôm nửa chữ mà làm một thứ tiếng riêng gọi là tiếng quan’’/’’les mandarins, dans leurs relations habituelles, mêlant à parts égales les mots vulgaires aux termes chinois, créèrent ce qu’on appelle le langage relevé’’).
Thế ứng xử mới với chữ Hán, tiếng Hán được Trương Vĩnh Ký phác họa, ắt hẳn cần tìm hiểu kỹ. Để thấy rõ ý nghĩa riêng của cách xây dựng từ vựng cho tiếng Việt của Trương Vĩnh Ký có thể so sánh với quan điểm tiếp thu ồ ạt chữ Hán mới vào khối từ vựng tiếng Việt của một số tác giả khác. Một ví dụ tiêu biểu là khối từ vựng chữ Hán khoảng 2.000 từ ngữ (theo thống kê của nhà từ điển học Trần Văn Chánh), mà học giả Phạm Quỳnh chủ trương nhập tịch ‘‘nguyên khối’’ và ngay lập tức vào tiếng Việt, thông qua Nam Phong Tạp Chí những năm 1917-1918-1919…, mà tác giả tin tưởng là chắc chắn sẽ được người Việt tiếp thu. Trong số các từ được du nhập qua mục “Tự vựng. Quốc ngữ – chữ Nho – chữ Pháp”, bao nhiêu còn trụ được vài thập niên sau ? Khoảng 40 từ trên tổng số hơn 100 từ của ‘‘Tự vựng kỳ 4’’ (không bao gồm các từ liên quan riêng đến xã hội Trung Quốc) đã hoàn toàn vắng mặt trong Từ điển Tiếng Việt Hoàng Phê (1983), công trình có uy tín trong giới nghiên cứu. Tình hình tương tự với ‘‘Tự vựng kỳ 10’’, với khoảng 40 trên tổng số hơn 80 từ vắng mặt (vắng mặt hoàn toàn, tức không được coi là ‘‘nhập tịch’’ vào tiếng Việt, chứ không phải được coi là các từ “cũ”, tức đã từng thông dụng một thời). Các từ ngữ như kiểu ‘‘ách yếu’’, “ấp tốn”, ‘‘bạch câu’’, ‘‘bào trạch’’,’’chắc lậu’’, ‘‘huân đào’’, ‘‘vĩ quan”… có mặt phổ biến trong khối từ vựng mà Phạm Quỳnh đề xuất, ắt hẳn chỉ để phục vụ nhu cầu của một bộ phận công chúng rất hẹp thời đó.
Đáng tiếc là cuốn “Từ ngữ Hán – Việt, tiếp nhận và sáng tạo” (2018), được coi là ‘‘công trình đầu tiên khảo sát tổng hợp’’ về từ ngữ Hán Việt của nhiều nhà ngôn ngữ học hàng đầu Việt Nam, đã không nhắc đến Trương Vĩnh Ký cũng như bộ ‘‘Tự vựng’’ nói trên của Phạm Quỳnh. Cuốn sách công phu và thú vị về từ ngữ Hán Việt, tập hợp nhiều tiếp cận lý thuyết quốc tế này thừa nhận : ‘‘trong sự nghiên cứu về từ mượn (gốc Hán) và từ Hán Việt vẫn đang còn những câu hỏi không nhỏ, không dễ trả lời’’ (tr. 29). Liên quan đến cách ứng xử với từ ngữ gốc Hán, trong giai đoạn cuối thế kỷ 19 đầu 20, nhiều câu ‘‘trả lời’’ rất có thể sẽ được tìm thấy trong các nguồn tư liệu phong phú trong giai đoạn này, trong đó có cuốn từ điển Pháp – Việt của Trương Vĩnh Ký.