1.
Tháng Ba, buổi xuân ngồi tính sổ
Ôi làm người khốn khổ thế ư?
..
Nhỏ nhà nghèo, ít học
Lớn lên đi lính
Sao phải trần thân mười mấy năm tù?
Tội danh “Ngụy Quân” nghe đến lạ
Không vô ở lính thì đi mô?
Phụng sự Tổ Quốc- Học từ Trường Gia Hội (1)
Hiểu nghĩa Từ Bi – Âm vọng lẫn chuông chùa (2)
Chẳng lẽ khai sinh nơi Đường Trung Bộ
Vô cớ làm người nặng nợ máu với “nhân dân”
Từ khi đẻ ra bên Sông An Cựu?
Một đời cụp sống lưng chập gánh bún bò (3)
Chân trần, tóc khô, ngày ngày chạy bộ qua Sông Hương
Gió cầu Trường Tiền thổi ngược
Buộc phải nhận quá trình “bán nước” sao đang?!
Chồng lính Nghĩa Quân, đóng đồn ngoài Sịa (4)
Tết kia đập chết chôn mô, tới ni không biết đi tìm?
Tuổi trẻ, tình xuân.. Cái chi không thấy
Nồi chè đậu đen tất bật từ dưới Đò Cồn (5)
Lên Thượng Tự, đám lính trẻ đổ dồn
Cười cười mím chi, em “làm đày” mời mọc (6)
Ai ăn chè bột lọc..
Ngọn đèn dầu hắt hiu không soi rõ mặt
Muốn ăn khôn.. Tui bán chịu cho en
Giặc ngoài Bắc vô..
Giết tất!
Gánh chè đổ hắt ruồi đập không bay
Máu đọng thấm khô xuống đất
Tết Giao Thừa Mậu Thân!
..
Qua Tháng Ba Bảy Lăm,
Huế chết thiệt tội
Trời ơi!
2.
Cao Tăng Tịnh Đức ra đi (7)
Tro cốt hóa thiêu nên Xá Lợi
Nhất Hạnh Thiền Sư từ bỏ (8)
Tính xem ông để lại cái gì?
..
Ông gõ bao lâu, được mấy mõ
Có không “Tiếp Hiện” lỗ Chân Không? (9)
Đắc đạo cần gì lập bàn án
Kín lọng che và đốt trầm thơm? (9Bis)
Ông mở bàn tay,
Sụp mí mắt
Tiền mấy Làng Tu gom không thiếu một cắc
Phật Lý lập ngôn hãy buông xã
Mà ông hốt trọn đủ nguyên con
Ra đi lần nầy e khó gặp Phật
Bởi thiếu khiêm nhường, không đủ xót thương
Quá nhiều phẫm hàm, lắm bằng cấp
Kín lọng che và đặc khói hương
Rất đông chúng đệ tử cúng nhường.
Theo cách người Bùi Giáng (10)
Viết lời thơ nói hoảng
Đời sống chỉ có vậy
Cứ như là giởn chơi
4.
Dăm định nghĩa viết xuống
Hiểu ra nghĩa rạch ròi
Việc thiệt ở đâu đó
Không xa người bao nhiêu
..
Hỏi ra Mác-xít là gì?
Mát sắc dáo mác- Xít mùi bọ hung
Trời mưa bong bóng bập bùng
Trước nguyền Giải Phóng- Nay thề Hóa Trung
Làm sao nhốt gió vào rương
Đố ai ngăn được nẽo đường Cali.
5.
Hạnh phúc không hề thiếu
Chỉ vài điều đơn sơ
Thiệt thà kể với người
Coi như lời nói chơi..
51- Ra hầm lâu mới được ngồi ghế
Cảm giác lâng lâng bao xiết kể
Chân thoáng đong đưa, đầu ngữa dựa
Ghế gỗ thô cứng, vẫn đê mê
52- Tay bưng ấm áp gợn ly trà
Soi mặt ta vào ngỡ dáng ma
Nuốt xuống cùng lần bao khổ nhục
Hớp vào quên hết phận xót xa
53- Kia kìa lồ lộ “Người Đàn Bà”
Ngực, vú căng tròn, tóc tiên nga
Đàn bà? Một thưở nào xa quá
Nức thơm da, thịt.. Vỡ sát-na!
54- Bóng tối không là mối sợ hãi
Vỗ về thống khổ, tập dần quên
Quên cảnh nhục nhằn, nhói xương cốt
Quên siết cùm chân..
Quen Nỗi Đau.
Nhân vào buổi Tháng Ba
Nhớ khởi cuộc mất nước
Muốn khóc cũng không được
Nhìn quanh thời nhiễu nhương..
..
Vẫn biết cảnh đời là cõi tạm
Cớ sao cố sống đến hôm nay?
Những tưởng trời cao kia có mắt
Thôi rồi, mắt nhắm chặt, buông tay!
Cứ ngỡ cuộc tình yêu bất diệt
Hóa ra tử huyệt chết không hay!
…
Đành cuối buổi ngó lên trời thăm thẵm
Có hay không giây phút “tại bây giờ”?
Hằng tưởng lẻ tử/sinh là đáng sợ
Chẳng có gì.. Thức giấc lẫn cơn mơ!
,,,
Vào đêm Tháng Ba
Nhớ ngày xuân xưa, nơi quê nhà thống khổ
Nay trời xa, tràn máu lửa dập dồn
Hóa ra cuộc biển dâu suốt chốn trần gian nầy vẫn vậy
Tội cho Người..
Khóc ngất tự rất lâu..
Ghi Chú:
- Trường Gia Hội : Trường Tiểu Học, lớp học vỡ lòng của Pnn trước 1950.
- Chùa Diệu Đế : Khu Gia Hội, sinh quán của Pnn
- An Cựu : Hữu ngạn Sông Hương, dân cư chuyên nghiệp nấu, bán Bún Bò Huế.
- Sịa : Quận Lỵ Bắc Thừa Thiên-Huế
- Đò Cồn : Khu Gia Hội , dân cư chuyên ngành bán chè gánh.
- Làm đày : Thổ ngữ địa phương Thừa Thiên-Huế chỉ cách làm duyên của thiếu nữ nhỏ tuổi.
- Cao Tăng Tịnh Đức/Tôn Thất Toản (1944-2022) , Chùa Đạo Quang Dallas, Texas; thiêu tro cốt hóa Ngọc Xá Lợi.
- Thiền Tăng Thích Nhất Hạnh/Nguyễn Xuân Bảo (1926-2022), Chùa Từ Hiếu Huế; Chủ các Làng Tu, Mai, Hồng, Mận.. ở Pháp, Canada, Mỹ ; chuyên viên tranh đấu phản đối Chiến Tranh VN –Chống Mỹ/Cứu Nước (1963-1973).
- 9Bis : Tiếp Hiện : Phương pháp tu thiền của NH/NXB ; Sau 1975 lần về VN yêu cầu phải có hương án, đốt trầm hương và lọng che
10- Bùi Giáng (1926-1998): Thi sĩ, chuyên viết khảo luận văn học theo cách riêng biệt của Miền Nam.
Phan Phi Danh
Tháng Ba, 1975- Tháng Ba, 2022