– Nữ Bác sĩ Lê Nhàn
Tâm Sự Với Các Thế Hệ Kế Thừa Trong và Ngoài Nước
Nhân Ngày Quốc Hận
Bốn mươi bảy năm: sầu khổ, ̣đau thương, đòi đoạn,
Bốn mươi bảy năm: Lang sọ́i ngự trị Quê Hương.
Bốn mươi bảy năm: Miền Nam tôi đòi, hoang loạn, (*)
Cộng Thù đã gieo rắc bao chết chóc, đau thương….
Chúng bắt toàn dân phải nuốt toàn là khẩu hiệ̣u,
Không ̣đủ no với bo bo, khoai sắn từng ngày.
Bao Cấp, Kinh Tế Mới, bao kiếp sông tù đày,
Còn hiển hiện, “Thống Nhất”: chỉ là cơn ác mộng.
Chúng ươn hèn, cúc cung, tôn thờ thù Phương Bắc,
Nhượng đất, bán biển… toàn là điêu ngoa, đổi chác.
Vơ vét cho thật đầy bao túi tham không đáy,
Mặc toàn dân bương chải… lo cơm cháo từng ngày.
Hãy đến thăm những xóm làng xa xôi, hẻo lánh,
Hay đặt chân vào h̉ẻm, khóm ồ chuột Thị thành.
Sẽ thấy được bao cảnh đời vô cùng khốn khổ,
“Thống Nhất” gạt lừa, bởi bọn giặc Cộng gian manh.
Chúng bắt toàn dân phải nghe lộng ngôn, ngoa ngữ,
Sống đời dối lừa… khiến đạo đức đã suy đồi.
Quê ta tàn tạ từ ngày Quỉ Đỏ lên ngôi,
Hãy đứng dậy đập tan… quét sạch Ma Quỉ Dữ.
Lấy lại Tự Do… tái tạo đất nước phú cường,
Trang uế sử này chúng ta phải cần xé bỏ.
Cùng nhau chung lưng, cương quyết dựng lại cơ đồ,
Câu hò, vọng cổ, nhạc trữ tình tràn… Quê Hương….
“Hoàng Kỷ ấp ủ Ba dòng máu thắm” tung bay,
Khắp Phố thị đến Làng xóm cuả Quê Hương này.
Thuỳ Châu / Thành Tuy Hạ,
(*) hoang tàn, loạn lạc
Nỗi Buồn Tháng Tư
Ngô Minh Hằng
Hỡi ai thương nhớ quê hương
Xin nghe tôi kể chuyện buồn tháng Tư
Tháng Tư, trời đất mây mù
Lệnh hàng, buông súng, thiên thu còn buồn!
Nghẹn ngào, nhục tủi, đau thương
Oan khiên máu đỏ ngập đường lui quân
Thân người đổ xuống theo thân
Không làn đất phủ, không lần tiễn đưa !
Xác người bón gốc rừng thưa
Nước tôi có một Tháng Tư kinh hoàng !
Tháng Tư nghe lệnh đầu hàng
Bao người thương lá cờ vàng quyên sinh!
Nước nguy, vị nước, quên mình
Mất thành, anh dũng cùng thành, chết theo!
Tháng Tư khói lửa ngặt nghèo
Vô danh quốc sử bao nhiêu anh hùng!
Tháng Tư vợ trẻ khóc chồng
Mẹ già chan chứa giọt hồng khóc con
Tháng Tư đại bác nổ giòn
Trẻ thơ chết thảm dưới cơn đạn thù
Tháng Tư rộng cửa lao tù
Nước tôi từ đấy đau nhừ nỗi đau
Núi rừng người nối chân nhau
Kiếp tù lạ nhất địa cầu, thảm chưa !
Trong tù, tù chết như mơ
Ngoài tù, dân chết bên bờ biển đông
Biển xanh pha đỏ máu hồng
Rừng xanh lệ đỏ từng dòng mồ hôi !
Tháng Tư ai biến nước tôi
Thành lò hỏa ngục thiêu người tang thương!
Hỡi ai còn nhớ quê hương
Lắng nghe tôi kể chuyện buồn tháng Tư
Nghe rồi, xin chớ làm ngơ
Vì quê ta đã đến giờ đổi thay
Góp vào, xin góp bàn tay
Làm cơn gió lộng thổi bay mây buồn
Ai còn nghĩ đến quê hương
Ngô Minh Hằng
Cuối Đường Mẹ Đi
Võ Đại Tôn (Hoàng Phong Linh)
Quê hương, những ngày di tản đầy máu và nước mắt, trong Tháng Tư dương lịch, 1975
Mẹ già đi từ Cam Lộ,
Nước mắt chảy mềm Gio Linh.
Gia tài không đầy đôi rổ,
Mẹ nhìn máu lửa Thần Kinh.
Đá đổ mồ hôi: Thạch Hãn
Chạy dài đến đỉnh Hải Vân.
Leo đèo, Mẹ như mê sảng,
Chân voi: sưng đôi bàn chân.
Mẹ đi giữa trời thiêu đốt
Thây con lớp lớp trải dài
Dọc theo con đường Số Một,
Nằm bên dăm củ sắn khoai.
Tam Kỳ chạy vô Quảng Ngãi
Bầy con đói khát bên đàng.
Biển người xô nhau, quằn quại,
Ngã dần… trong tiếng khóc than.
Mẹ vào Quy Nhơn, Phú Bổn,
Nhìn trời khói lửa Pleiku.
Đoạn đường mang tên Mười Bốn
Thành mồ hoang lạnh, thâm u.
Thây ai quàng manh chiếu rách,
Bàn tay nào vói trời cao?
Ngập vùng tang thương Darlac,
Chân đi, Mẹ khóc nghẹn ngào.
Máu chảy lan dần mạch đất
Nha Trang chết vạn đàn con.
Vào Nam, sức già lây lất
Về đâu? – Nẻo sống không còn !
Cần Thơ, Hà Tiên, Rạch Giá,
Mẹ lần đến mũi Quê Hương
Cà Mau nhìn ra biển cả
Tàn hơi, Mẹ chết bên đường !
Mẹ già đi từ Cam Lộ
Cuối đường, chết mũi Cà Mau.
Trọn đời sống trong đau khổ
Chết còn trông thấy khổ đau!…
Võ Đại Tôn (1975)
Bùi Giáng
Đánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào,
Đánh cho chết mẹ đồng bào Miền Nam.
Đánh cho khoai sắn thành vàng,
Đánh cho dép lốp phải mang thế giày.
Đánh cho Nam Bắc đọa đày,
Đánh cho thù hận giờ này chưa tan.
Đánh cho cả nước Việt Nam,
Áo ôm khố rách, xếp hàng xin cho.
Đánh cho hết muốn tự do,
Hết mơ dân chủ, hết lo quyền người.
Đánh cho dở khóc dở cười,
Hai miền thống nhất kiếp người ngựa trâu.
Đánh cho hai nước Việt Tàu,
Không còn biên giới cùng nhau đại đồng.
Đánh cho dòng giống Tiên Rồng,
Osin, nô lệ, lao công xứ người.
Đánh cho chín chục triệu người,
Thành dân vô sản, thành người lưu vong.
Đánh cho non nước Lạc Hồng,
Tiến lên thời đại mang gông mang cùm.
Đánh cho cả nước chết chùm,
Đánh cho con cháu khốn cùng mai sau.
Đánh cho bác, đảng, Nga, Tàu,
Hết quần hết áo thì tao ở truồng!
Bùi Giáng
———
Đôi Dép Tháng Tư
Nguyễn Bá Chổi
Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, hắn “được Cách Mạng nhân đạo khoan hồng tập trung để bảo vệ tính mạng cho, vì nếu để ở ngoài sẽ bị nhân dân trả thù”.
Huyện Củng Sơn thuộc tỉnh Tuy Hòa là vùng hoạt động của “Cách Mạng” trước 75. Lúc mới “nhập môn” giữa vùng rừng núi này, mỗi lần đi ra ngoài “học tập lao động để sau này trở về không còn bóc lột như thời Mỹ Ngụy nữa, mà biết tự mình làm ra của cải vật chất hầu nuôi sống bản thân, gia đình và đóng góp cho xã hội”, hắn nơm nớp sợ đồng bào địa phương có tiếng là dân Cách Mạng, sẽ trả thù (thù gì thì hắn không biết), nếu họ bắt gặp và nhận ra hắn là “ngụy quân.”
Một hôm, trên đường đi “lao động là vinh quang” ngang qua khu chợ, có mấy người dân chạy theo đoàn tù binh. Hắn lo lo; đang lúc chuẩn bị tinh thần chịu trận “nhân dân trả thù” thì có người dí vào túi áo hắn gói thuốc lá Sông Cầu. Đó là một nhân dân hoàn toàn xa lạ. Hắn sửng sờ, chưa kịp nói lời cảm ơn thì người đàn bà ân nhân đã lách vội vào đám đông như tìm đường chạy trốn. Từ đó về sau, nhiều người trong đám tù và hắn lâu lâu lại được “nhân dân trả thù” như thế; khi cục đường mía, lúc miếng kẹo lạc.
Lại một hôm, đám tù được thả lỏng phân tán mạnh ai nấy tự đi tìm… cỏ tranh để cắt (về lợp nhà). Hắn được một phụ nữ quần áo vá đùm vá đụp mặt hốc hác, chạy đến trước mặt, mắt dáo dác ngó trước ngó sau một vòng rồi dí vào tay cho cái bánh ú làm bằng bột củ sắn mì với nhân hột mít. Chị ta nói,” Anh ăn cho đỡ đói. Bây giờ chúng tôi mới hiểu ra… và thương các anh quá”.
Không thấy “nhân dân trả thù” mà chỉ gặp nhân dân “thương các anh quá”, nhưng Cách Mạng vẫn nhất quyết tiếp tục “bảo vệ tính mạng cho Ngụy quân ngụy quyền, những kẻ có tội với nhân dân mà lấy hết trúc Trường Sơn làm bút, lấy sạch nước Biển Đồng làm mực cũng tả không xiết”. Tháng lại tháng. Năm qua năm. Đêm đêm nằm nêm cối đến ngộp thở trong những dãy nhà được bao bọc bởi nhiều lớp kẽm gai xen kẽ lớp xương rồng rồi lớp mìn bẩy, lớp hầm chông. Ngày ngày đi ra ngoài làm đủ thứ công việc của người tù khổ sai. Khi đi lẫn lúc về, đoàn tù binh phải dừng lại nơi cổng ra vào để lính gác đếm. Đi, đếm rất mau; về, vừa đếm vừa khám xét khắp người tù xem có lận theo trong túi áo thắt lưng con cóc con nhái, con rắn con rít, hay cọng rau nạm cỏ (như cỏ sam heo ăn được là tù ăn được)… gọi chung là những thứ “cải thiện linh tinh” bị cấm ngặt, nên trong khi chờ đợi, cứ phải ứa gan với cái bảng đỏ to tổ chảng trước mặt treo vắt ngang giữa hai cái lô cốt chằm chằm hai bên cửa ra vào, có hàng chữ màu vàng khè “KHÔNG CÓ GÌ QUÍ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO” phía trên hàng chữ “TRẠI CẢI TẠO A30” . Mỗi lần như thế, hắn lại hình dung ra cảnh tú bà cho treo trước cửa nhà chứa của mụ, cái băng trắng chữ đỏ “Chữ Trinh đáng giá ngàn vàng”.
“Ngày như lá tháng như mây”, chỉ là với thế giới bên ngoài. Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại. Hắn thường bày tỏ rằng, nhờ Ơn Trên phù hộ hắn mới qua khỏi hơn 2500 cái “thiên thu tại ngoại”, để có ngày được “Cách mạng khoan hồng” cấp cho tờ “Giấy Ra trại”. Trên đường về với gia đình tận vùng Cao Nguyên, hắn phải ghé lại Nha Trang để chờ mua vé xe cho chặng đường cuối. Hắn đi lang thang để nhìn lại cảnh cũ người xưa nơi thành phố mà hắn đã qua nhiều thời kỳ gắn bó. Thuở nhỏ “du học”; lớn đi thi Tú Tài; mấy tháng học Không Trợ tại Trường Không Quân, và những lần “quá cảnh” trên đường đi đi về vê. Người thiếu nữ đầu tiên đi qua đời hắn cũng từ bãi thùy dương cát trắng này. Nha Trang đã là một phần đời hắn.
Hắn đi ngang quầy bán thuốc lá lẻ bên lề đường Nguyễn Hoàng. Bỗng dưng hắn nhớ và thèm một điếu thuốc CAPSTAN ngày nào. Sau khi tính nhẩm và chắc chắn số tiền Trại cải tạo cấp cho theo tiêu chuẩn nhà nước làm “của ăn đi đường” còn đủ để mua được hai điếu thuốc lá Song Long (hắn biết giá thuốc vì Trại thỉnh thoảng có mua giùm cho những ai có tiền cần mua), hắn mạnh bạo tiến đến phía quầy bán thuốc. Đã gần bảy năm, nay hắn mới được thấy lại nụ cười chào khách của những người bán thuốc lá bên đường mà trước kia hắn thường gặp. Hắn hân hoan như vừa tìm lại được một điều gì quý hóa đã mất từ lâu lắm. Nhưng bỗng dưng hắn chưng hửng khi thấy mặt cô gái bỗng nhiên tối sầm lại và tỏ vẻ dửng dưng với khách. Hắn ngạc nhiên trước thái độ thay đổi đột ngột của cô gái. Hắn kiểm điểm lại mình, và đinh ninh mình không hề có cử chỉ khiếm nhã nào hay nói năng gì khác ngoài lời hỏi mua thuốc lá. Hắn sực nhớ lúc nãy cô gái có liếc mắt xuống đôi chân hắn. Hắn chợt thoáng “lý đoán” ra nguyên nhân. Nhìn thẳng vào mặt cô bán thuốc, với vẻ nghiêm trang, hắn nói:
“Anh vừa từ trại Cải tạo ra, đang trên đường về, nên đành phải mang đôi dép này”.
Khi hắn vừa mới nói đến “Anh vừa từ trại cải tạo ra”, cặp mắt cô gái sáng lên và đôi má cô ửng hồng, nhếch lên để lộ ra cái núm đồng tiền. Hình như cô muốn nói điều gì mà không cất lên được. Cô luống cuống lấy trong hộc ra gói thuốc Hoa Mai còn nguyên rồi bằng hai tay đưa lên sát ngực hắn, với ánh mắt thương cảm trìu mến:
“Anh cầm lấy, em biếu anh. Rất tiếc bây giờ không còn thuốc trước 75”.
Hắn đã bỏ hút thuốc từ lâu, nhưng vẫn nhớ mãi gói thuốc của ba mươi năm về trước. Mỗi tháng Tư về, hắn lại càng thấy món nợ hắn mắc mỗi to hơn.
Không phải nợ gói thuốc lá cô gái biếu. Nhưng là nợ chính cuộc đời cô mà hắn đã không bảo vệ được. Để ít ra cô khỏi phải nhìn thấy những Đôi Dép Tháng Tư đưa dân Nam đến cảnh bần cùng khốn nạn.
Nguyễn Bá Chổi
Cái Nón Cối
Nữ Bác sĩ Lê Nhàn
Mình mới xuống sân bay, bước chân ra ngoài chưa kịp gọi xe thì có một anh tài xế xáp lại hỏi: Chị có đi taxi không?
Nhìn thấy đội cái mũ cối, lại giọng của đồng hương nữa nên mình không thích lắm, vì vậy vẫn hí hoáy đặt xe. Màn hình báo “Hiện tại tất cả các tài xế đều đang bận, bạn vui lòng quay lại sau”, ngán đợi nên hỏi cái “đồng chí” này, thấy giá cả cũng ok, nên gật đầu đồng ý đi.
Mặc dù cũng chẳng yên tâm tí nào khi sử dụng dịch vụ của người nói cùng giọng với mình, chỉ sợ bị chém. Lên xe mình hỏi luôn: Tôi hơi thắc mắc tí, anh cho tôi hỏi một câu nếu anh thấy không phiền, OK ?
– Chị hỏi đi.
– Tại sao anh lại thích đội cái mũ đó?
– Không phải em thích mà nắng thì em đội thôi.
– Anh vào đây lâu chưa ?
– Em vào được 7 tháng chị ạ.
– Vậy hả, vậy thì mới quá nên chưa hiểu là phải. Đúng ra tôi không nói nhưng vì tình đồng hương nên tôi nói điều này anh đừng giận nhé.
– Chị cứ nói đi.
– Lúc nãy anh biết tại sao tôi không muốn đi xe anh không?
– Em không biết.
– Tại vì anh đội cái mũ đó đó, và tôi cũng nói luôn là người dân ở đây họ không thích cái mũ đó đâu, nếu anh muốn chiếm cảm tình của người khác thì anh đừng có đội cái đó, anh đội cái gì cũng được, mặt anh rỗ thế nào cũng được, anh săm mình vằn vện thế nào cũng được nhưng anh không nên đội cái mũ đó.
Để tôi giải thích cho anh nhé, trước năm 75, Việt Nam mình chia 2 miền anh có biết không?
– Em biết.
– Đó, đó là lý do. Cái mũ ấy là nỗi kinh hoàng của người dân Miền Nam, là sự căm hận của người dân Miền Nam mỗi khi họ nhìn vào. Vì cái mũ đó họ đã BỊ giải phóng từ một cuộc sống giàu sang, tự do xuống tột cùng của sự đau khổ, vì cái giải phóng đó mà họ không chịu nổi cái việc bị đuổi ra khỏi nhà để đi vùng kinh tế mới, nơi rừng thiêng nước độc, sốt rét quật ngã họ… Nên họ phải liều chết để lao ra biển vượt biên, nhiều gia đình đã chết hết trên biển làm mồi cho cá mập.
Và ngay cả tôi, tôi là người Bắc nhưng tôi cũng không thích cái mũ đó, cái biểu tượng của sự khổ đau và kìm kẹp, mặc dù chú tôi và những người hàng xóm của tôi cũng vẫn đội để che nắng nhưng thực sự tôi không thích nó, vì cái mũ đó mà đất nước tan hoang như ngày hôm nay, tham nhũng tràn lan, kinh tế tuột dốc, đời sống văn hóa tệ hại, trò đánh thầy, thầy tra tấn trò, BS thờ ơ với bệnh nhân con người tìm cách lừa lọc lẫn nhau, tình người không còn.
Một lý do nữa để tôi nói nốt, lúc nãy tôi không thích đi xe anh là bởi vì tôi sợ bị anh “chém”, tôi cảm thấy yên tâm hơn khi ngồi sau tài xế không nói cùng giọng với mình, mặc dù nói ra điều này tôi đau lắm, họ đi xa khi gặp đồng hương họ vui sướng, họ mừng, nhưng mình gặp đồng hương lại trỗi lên nỗi sợ.
Anh tài xế lúc này mới bắt đầu: Chị nói đúng, người dân ở đây họ hiền và họ thật lắm, mình không thể mang cái lưu manh vào mà sống được, mình lưu manh thì mình tự giết chính mình. Còn ở ngoài nhà không lưu manh không sống được, đặc biệt là khi chị đi làm giấy tờ, nhất là giấy tờ nhà đất, đụng đến là nó hành cho đủ kiểu.
Đến đây thì khách sạn đã hiện ra trước mắt nên mình xuống xe.
Hy vọng anh này sẽ, sẽ và sẽ… không mang cái tính xấu vào đây.
Nữ Bác sĩ Lê Nhàn. bk 9 nu’t= di cu 1954)
Nguồn: Người Phương Nam
http://nguoiphuongnam52.