Thày Duong Vu (Vũ Huy Dương) hiệu trưởng thời trung học của tôi cách nay đã trên 40 năm. Nay thày đã U 90, nhưng vẫn còn đọc và nghiên cứu văn học. Trên FB tôi đã nhận ra thày. Song sợ phiền đến thày, hơn nữa, tôi nghĩ, chắc chắn thày không thể nhận ra mình. Bởi, ngày đi học, tôi học hành ba lăng nhăng, nghịch vào loại nhất nhì trường. Nên tôi im lặng. Một hôm thày viết thư hỏi: Đỗ Trường có phải là học trò cũ của thày không. Tôi rất xúc động, không ngờ thày còn nhớ thằng cu học trò này. Lúc sau hỏi, sao thày nhận ra em. Thày bảo, nhớ bởi ngày xưa em nghịch, và lười học quá đấy mà. Rồi thày bảo, đùa vậy thôi, đọc em nhiều, nhất là những bút ký về đồng quê tự nhiên thấy quen, và liên tưởng đến thôi. Tôi cảm ơn thày. Mấy năm trước thày bảo, thày cùng quê nhà thơ Nguyễn Bính, hôm nào Đỗ Trường về, thày dẫn ra thăm mộ. Dạo này, thấy thày ít lên FB, tôi bận việc, thỉnh thoảng liên lạc, hỏi thăm thày bảo vẫn bình thường. Hôm nay, nói chuyện với một người bạn học, mới biết, thày bị tai biến năm trước, đến nay đã đỡ nhiều. Nhân đây, em chúc thày mau lành bệnh, dù muộn màng. Em xin dán lại bài viết về Nguyễn Bính, nhà thơ quê mà thày yêu mến.
(Bài này, viết đã lâu cho các cháu học sinh phổ thông, các bác đọc cho vui)
NHỮNG BÓNG NGƯỜI TRÊN SÂN GA-MỘT BÀI THƠ CHIA LY HAY NHẤT CỦA NGUYỄN BÍNH
Nói đến Nguyễn Bính, nhà thơ hương đồng gió nội, dường như người Việt Nam thuộc thế hệ chúng tôi trở về trước, không ai là không thuộc dăm ba câu thơ của ông. Nhiều câu thơ của ông đã ru vào lòng người, làm cho nhiều người tưởng đó là ca dao. Cuộc đời của ông cùng khổ, phiêu bạt giang hồ. Có thể nói, đời ông là một tấn bi kịch gắn liền với xã hội đương thời.
Nguyễn Bính sinh năm 1918 tại Nam Định, mất năm 1966 tại quê nhà. Ông chỉ thọ có 48 tuổi, nhưng ông đã để lại cho đời hàng ngàn bài thơ, hầu như bài nào cũng hay, cũng rung động lòng người. Ông viết rất nhiều thể loại, từ kịch, truyện ký, truyện thơ. Song có lẽ hay nhất là những bài thơ ông viết về nông thôn, về đồng quê. Năm tháng tuổi trẻ của ông gắn liền với Nam Bộ với Hà Tiên, nơi có những nhà thơ Kiên Giang, Đông Hồ và nữ sĩ Mộng Tuyết. Họ là những người bạn thân tình, giúp đỡ ông từ vật chất cho đến tình cảm trong những năm tháng phiêu bạt giang hồ. Những ngày lang bạt, giang hồ ấy, đã gây cho ông nhiều cảm hứng viết nhiều bài thơ thật cảm động và đau thương.
Tiêu biểu cho những cuộc chia ly đứt ruột xé lòng này, tôi cho rằng “Những bóng người trên sân ga“ là một trong những bài thơ hay nhất nói về sự chia ly của thi ca Việt Nam, kể từ khi xuất hiện thơ mới đến nay.
Những cuộc chia lìa khởi tự đây
Cây đàn sum họp đứt từng dây
Những đời phiêu bạt thân đơn chiếc
Lần lượt theo nhau suốt tối ngày.
Có lần tôi thấy hai cô bé
Sát má vào nhau khóc sụt sùi
Hai bóng chung lưng thành một bóng
“Đường về nhà chị chắc xa xôi?”
Có lần tôi thấy một người yêu
Tiễn một người yêu một buổi chiều
Ở một ga nào xa vắng lắm
Họ cầm tay họ bóng xiêu xiêu.
Hai người bạn cũ tiễn chân nhau
Kẻ ở sân toa kẻ dưới tàu
Họ giục nhau về ba bốn bận
Bóng nhòa trong bóng tối từ lâu.
Có lần tôi thấy vợ chồng ai
Thèn thẹn chia tay bóng chạy dài
Chị mở khăn giầu anh thắt lại:
“Mình về nuôi lấy mẹ, mình ơi!”
Có lần tôi thấy một bà già
Đưa tiễn con đi trấn ải xa
Tàu chạy lâu rồi, bà vẫn đứng
Lưng còng đổ bóng xuống sân ga
Có lần tôi thấy một người đi
Chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì
Chân bước hững hờ theo bóng lẻ
Một mình làm cả cuộc phân ly.
Những chiếc khăn màu thổn thức bay
Những bàn tay vẫy những bàn tay
Những đôi mắt ướt nhìn đôi mắt,
Buồn ở đâu hơn ở chốn này?
Không có gì đau khổ day dứt bằng sự chia ly. Sự chia ly của tình yêu, chia ly của tình mẹ con, chia ly của tình chị em cho đến sự chia ly của tình bạn. Đôi khi là sự chia ly của chính bản thân mình. Nguyễn Bính đã lấy sân ga, con tầu để diễn tả những cuộc chia ly. Những sân ga, con tầu ấy là thực và có khi là sân ga trong lòng ông, trong lòng người đọc. Mở đầu bài thơ bằng vài nét chấm phá, nhà thơ cho chúng ta thấy những cuộc chia ly đau đớn đến xé lòng. Ông đã dùng hình tượng đàn đứt dây để nói lên những cuộc chia ly này (đàn đứt dây thì làm sao nối lại được, có khác chi sự chia ly đau đớn này, còn có gì bù đắp nổi). Bắt đầu từ sân ga này (là thực) hay sâu thẳm của những trái tim (nghĩa bóng). Những cuộc chia ly đã và đang diễn ra dường như bất tận…
“Những cuộc chia lìa khởi từ đây
Cây đàn xum họp đứt từng dây
Những đời phiêu bạt thân đơn chiếc
Lần lượt theo nhau suốt tối ngày …“
Vào bài, ta bắt gặp hình ảnh hai cô bé tiễn biệt nhau ở sân ga. Hai cô bé, chắc chắn nhỏ tuổi hơn nhà thơ. Bài thơ này, Nguyễn Bính viết năm 1937, khi ông 19 tuổi. Hai cô bé còn tuổi học trò. Nhưng tại sao họ phải xa nhau? Có người cho rằng, họ còn rất trẻ với tình cảm thơ ngây, còn non nớt, có thể phải bỏ trường học để đến trường đời, chưa biết nơi nào sắp phải đến… Nhưng tôi nghĩ, phải chăng họ là hai chị em? Cô em tiễn cô chị đi làm ăn xa hoặc về nhà chồng? (năm 1937, ngày đó còn tảo hôn quả thật là những lời ru buồn).
“Có lần tôi thấy hai cô bé
Áp má vào nhau khóc sụt sùi
Hai bóng chung lưng thành một bóng
Đường về nhà chị chắc xa xôi? “
Hình ảnh áp má, chung lưng gợi lên một cảm giác vô cùng lưu luyến, day dứt thơ ngây khi họ phải tiễn đưa nhau. Tình cảm ấy, tuy là hai nhưng đã quyện thành một. Sự giằng xé đó, làm cho cả hai trái tim non nớt phải chơi vơi, khi con tầu kia sẽ đưa một trong hai cô về đâu, về đâu?
Rồi đây nữa, với phép điệp ngữ, từ “Một“ được lặp lại tới ba lần, lời thơ trầm buồn, đâu đây mang hơi hưởng của âm nhạc, Nguyễn Bính đã dựng lại toàn bộ một cuộc chia ly của một người tình với một người tình. Với nỗi buồn man mác, bùi ngùi đơn lẻ đó, chúng ta thử đọc lại đoạn thơ trên:
Có lần tôi thấy một người yêu
Tiễn một người yêu một buổi chiều
Ở một sân ga nào xa vắng lắm
Họ cầm tay họ bóng xiêu xiêu…“
Buổi chiều là sự báo hiệu sắp kết thúc một ngày, cũng như cuộc tình của họ sắp đi qua chăng? Họ có những chuỗi ngày sống bên nhau thật êm đềm, hạnh phúc, có lẽ nào ngày vui đã hết, giờ chia ly đã đến. Hình ảnh chiều tà, là thời gian, không gian như nghẹt lại, gợi cho ta cuộc chia ly thật nặng nề. Lại một đại từ (phản thân) được láy lại (nhấn mạnh) “Họ cầm tay họ“ trong cái bóng liêu xiêu ấy, sao mà thấy mong manh đến vậy. Và dường như tình yêu đã vuột ra khỏi tầm tay họ chăng?.
Cũng trên sân ga ấy, Nguyễn Bính cũng bắt gặp đôi bạn thân tiễn đưa nhau. Họ quyến luyến như không muốn rời xa nhau. Người đi đã yên vị trên tầu, người tiễn muốn kéo thời gian lại (chắc nhà người tiễn cũng cách xa sân ga và có thể tầu chạy muộn giờ?). Người đi lo lắng cho bạn, nên giục bạn về ba bốn lần. Nhưng người tiễn đưa lo lắng, lưu luyến cũng không kém. Để rồi trời đã tối, bóng nhòa trong bóng, nhùng nhằng chưa chịu cất bước:
“Hai người bạn cũ tiễn chân nhau
Kẻ ở trên toa kẻ dưới tầu
Họ giục nhau về ba bốn bận
Bóng nhòa trong bóng tối từ lâu…“
Hình ảnh họ nhòa trong bóng tối như hòa quyện trong chung rượu đầy để cùng nhau uống cạn. Ôi! Tình bạn rất đời thường, nhưng có gì đẹp hơn thế không nhỉ?
Một lần khác, trên nẻo đường giang hồ của mình, nhà thơ đã bắt gặp một cặp vợ chồng, tiễn biệt nhau trên sân ga. Họ thẹn thùng, không dám cùng nhau sánh bước. Dường như họ sợ ai nhìn thấy, kể cả người lạ. Do vậy người chồng đi trước người vợ bẽn lẽn theo sau, “Thẹn thùng đưa nhau bóng chạy dài“. Người vợ cởi khăn trầu, lấy tiền đưa cho chồng, người chồng thắt khăn lại không lấy. Họ cứ đùn đẩy cho nhau. Hình ảnh đó, bật lên cái tình yêu, tình vợ chồng, rất dân dã, đời thường. Trong cuộc tiễn đưa còn có một người thứ ba, đó là người mẹ, nhưng bà không xuất hiện trên sân ga này. Đưa tiền lại cho vợ người chồng nói: “Mình về nuôi lấy mẹ mình ơi…“ Một sự lo lắng hiếu thảo, đầy tính nhân văn của người nông dân Việt Nam, dưới ngòi bút của Nguyễn Bính:
“Có lần tôi thấy vợ chồng ai
Thèn thẹn đưa nhau bóng chạy dài
Chị cơi khăn trầu anh thắt lại
Mình về nuôi lấy mẹ mình ơi …“
Một buổi chiều tà với đôi guốc mộc, bộ quần áo nâu nhàu nát, chếnh choáng men say, Nguyễn Bính khật khưỡng trên sân ga. Trước mắt ông một cuộc chia ly thật cảm động, xót xa. Bức tranh đó đã được ông chép lại:
“Có lần tôi thấy một bà già
Đưa tiễn con đi trấn ải xa
Tầu chạy lâu rồi, bà vẫn đứng
Lưng còng đổ xuống bóng sân ga…“
ó lẽ không có hình ảnh nào từ xưa đến nay làm xúc động chúng ta bằng hình ảnh người mẹ già tiễn con ra trận. Trấn ải xa, là nơi biên thùy xa xôi, đầy nguy hiểm. Tầu đã đưa người con trai đi rồi, nhưng bà cứ đứng như trời trồng. Bà nhìn theo mãi con tầu đầy quyến luyến. Sự đau khổ tột cùng đã làm bà gục ngã xuống sân ga. Hình tượng ấy, vừa thực lại vừa như ảo. Lưng còng đổ xuống bóng sân ga. Lưng bà còng xuống, hay bà cứ đứng từ lúc bóng ban trưa cho đến xế chiều tối, khi ánh nắng làm bóng bà đổ xuống. Dưới cái nhìn, quan sát tài tình, nhà thơ cho ta thấy rõ tình cảnh đau khổ của người mẹ, khi người con phải đi xa.
Có sự cô đơn, lẻ loi nào hơn, khi mình phải đưa tiễn chính bản thân mình. Đã lâu lắm rồi, chúng tôi có được nghe nữ sĩ Anh Thơ nói chuyện về bài thơ này. Tôi nghĩ, có lẽ nữ sĩ đã nói về cuộc chia ly của bản thân và Nguyễn Bính, khi ông đến thăm bà tại Bắc Giang chăng? Rồi ông cô đơn, lặng lẽ ra sân ga, không người đưa tiễn:
“Có lần tôi thấy một người đi
Chẳng hiểu về đâu nghĩ ngợi gì?
Chân bước hững hờ theo bóng lẻ
Một mình làm cả cuộc phân ly…„
Thi sĩ thấy chính mình lẻ loi với cõi đời này, khi xung quanh trống vắng, với đường đi vô định. Những từ bóng lẻ, hững hờ, tôi cho rằng là những từ đắt, hay khi miêu tả tâm trạng trong cái tận cùng của sự cô đơn. Và đâu đây, dường như có lời ca vọng về: “Còi tầu xé nát trái tim…“ Con tầu lăn bánh báo hiệu một sự chia cắt, phân ly. Có những cuộc chia ly có ngày gặp lại và những cuộc chia ly không bao giờ gặp lại. Phải chăng con tầu lăn bánh, như đang lăn chính trong lòng người thi sỹ. Và nhà thơ đang thả hồn vào từng câu thơ đó:
“Những chiếc khăn mầu, thổn thức bay
Những bàn tay vẫy những bàn tay
Những đôi mắt ướt tìm đôi mắt
Buồn ở nơi đâu hơn chốn này…„
Trước đây có một số đánh giá, phê bình, khen chê ở mức độ khác nhau, nhưng không ai có thể phủ nhận cái mới và sự trong sáng của từ ngữ trong thơ, dù nó được Nguyễn Bính viết cách nay đã trên bảy mươi năm. Bài thơ không được viết theo thể lục bát, loại sở trường của Nguyễn Bính và nó như là những thước phim lặp lại nhiều lần, nhưng người đọc, người xem, vẫn cảm thấy hay và đầy cảm xúc. Do vậy, tôi hoàn toàn đồng ý với nhà thơ Vũ Quần Phương, khi ông cho rằng: “Thơ tả tới 6 cảnh, hầu hết đều mở đầu bằng bốn từ: “Có lần tôi thấy”… dễ đơn điệu lắm. Nhưng đọc xong bài thơ không hề cảm thấy điều đó, bởi mỗi cảnh ngộ tác giả lại phát hiện một trạng thái tâm lý mới…“
Leipzig (tháng 3- 2004, viết lại tháng 12-2013)
Đỗ Trường