



Còn gia đình tôi mới là “dân di cư” chính hiệu. Năm 1954, tôi ra trường và sau 15 ngày phép về Hải Phòng, tôi được chuyển về làm Huấn luyện viên tại trường Hạ Sĩ Quan Nha Trang (CITR N0 4bis) sau đó đổi thành Ecole Commandos từ Vật Cháy chuyển vào. Hồi đó còn độc thân, gia đình tôi di cư cùng với một đơn vị Công Binh bằng tàu biển và cũng vào Nha Trang. Nếu hỏi về Nha Trang hồi đó thì tôi “rành” lắm. Bởi còn trẻ 22 tuổi, độc thân, tương đối nhiều thì giờ đi ngắm biển và ngắm cái gì tùy ý.
Về quy mô của cuộc di cư, theo tôi, đó là cuộc vĩ đại lớn nhất trong lịch sử VN năm 1954. Cuộc di cư có “tình”, có “nghĩa”, có lý do; quân đội Pháp và QĐVN thực hiện rất trật tự. Nhờ vậy hàng triệu gia đình từ Bắc vào Nam sinh sống được chăm sóc chu đáo, định cư an toàn và ngày một an cư lạc nghiệp.
Nó khác hẳn với cuộc được gọi là “di cư” năm 1975. Đó là cuộc tháo chạy vô lý, thảm thương nhất trong lịch sử, làm chết hàng triệu người dưới biển, trong các kiểu trại tù. Không biết bao nhiêu triệu gia đình tan nát. Vết thương còn để lại cho tới ngày nay, gia đình tôi cũng vậy. Tại sao ư? Điều nay phải hỏi lại anh Do Thái Kissinger và ông Nixon. Nhiều tướng lãnh Mỹ đã phải cúi đầu xin lỗi QĐVN vì đã phản bội đồng minh. Nhân dân Mỹ chẳng có lỗi gì trong chuyện này, ngay cả những người “phản chiến”, họ cũng bị bọn tài phiệt lũng đoạn chính trị lợi dụng thôi. Tưởng bắt tay anh Trung Quốc là “ngon ăn” ư? Bây giờ nhìn ra biển Đông là thấy ngay nó “ngon” cỡ nào? Hai cuộc “di cư” khác nhau hoàn toàn là như thế đó.






Nhìn chung từ 1956 đến 1975 là thời kỳ văn học nghệ thuật, các ngành từ văn chương đến âm nhạc, hội họa… đều đua nhau nở rộ. Có thể nói đó là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của văn nghệ VN. Chính thời kỳ này đã nổi lên nhiều nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ, các tác phẩm danh tiếng thuộc nhiều trường phái khác nhau. Tuy nhiên việc xuất bản tác phẩm văn nghệ nói chung hình thành một trật tự hơn chứ không “loạn đao” kiểu tự do ai có tiền cứ in.
Tôi nhận xét rất chân thành đó cũng là thời kỳ tự do của văn học nghệ thuật miền Nam. Thí dụ, nếu không có tự do thì nhạc Trịnh Công Sơn không bao giờ có mặt được trên thị trường. Nhạc Trịnh đã có thời kỳ bị cấm trên các đài phát thanh, nhưng sau đó vì quyền tự do nên đã có nhiều đề nghị xem xét lại. Chính tôi đã tham dự một “hội nghị bàn tròn” của Đài Phát Thanh Quân Đội, hồi đó còn do anh Phạm Hậu tức nhà thơ Nhất Tuấn làm quản đốc, tổ chức “bàn tròn” ngay tại phòng vi âm, bàn về việc có nên cho nhạc Trịnh Công Sơn phổ biến trên đài PT QĐ hay không. Cuối cùng một số lớn nhạc Trịnh được phổ biến cả trên PT QĐ và đài Phát Thanh Sài Gòn. Rõ ràng nếu không có tự do ở miền Nam, nhạc Trịnh đã bị bóp chết ngay từ đầu, sẽ không có Trịnh Công Sơn. Và một điều nữa tôi nhận thấy nhạc Trịnh chỉ hay trong thời kỳ trước 1975, và hầu hết thính giả chỉ thích nhạc Trịnh vào thời đó. Sau này nhạc Trịnh không còn được như xưa nữa. Tôi hy vọng nhận định của tôi không hề thiên vị hoặc mang tính thời sự chính trị gì vào đây, chỉ là một nhận định khách quan, thuần túy mang tính văn nghệ của một người đã từng là thính giả, là người hoạt động trong lãnh vực truyền thông từ trước những ngày 1975.


Khác chăng lúc đó có một vài tờ báo đối lập, đó là cái quyền tự do ngôn luận, tất nhiên họ đi khác với một số chủ trương đường lối của chính quyền, họ bị kiểm duyệt gay gắt hơn, song báo của họ vẫn ra, các ông chủ báo vẫn sống nhăn và sống “huy hoàng” hơn cánh ký giả rách. Tôi không nhớ rõ lắm có bao nhiêu tờ báo. Khoảng vài chục báo hàng ngày kể cả “lớn” “nhỏ”. Tuần báo và nếu kể cả tạp chí cũng khá nhiều, khoảng năm bảy chục tờ của tư nhân hoặc nhóm này nhóm khác. Mỗi tờ có sắc thái riêng, nhằm đến một loại độc giả riêng.
Còn giải thưởng, tôi không nhớ rõ là bao nhiêu loại giải thưởng nhưng đáng kể nhất là Giải Văn Học Nghệ Thuật hàng năm của Tổng Thống VNCH. Giải này do Văn Hóa Vụ thuộc Phủ Tổng Thống phụ trách. Giải dành cho tất cả các bộ môn Văn học Nghệ thuật miền Nam như giải văn, thơ, nhạc, điện ảnh… Tôi không nhớ hết. Các Ban Giám Khảo do Văn Hóa Vụ thảo luận với Bộ Thông Tin đạt giấy mời, gồm nhiều thành phần của các bộ môn đó.
Tôi được mời làm giám khảo trong giải Điện Ảnh khoảng 3 năm sau cùng nên chỉ nói lại đôi điều về giải này. Ban Giám Khảo gồm đại diện nhà văn, nhà báo, nhà sản xuất phim, đài truyền hình. Giải Điện Ảnh chọn ra phim hay nhất trong năm, đạo diễn xuất sắc nhất, nam nữ tài tử chính và phụ xuất sắc nhất, truyện phim hay nhất, nhạc phim hay nhất, hình ảnh đẹp nhất…
Tất cả những điều tôi đã kể ở trên làm nên cốt lõi của văn học nghệ thuật miền nam từ 1954 đến 1975 và cũng là thành tựu chung của tất cả những vị đã góp công góp sức xây dựng nên hình ảnh đẹp đẽ đó cho đến tận ngày nay. Tôi tin rằng nhiều tác phẩm từ thời kỳ đó sẽ còn lại mãi với văn học nghệ thuật VN.
Tất nhiên tôi không thể trả lời đầy đủ một đề tài quá tổng quát như thế này và cũng không tránh khỏi nhầm lẫn vì tôi không phải là “nhà nghiên cứu” hay phê bình văn học. Tôi chỉ trả lời theo trí nhớ, lâu năm chắc không tránh khỏi khiếm khuyết.

Hoàng Lan Chi thực hiện 2013
